TIỂU LUẬN TRIẾT Học Sự CHUYỂN Hóa Của Các Mặt đối Lập ...
Có thể bạn quan tâm
Phép biện chứng là một khoa học triết học, xét trên nhiều phương diện, nó là hiện tượng có ý nghĩa thế giới quan rộng lớn như bản thân triết học. Như vậy, lịch sử phép biện chứng hình thành, phát triển từ khi triết học ra đời, mà đỉnh cao của nó là phép biện chứng mácxít. Phép biện chứng duy vật mácxít dựa trên truyền thống tư tưởng biện chứng của nhiều thế kỷ, vạch ra những đặc trưng chung nhất của biện chứng khách quan, nghiên cứu những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội và của tư duy. Nó là chìa khoá để giúp con người nhận thức và chinh phục thế giới.
Trang 1Phép biện chứng là một khoa học triết học, xét trên nhiều phươngdiện, nó là hiện tượng có ý nghĩa thế giới quan rộng lớn như bản thân triếthọc Như vậy, lịch sử phép biện chứng hình thành, phát triển từ khi triếthọc ra đời, mà đỉnh cao của nó là phép biện chứng mácxít Phép biệnchứng duy vật mácxít dựa trên truyền thống tư tưởng biện chứng của nhiềuthế kỷ, vạch ra những đặc trưng chung nhất của biện chứng khách quan,nghiên cứu những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tựnhiên, của xã hội và của tư duy Nó là chìa khoá để giúp con người nhậnthức và chinh phục thế giới Nắm vững những nguyên tắc, phương phápluận của phép biện chứng duy vật không những là một nhân tố cơ bản đểhình thành thế giới quan khoa học, mà còn là điều kiện tiên quyết cho sựsáng tạo của chính đảng cách mạng Lịch sử tư tưởng và thực tiễn cáchmạng cho ta thấy, khi nào chúng ta nắm vững lý luận phép biện chứng, biếtvận dụng các nguyên tắc, phương pháp của nó một cách sáng tạo, phù hợpvới hoàn cảnh cụ thể, biết lấy “cái bất biến” ứng vào “cái vạn biến” - nhưChủ tịch Hồ Chí Minh nói - thì vai trò và hiệu lực cải tạo tự nhiên, biến đổi
xã hội được tăng cường Ngược lại, cách nghĩ, cách làm chủ quan duy ýchí, siêu hình sẽ dẫn đến sai lầm, khuyết điểm quan trọng, gây tổn thất chocách mạng và quá trình phát triển xã hội nói chung Vì vậy, học tập nghiêncứu sự hình thành và phát triển phép biện chứng trong lịch sử là một nhucầu hết sức cần thiết Nó không những cho phép chúng ta nắm vững phépbiện chứng duy vật, thấu suốt những nguyên tắc phương phương luận của
nó, mà còn giúp chúng ta nắm được bức tranh toàn cảnh, hiểu được nguồngốc ra đời, sự hình thành phát triển qua quá trình đấu tranh gay gắt vớinhững tư tưởng của phép siêu hình, cũng như phép biện chứng duy tâm để
Trang 2khẳng định vị trí to lớn của nó trong nhận thức và cải tạo thế giới của conngười.
Trong lịch sử triết học đã tồn tại hai phương pháp đối lập nhau trongviệc xem xét thế giới Đó là, phương pháp biện chứng và phương pháp siêuhình Phương pháp siêu hình xem xét các sự vật, hiện tượng, quá trìnhtrong thế giới một cách riêng rẽ, biệt lập, không có liên hệ giàng buộc lẫnnhau; và nếu có thì chỉ là sự liên hệ giản đơn, hời hợt, bên ngoài Phươngpháp biện chứng xem xét các sự vật, hiện tượng, quá trình trong thế giới trongmối liên hệ hữu cơ, chằng chịt với nhau và tác động ảnh hưởng lẫn nhau, làcái vốn có của bản thân các sự vật, hiện tượng trong thế giới - đó chính làbiện chứng khách quan của thế giới Biện chứng khách quan này được phảnánh vào bộ óc người diễn ra biện chứng chủ quan
Như vậy, phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa thếgiới quan duy vật với phương pháp biện chứng; giữa lý luận nhận thức vớilôgíc biện chứng Sự ra đời của phép biện chứng duy vật là cuộc cách mạngtrong phương pháp tư duy triết học; là phương pháp tư duy khác về chất so
với các phương pháp tư duy trước đó; là “phương pháp mà điều căn bản là
nó xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng trong tư tưởng, trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng” 1 Phép biện chứng duy vật có khả năng
đem lại cho con người tính tự giác cao trong mọi hoạt động Mỗi luận điểmcủa phép biện chứng duy vật là kết quả của sự nghiên cứu rút ra từ giới tựnhiên, cũng như lịch sử xã hội loài người Mỗi nguyên lý, quy luật, phạm trùcủa phép biện chứng đều được khái quát và luận giải trên cơ sở khoa học
Theo Ăngghen: “Biện chứng gọi là khách quan thì chi phối toàn bộ giới tự
nhiên, còn biện chứng gọi là chủ quan, tức là tư duy biện chứng, thì chỉ là phản ánh sự chi phối trong toàn bộ giới tự nhiên, của sự vận động thông qua
