Tiểu Luận: Phép Biện Chứng Duy Vật, ý Nghĩa Của Nó Trong Nhận Thức ...

Trang chủ Trang chủ Tìm kiếm Trang chủ Tìm kiếm Tiểu luận: Phép biện chứng duy vật, ý nghĩa của nó trong nhận thức và thực tiễn. Liên hệ công tác của bản thân doc Số trang Tiểu luận: Phép biện chứng duy vật, ý nghĩa của nó trong nhận thức và thực tiễn. Liên hệ công tác của bản thân 14 Cỡ tệp Tiểu luận: Phép biện chứng duy vật, ý nghĩa của nó trong nhận thức và thực tiễn. Liên hệ công tác của bản thân 93 KB Lượt tải Tiểu luận: Phép biện chứng duy vật, ý nghĩa của nó trong nhận thức và thực tiễn. Liên hệ công tác của bản thân 4 Lượt đọc Tiểu luận: Phép biện chứng duy vật, ý nghĩa của nó trong nhận thức và thực tiễn. Liên hệ công tác của bản thân 218 Đánh giá Tiểu luận: Phép biện chứng duy vật, ý nghĩa của nó trong nhận thức và thực tiễn. Liên hệ công tác của bản thân 4.8 ( 20 lượt) Xem tài liệu Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu Tải về Chuẩn bị Đang chuẩn bị: 60 Bắt đầu tải xuống Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên Chủ đề liên quan tiểu luận triết học Phép biện chứng duy vật ý nghĩa của Phép biện chứng duy vật phép biện chứng Lý luận nhận thức duy vật biện chứng Vai trò của nhận thức

Nội dung

Đề bài: Phép biện chứng duy vật, ý nghĩa của nó trong nhận thức và thực tiễn. Liên hệ công tác của bản thân Mở bài Nhận thức, tư duy con người có quan hệ như thế nào với thế giới xung quanh? Con người có khả năng nhận thức được thế giới hiện thực hay không? Mà khi con người nhận thức được thế giới xung quanh thì việc áp dụng các hiểu biết đó vào thực tiễn như thế nào? Đây là một trong hai vấn đề cơ bản của triết học. Trong triết học Mac-Lenin, phép biện chứng duy vật được coi là phương pháp chung nhất của mọi hoạt động thực tiễn, giúp con người nhận thức được thế giới. Vậy phép biện chứng là gì và nó có ý nghĩa như thế nào đối với nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người? Chúng ta sẽ xem xét các vấn đề trên để hiểu rõ về phép biện chứng và vận dụng vào công tác của bản thân I. PHÉP BIỆN CHỨNG VÀ PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT 1. Phép biện chứng và các hình thức cơ bản của phép biện chứng a) Phép biện chứng * Sự đối lập giữa hai quan điểm biện chứng và siêu hình trong việc nhận thức thế giới và cải tạo thế giới: Tiêu chí so sánh Quan điểm siêu hình Mọi sự vật hiện tượng tồn Quan điểm biện chứng Mọi sự vật hiện tượng tồn tại tại cô lập, tách rời, không có trong mối quan hệ tác động mối quan hệ. Vận động là do tác động từ qua lại lẫn nhau Vận động là tự vận động, do bên ngoài, nguyên nhân bên sự đấu tranh giữa các mặt ngoài. Do những nguyên nhân bên đối lập trong bản thân sự vật. Vận động là tự nó, mâu ngoài, nếu có sự phát triển thuẫn là nguồn gốc của sự Quá trình phát triển chỉ là sự thay đổi về lượng. Chỉ thay đổi về lượng, phát triển. Phát triển từ thấp đến cao, từ diễn ra như thế không có sự thay đổi về đơn giản đến phức tạp, từ nào? chất, không có sự vật mới ra kém hoàn thiện đến hoàn Xem xét sự vật như thế nào? Tại sao có vận động? Nguồn gốc của sự phát triên? 1 đời. Sự phát triển diễn ra thiện hơn. Trong quá trình trong một vòng tuần hoàn phát triển sự vật mới ra đời khép kín. thay thế sự vật cũ. Phương pháp biện chứng Giúp con người có thể đi sâu nghiên cứu bản chất của Giá trị phương từng sự vật, hiện tượng riêng pháp? lẻ trong sự đứng im tạm thời của nó, trong một không gian và thời gian xác định. phản ánh hiện thực đúng như nó tồn tại, do đó phương pháp tư duy biện chứng trở thành công cụ hữu hiệu giúp con người nhận thức và cải tạo thế giới. Chỉ có tác dụng trong một phạm vi nhất định, không Hạn chế của phương pháp? đánh giá được bản chất của sự vật hiện tượng vì hiện thực không rời rạc và ngưng đọng như phương pháp này quan niệm. * Khái niệm phép biện chứng: - Biện chứng là khái niệm dùng để chỉ những mối liên hệ, tương tác, chuyển hóa và vận động, phát triển theo quy luật của các sự vật, hiện tượng, quá trình trong giới tự nhiên, xã hội và tư duy. - Biện chứng bao gồm: + Biện chứng khách quan là biện chứng của thế giới vật chất. + Biện chứng chủ quan là sự phản ánh biện chứng khách quan vào đời sống ý thức của con người. Ph.Ăng ghen viết: “Biện chứng gọi là khách quan thì chi phối trong toàn bộ giới tự nhiên, còn biện chứng gọi là chủ quan, tức là tư duy biện chứng, thì chỉ là phản ánh sự chi phối, trong toàn bộ giới tự nhiên…”1 1 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, t.20, tr.694. 2 - Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của thế giới thành hệ thống các nguyên lý, quy luật khoa học nhằm xây dựng hệ thống các nguyên tắc phương pháp luận của nhận thức và thực tiễn. Phép biện chứng thuộc về biện chứng chủ quan. Phép biện chứng đối lập với phép siêu hình - phương pháp tư duy về sự vật, hiện tượng của thế giới trong trạng thái cô lập tĩnh tại và tách rời. b) Các hình thức cơ bản của phép biện chứng Trong lịch sử triết học, phép biện chứng phát triển qua ba hình thức cơ bản: phép biện chứng chất phác thời cổ đại, phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức và phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lênin. * Phép biện chứng chất phác thời cổ đại - Phép biện chứng chất phác thời cổ đại là hình thức đầu tiên của phép biện chứng trong lịch sử triết học, là nội dung cơ bản trong nhiều hệ thống triết học của Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại. Tiêu biểu nhất của phép biện chứng chất phát thời cổ đại là các nhà triết học Hy Lạp cổ đại, như: nhà triết học duy tâm Platon, Hêraclit. Hêraclit coi sự biến đổi của thế giới như một dòng chảy. Ông nói: “Mọi vật đều trôi đi, mọi vật đều biến đổi”. “Người ta không thể tắm được hai lần trong cùng một dòng sông”… - Phép biện chứng chất phác thời cổ đại có đặc điểm là: Nhận thức đúng về tính biện chứng của thế giới nhưng không phải dựa trên thành tựu của khoa học mà bằng trực kiến thiên tài, bằng trực quan chất phác, là kết quả của sự quan sát trực tiếp. Do đó, chưa đạt tới trình độ phân tích giới tự nhiên, chưa chứng minh được mối liên hệ phổ biến nội tại của giới tự nhiên. - Từ nửa cuối thế kỷ XV, khoa học tự nhiên bắt đầu phát triển mạnh, đi vào nghiên cứu từng yếu tố riêng biệt của giới tự nhiên dẫn đến sự ra đời của phương pháp siêu hình và phương pháp này trở thành thống trị trong tư duy triết học và nghiên cứu khoa học vào thế kỷ XVIII. * Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức - Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức được khởi đầu từ Cantơ và hoàn thiện ở hệ thống triết học của G.Hêghen. 3 - Triết học cổ điển Đức đã trình bày những tư tưởng cơ bản nhất của phép biện chứng duy tâm một cách có hệ thống. Tính duy tâm trong triết học của G.Hêghen được biểu hiện ở chỗ, ông coi phép biện chứng là quá trình phát triển khởi đầu của “ý niệm tuyệt đối”, coi biện chứng chủ quan là cơ sở của biện chứng khách quan. Ông cho rằng “ý niệm tuyệt đối” là điểm khởi đầu của tồn tại, tự “tha hóa” thành giới tự nhiên và trở về với bản thân nó trong tồn tại tinh thần. Tinh thần, tư tưởng, ý niệm tuyệt đối là cái có trước, thế giới hiện thực chỉ là bản sao chép của ý niệm. Ph.Ăngghen nhận xét rằng: “Tính chất thần bí mà phép biện chứng đã mắc phải ở trong tay Hêghen tuyệt nhiên không ngăn cản Hêghen trở thành người đầu tiên trình bày một cách bao quát và có ý thức những hình thái vận động chung của phép biện chứng. Ở Hêghen, phép biện chứng bị lộn ngược đầu xuống đất. Chỉ cần dựng nó lại là sẽ phát hiện được cái hạt nhân hợp lý của nó ở đằng sau cái vỏ thần bí của nó”2 2. Phép biện chứng duy vật a) Khái niệm phép biện chứng duy vật Phép biện chứng duy vật do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng trên cơ sở kế thừa có phê phán hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng của G.W.Ph.Hêghen, là phép biện chứng dựa trên nền tảng của chủ nghĩa duy vật, xuất phát từ biện chứng khách quan của tự nhiên và xã hội. Theo Ph.Ăngghen: “Phép biện chứng ... là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”3 b) Đặc trưng cơ bản và vai trò của phép biện chứng duy vật * Đặc trưng: - Một là, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lênin là phép biện chứng được xác lập trên nền tảng của thế giới quan duy vật khoa học. Với đặc trưng này phép biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin chẳng những có sự khác biệt căn bản với phép biện chứng duy tâm của G.Hêghen mà còn có sự khác biệt về trình độ so với phép biện chứng duy vật cổ đại. 2 3 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t.20, tr.494. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t.20, tr.20. 4 - Hai là, trong phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác Lênin có sự thống nhất giữa nội dung của thế giới quan (duy vật biện chứng) với phương pháp luận (biện chứng duy vật) do đó, nó không dừng lại ở sự giải thích thế giới mà còn là công cụ để nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. * Vai trò: Với những đặc trưng cơ bản trên mà phép biện chứng duy vật giữ vai trò là nội dung đặc biệt quan trọng trong thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác-Lênin, tạo nên tính khoa học và tính cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, đồng thời nó cũng là thế giới quan và phương pháp luận chung nhất của hoạt động sáng tạo trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học. II. LÝ LUẬN NHẬN THỨC DUY VẬT BIỆN CHỨNG 1. Thực tiễn, nhận thức và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. a) Thực tiễn và các hình thức cơ bản của thực tiễn - Khái niệm thực tiễn: Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội. - Các hình thức cơ bản của thực tiễn: + Hoạt động sản xuất vật chất: là hoạt động cơ bản của hoạt động thực tiễn có vai trò quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội và là cơ sở cho các hoạt động khác của thực tiễn. + Hoạt động chính trị xã hội: nhằm biến đổi các quan hệ xã hội, chế độ xã hội (đấu tranh giai cấp, đấu tranh giải phóng dân tộc, đấu tranh vì hoà bình...), đây là hình thức cao nhất của hoạt động thực tiễn. + Hoạt động quan sát, thực nghiệm khoa học: đây là hình thức đặc biệt của hoạt động thực tiễn, được tiến hành trong những điều kiện nhân tạo để tạo ra cơ sở nhận thức, làm biến đổi tự nhiên và xã hội. b) Nhận thức và các trình độ của nhận thức - Khái niệm nhận thức: 5 Nhận thức là một quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm sáng tạo ra những tri thức về thế giới khách quan. Quan điểm này xuất phát từ những nguyên tắc cơ bản sau đây: + Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan đối lập với ý thức của con người. + Hai là, thừa nhận con người có khả năng nhận thức được thế giới khách quan, coi nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong đầu óc con người và cải biến đi ở đó. + Ba là, khẳng định phản ánh đó là một quá trình biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo. Quá trình đó đi từ cái chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều... - Các trình độ nhận thức: Theo quan điểm duy vật biện chứng, nhận thức là một quá trình, đó là quá trình đi từ trình độ nhận thức kinh nghiệm đến trình độ nhận thức lý luận, từ trình độ nhận thức thông thường đến trình độ nhận thức khoa học,... + Nhận thức kinh nghiệm là trình độ nhận thức hình thành từ quan sát trực tiếp các sự vật hiện tượng trong giới tự nhiên, xã hội hoặc qua các thí nghiệm khoa học nhằm đưa lại những tri thức kinh nghiệm (gồm tri thức kinh nghiệm thông thường và tri thức kinh nghiệm khoa học). + Nhận thức lý luận là trình độ nhận thức gián tiếp, trừu tượng, có tính hệ thống trong việc khái quát bản chất, quy luật của sự vật hiện tượng. + Nhận thức thông thường là nhận thức được hình thành một cách tư phát, trực tiếp từ trong hoạt động hằng ngày của con người. Nhận thức thông thường mang tính phong phú, nhiều vẻ và gắn với những quan niệm sống thực tế hằng ngày. Vì thế, nó có vai trò thường xuyên và phổ biến chi phối hoạt động của con người trong đời sống xã hội. + Nhận thức khoa học là nhận thức được hình thành một cách tự giác và gián tiếp từ sự phản ánh đặc điểm, bản chất, những quan hệ tất yếu của đối tượng nghiên cứu. Nhận thức khoa học vừa có tính khách quan, trừu tượng, khái quát lại vừa có tính hệ thống, có căn cứ và có tính chân thực. 6 c) Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức Thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp của nhận thức, là động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. - Thực tiễn là cơ sở và mục đích của nhận thức + Mọi tri thức đều được bắt nguồn từ thực tiễn. Nếu như không có hoạt động thực tiễn loài người sẽ không có sự hiểu biết nào hết. + Chỉ có thông qua hoạt động thực tiễn mới làm cho các giác quan của con người trở nên hoàn thiện hơn. Đồng thời cũng thông qua hoạt động thực tiễn con người chế tạo ra các phương tiện công cụ nhằm hỗ trợ cho các giác quan, giúp cho các quá trình nhận thức phát triển. + Tri thức do nhận thức đem lại chỉ trở thành sức mạnh vật chất khi được áp dụng có hiệu quả trong hoạt động thực tiễn. Như vậy, nhận thức không phải là để nhận thức mà có mục đích cuối cùng, đó là giúp cho con người trong hoạt động và biến đổi thế giới. - Thực tiễn là động lực thúc đẩy quá trình vận động, phát triển của nhận thức + Thông qua hoạt động thực tiễn, con người làm cho sự vật, hiện tượng bộc lộ những thuộc tính, những liên hệ, trên cơ sở đó con người nhận thức chúng. Như vậy, thực tiễn đã đem lại những tài liệu cho quá trình nhận thức nắm được bản chất, các quy luật của thế giới. + Thực tiễn còn làm hoàn thiện giác quan của con người, tạo ra những phương tiện làm tăng khả năng nhận biết của các giác quan, nhờ đó nó thức đẩy nhận thức phát triển. - Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm nghiệm tính chân lý trong quá trình phát triển nhận thức. Mọi sự vận động và biến đổi của nhận thức suy cho cùng không thể vượt ra ngoài sự kiểm tra của thực tiễn. Chính thực tiễn có vai trò là tiêu chuẩn, thước đo giá trị của những tri thức đã đạt được trong nhận thức. Đồng thời nó bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa, phát triển và hoàn thiện nhận thức. - Tính thống nhất biện chứng giữa thực tiễn và nhận thức 7 Thực tiễn chẳng những là điểm xuất phát của nhận thức, là yếu tố đóng vai trò quyết định đối với sự hình thành và phát triển của nhận thức mà còn là nơi nhận thức phải luôn luôn hướng tới để thể nghiệm tính đúng đắn của mình. * Ý nghĩa phương pháp luận: Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn quán triệt quan điểm thực tiễn. Nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn. Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành. Xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu. Nếu tuyệt đối hoá vai trò thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng và kinh nghiệm chủ nghĩa. * Liên hệ với công tác của bản thân Trong công tác, mỗi chúng ta phải nhìn nhận vào thực tiễn, gắn liền với thực tiễn, mọi kế hoạch, phương án đều không được xa rời thực tiễn, có như vậy thì với mang lại kết quả cao. Học phải đi đôi với hành, nghĩa là mang những tri thức khoa học tiếp thu được áp dụng vào công tác phải biết vận dụng sao cho khéo léo, cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế, tránh tình trạng dập khuôn máy móc, duy ý chí để nhận lấy thất bại là điều không thể tránh khỏi. Tuy nhiên trong mỗi công việc cần phải có lý luận dẫn đương, tránh tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn mà xem nhẹ lý luận để rồi như người lọ mò tìm đường đi mà không biết đâu là đích đến. Ví dụ: trong công việc (hay là trong cuộc sống…… làm gì thì ghi vào) 2. Con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý a) Quan điểm của V.I.Lênin về con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý Lênin chỉ rõ “từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan” (V.I.Lênin - Bút ký triết học, 1963, tr.189). - Giai đoạn từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính và mối quan hệ giữa chúng 8 Nhận thức cảm tính là giai đoạn mở đầu của quá trình nhận thức. Đây là giai đoạn thấp của quá trình nhận thức. Trong giai đoạn này, nhận thức được thực hiện qua ba hình thức cơ bản là cảm giác, tri giác và biểu tượng. + Cảm giác: là hình thức đầu tiên của quá trình nhận thức, là nguồn gốc của mọi hiểu biết, cảm giác xuất hiện, khi con người trực tiếp tiếp xúc với sự vật, mỗi một giác quan đem lại cho ta một hoặc một vài thuộc tính nào đó của sự vật. Nhưng giữa chúng còn rời rạc, lẻ tẻ. + Tri giác: là sự tổng hợp nhiều cảm giác, nó đem lại cho chúng ta hình ảnh hoàn chỉnh hơn về sự vật, từ những tài liệu ở giai đoạn cảm giác mang lại, lúc này các thuộc tính của sự vật được liên kết lại với nhau cho chúng ta hình ảnh của sự vật. Ở giai đoạn này con người vẫn phải trực tiếp tiếp xúc với sự vật. + Biểu tượng: là hình ảnh của sự vật được lưu lại trong trí nhớ, lúc này con người không cần trực tiếp tiếp xúc với sự vật nữa nhưng đã có thể tưởng tượng ra trong óc của mình hình ảnh khái quát về sự vật. Tuy nhiên, ở giai đoạn nhận thức cảm tính là giai đoạn phản ánh trực tiếp hiện thực khách quan, nó mới phản ánh được cái bên ngoài, cái hiện tượng của sự vật, nó chưa phản ánh được cái chung, cái bản chất. Vì vậy, đòi hỏi quá trình nhận thức phải phát triển lên bước mới cao hơn. Nhận thức lý tính là giai đoạn cao hơn của quá trình nhận thức. Đó là sự phản ánh gián tiếp, trừu tượng và khái quát những thuộc tính, những đặc điểm bản chất của sự vật khách quan. Nhận thức lý tính được thực hiện thông qua ba hình thức cơ bản: khái niệm, phán đoán và suy lý (suy luận). + Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những đặc tính bản chất của sự vật. Sự hình thành khái niệm là kết quả của sự khái quát, tổng hợp biện chứng các đặc điểm, thuộc tính của sự vật hay một lớp sự vật. Khái niệm là cơ sở để hình thành các phán đoán trong quá trình con người tư duy về hiện thực khách quan. + Phán đoán là hình thức của tư duy liên kết các khái niệm lại với nhau để khẳng định hoặc phủ định một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của đối tượng. 9 Theo trình độ phát triển của nhận thức, phán đoán được phân chia làm ba loại là phán đoán đơn nhất (ví dụ: đồng dẫn điện), phán đoán đặc thù (ví dụ: đồng là kim loại) và phán đoán phổ biến (ví dụ: mọi kim loại đều dẫn điện). Phán đoán phổ biến là hình thức thể hiện sự bao quát rộng lớn nhất về đối tượng. + Suy lý là hình thức của tư duy liên kết các phán đoán lại với nhau để rút ra tri thức mới bằng phán đoán mới. Ví dụ, nếu liên kết phán đoán "Kim loại thì dẫn điện" với phán đoán "Đồng là kim loại" ta rút ra được một phán đoán mới là "Đồng dẫn điện". Tùy theo sự kết hợp các phán đoán theo trật tự nào (từ phán đoán đơn nhất qua phán đoán đặc thù, rồi tới phán đoán phổ biến hoặc ngược lại) mà người ta có được hình thức suy luận quy nạp hay diễn dịch. Giai đoạn nhận thức lý tính là giai đoạn phản ánh gián tiếp hiện thực khách quan. Nó đã phản ánh được cái chung, cái bản chất, cái tất yếu của sự vật. - Mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Nhận thức cảm tính khác nhận thức lý tính ở chỗ: nhận thức cảm tính là giai đoạn thấp, phản ánh khách thể một cách trực tiếp, đem lại những tri thức cảm tính. Ngược lại, nhận thức lý tính là giai đoạn cao, phản ánh khách thể một cách gián tiếp, khái quát, đem lại những tri thức về bản chất và quy luật của khách thể. Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là giai đoạn của một quá trình nhận thức dựa trên cơ sở thực tiễn. Giữa chúng có sự tác động qua lại: nhận thức cảm tính cung cấp tài liệu cho nhận thức lý tính, nhận thức lý tính tác động trở lại nhận thức cảm tính làm cho nó chính xác hơn. - Giai đoạn nhận thức lý tính đến thực tiễn Giai đoạn nhận thức lý tính con người đã nhận thức được cái chung, cái bản chất, cái tất yếu của sự vật, tức là nội dung của nó phản ánh thế giới khách quan. Nhưng hình thức lại là quá trình tư duy chủ quan của con người. Vì vậy, chưa biết được quá trình nhận thức đó là đúng hay sai. Muốn biết nó là đúng hay sai chỉ có cách đưa vào thực tiễn để kiểm tra, chứng minh: + Nếu thực tiễn kiểm tra là đúng thì có tính chân lý + Nếu thực tiễn kiểm tra là sai đòi hỏi cẩn phải được nhận thức lại 10 - Khái quát tính quy luật chung của quá trình vận động, phát triển nhận thức: là từ thực tiễn đến nhận thức - từ nhận thức đến thực tiễn - nhận thức,... Đây là quá trình lặp đi lặp lại, không có điểm dừng cuối cùng, trình độ nhận thức và thực tiễn ở chu kỳ sau thường cao hơn chu kỳ trước, nhờ đó mà quá trình nhận thức đạt dần tới những tri thức ngày càng đúng đắn hơn, đầy đủ hơn và sâu sắc hơn về thực tại khách quan. Đây cũng chính là quan điểm về tính tương đối của nhận thức của con người trong quá trình phản ánh thực tế khách quan. - Ý nghĩa phương pháp luận Xuất phát từ bản chất quá trình nhận thức, muốn cải tạo thế giới, phục vụ lợi ích con người, thì quá trình nhận thức đó phải được thông qua hoạt động thực tiễn nó mới cải tạo được hiện thực. * Liên hệ với công tác của bản thân Trong cuộc sống, mỗi chúng ta đều có lý tưởng để cải tạo cuộc sống, nâng cao đời sống và hoàn thiện bản thân. Muốn những ý tưởng đó trở thành hiện thực thì không có cách nào khác là phải “bắt tay vào làm” thì với mong điều đó trở thành hiện thực. Nếu lý tưởng của anh có cao siêu và đẹp đẽ như thế nào, nhưng không mang ra để hành động, gắn nó vào thực tiễn thì chỉ là lý luận suông và mơ ước hão huyền. Vì vậy hãy biết hành động, đưng bao giờ để “ước mơ mãi là mơ ước” Ví dụ: trong công việc (hay là trong cuộc sống…… làm gì thì ghi vào) b) Chân lý và vai trò của chân lý đối với thực tiễn - Khái niệm chân lý Chân lý là những tri thức có nội dung phù hợp với hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm. - Các tính chất của chân lý: + Tính khách quan: Nội dung chân lý phản ánh là thế giới khách quan nó lại được thực tiễn kiểm tra, chứng minh cho thấy nội dung chân lý phản ánh là đúng với thế giới khách quan. Vì vậy chân lý mang tính khách quan. 11 + Tính tuyệt đối: Chân lý tuyệt đối là những tri thức hoàn toàn đầy đủ toàn diện và chính xác về thế giới khách quan. + Tính tương đối: Chân lý tương đối là những tri thức phản ánh đúng đắn về thế giới khách quan nhưng chưa toàn diện, chưa bao quát hết mọi mặt của hiện thực mà chỉ trong phạm vi, điều kiện nhất định. Theo Lênin: nhận thức của con người có thể đạt tới chân lý tuyệt đối. Nhưng chỉ gần tới mà thôi, từ thế hệ này sang thế hệ khác con người chỉ tiến gần tới chứ không bao giờ đạt tới chân lý tuyệt đối. + Tính cụ thể của chân lý: bất kỳ chân lý nào cũng gắn với những điều kiện lịch sử cụ thể – nếu thoát ly điều đó thì những tri thức được hình thành trong quá trình nhận thức sẽ rơi vào sự trừu tượng thuần tuý vì thế nó không phải là tri thức đúng đắn và không được coi là chân lý. - Vai trò của chân lý đối với thực tiễn + Chân lý là một trong những điều kiện tiên quyết bảo đảm sự thành công và tính hiệu quả trong hoạt động thực tiễn. Hoạt động thực tiễn chỉ có thể thành công và có hiệu quả một khi con người vận dụng được tri thức đúng đắn về thực tế khách quan trong chính hoạt động thực tiễn của mình. + Mối quan hệ giữa chân lý và hoạt động thực tiễn là mối quan hệ biện chứng trong quá trình vận động và phát triển của chân lý và thực tiễn: chân lý phát triển nhờ thực tiễn và thực tiễn phát triển nhờ sự vận dụng đúng đắn chân lý đạt được trong hoạt động thực tiễn. - Ý nghĩa phương pháp luận Quan điểm biện chứng về mối quan hệ biện chứng giữa chân lý và thực tiễn đòi hỏi trong hoạt động nhận thức con người cần xuất phát từ thực tiễn để đạt được chân lý, phải coi chân lý cũng là một quá trình. Đồng thời, phải thường xuyên tự giác vận dụng chân lý vào trong hoạt động thực tiễn để phát triển thực tiễn, nâng cao hiệu quả hoạt động cải biến giới tự nhiên. Việc nắm vững nguyên tắc về tính cụ thể của chân lý có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn. Nó đòi hỏi khi xem xét đánh 12 giá mỗi sự vật hiện tượng mỗi việc làm của con người phải dựa trên quan điểm lịch sử - cụ thể mà vận dụng lý luận chung cho phù hợp. * Liên hệ với công tác của bản thân Không có một lý luận nào mãi đúng và luôn đúng, nó chỉ đúng khi chúng ta áp dụng vào hoàn cảnh cụ thể. Thông qua quá trình vận dụng những tri thức khoa học có được vào công tác mà chúng ta rút ra những tri thức khoa học mới. Vì vậy khi xem xét, đánh giá về sự vật, hiện tượng hay việc gì trong cuộc sống thì mỗi chúng ta đều phải dựa tên quan điểm lịch sử - cụ thể mà vận dụng tri thức khoa học ấy cho phù hợp. Ví dụ: trong công việc (hay là trong cuộc sống…… làm gì thì ghi vào) Kết luận: Phép biện chứng duy vật ra đời là một quá trình hợp với quy luật phát triển của nhận thức. Đây là một triết học toàn diện nhất, sâu sắc nhất và triệt để nhất của sự vận động và phát triển của thế giới vật chất với bản chất khoa học, cách mạng. Phép biện chứng duy vật đã, đang và tiếp tục cung cấp cho chúng ta hệ thống các nguyên tắc phương pháp luận phổ biến, thực sự khoa học và có hiệu quả trong nhận thức và hoạt động thực tiễn xã hội nói chung. Vận dụng trung thành và sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, đặc biệt là phép biện chứng duy vật là vấn đề nguyên tắc đối với tất cả các Đảng Cộng sản và phong trào công nhân quốc tế, trong đó có Việt Nam. Thực tiễn chứng minh rằng, trải qua những bước khác nhau trong mọi hoàn cảnh, phép biện chứng duy vật luôn tỏ ra là đỉnh cao của trí tuệ con người, luôn có ý nghĩa thực tiễn hết sức to lớn. Thực tiễn cũng luôn xảy ra các vấn đề hết sức phức tạp của từng nước, từng quốc gia, từng dân tộc và đặc điểm văn hóa, kinh tế, xã hội… Ngày nay, việc bảo vệ phép biện chứng duy vật dưới sự xuyên tạc của những kẻ thù tư tưởng của nó, cũng như việc thường xuyên nghiên cứu, phát triển, hoàn thiệm nó đều hết sức qua trọng. Muốn bảo vệ trước hết phải phân tích, muốn phát triển phải bảo vệ bảo chất khoa học cách mạng của phép biện chứng. Thực tế khẳng 13 định rằng, việc đó không chỉ là vấn đề thuần túy lý luận mà còn là vấn đề có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc hiện nay. Trong công tác của bản thân mỗi người, nếu chúng ta hiểu rõ, hành động đúng với phép biện chứng trong nhận thức và thực tiễn thì chắc chắn sẽ thành công bởi “lý luận không có thực tiễn là lý luận suông”, “làm việc không có lý luận soi đường là làm việc mù quáng”. 14 This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.

Tìm kiếm

Tìm kiếm

Chủ đề

Lý thuyết Dow Đồ án tốt nghiệp Mẫu sơ yếu lý lịch Giải phẫu sinh lý Bài tiểu luận mẫu Atlat Địa lí Việt Nam Tài chính hành vi Hóa học 11 Trắc nghiệm Sinh 12 Đề thi mẫu TOEIC Đơn xin việc Thực hành Excel adblock Bạn đang sử dụng trình chặn quảng cáo?

Nếu không có thu nhập từ quảng cáo, chúng tôi không thể tiếp tục tài trợ cho việc tạo nội dung cho bạn.

Tôi hiểu và đã tắt chặn quảng cáo cho trang web này

Từ khóa » Tiểu Luận Về Duy Vật Biện Chứng