1 Mác - Ăngghen: toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2004, t20, tr.38.
Trang 3những mặt đối lập, tức là những mặt, thông qua sự đấu tranh thường xuyên của chúng và sự chuyển hoá cuối cùng từ mặt đối lập này thành mặt đối lập kia, tương tự với những hình thức cao hơn, đã quy định sự sống của giới tự nhiên” 2
Quan điểm triết học cho rằng, biện chứng chủ quan là cái có trước,quyết định biện chứng khách quan - đó là phép biện chứng duy tâm Còn phépbiện chứng duy vật thì khẳng định rằng, biện chứng khách quan có trước,quyết định biện chứng chủ quan Mặc dù bị biện chứng khách quan quyếtđịnh, nhưng biện chứng chủ quan có tính độc lập tương đối và có quy luậtriêng của mình Dựa trên những thành tựu của khoa học hiện đại và thực tiễn
xã hội, phép biện chứng duy vật hình thành một hệ thống những nguyên lý,quy luật và phạm trù để phản ánh thế giới khách quan Ph Ăngghen khẳng
định: “phép biện chứng…môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự
vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội loài người và tư duy.” 3 Đó là một
học thuyết toàn diện nhất, sâu sắc nhất, cách mạng nhất về sự liên hệ phổ biến
và sự phát triển
Nội dung của phép biện chứng duy vật hết sức phong phú, trong đó baogồm rất nhiều vấn đề cơ bản, song trong phạm vi bài viết tiểu luận này dođiều kiện thời gian, và trình độ nghiên cứu còn hạn chế…nên chúng tôi khôngthể đề cập tới tất cả các nội dung của phép biện chứng mà chủ yếu tập trung
làm rõ một số vấn đề thuộc phạm trù về “chuyển hoá” của các mặt đối lập và
sự vận dụng của nó trong hoạt động thực tiễn cách mạng cũng như trongcông tác quản lý, giáo dục đào tạo, rèn luyện học viên tại các học viện, nhàtrường trong Quân đội ta hiện nay
Trong phép biện chứng, khái niệm chuyển hoá được dùng hết sức phổbiến Phép biện chứng đối lập với phép siêu hình là ở chỗ nó khẳng định rằng
2 Sđd, tập 20, tr 694.
3 Ph Ăng-ghen, chống Đuy-rinh, nhà xuất bản sự thật, Hà Nội 1994, trang 235.
Trang 4mọi sự vật, hiện tượng trên thế giới không cố định, không đứng im một chỗ,không bất biến mà luôn vận động biến đổi không ngừng, luôn chuyển hoá từ
dạng này sang dạng khác Lênin đã từng khẳng định: “Biểu tượng thông
thường nắm được sự khác nhau và mâu thuẫn, nhưng không nắm được sự chuyển hoá từ cái này sang cái kia mà chính điều đó mới quan trọng nhất” 4
Và trong sự phát triển, đồng thời Lênin cũng đã làm rõ sự đối lập giữa haiquan điểm trên về sự chuyển hóa là: “Hai quan niệm cơ bản… về sự pháttriển (sự tiến hoá): sự phát triển coi như là giảm đi và tăng lên, như là lặplại, và sự phát triển coi như là sự thống nhất của các mặt đối lập (sự phânđôi của cái thống nhất thành những mặt đối lập bài trừ lẫn nhau và mốiquan hệ lẫn nhau giữa những mặt đối lập ấy)… Quan niệm thứ nhất làchết cứng, nghèo nàn, khô khan Quan niệm thứ hai là sinh động Chỉ có
quan niệm thứ hai mới cho ta chìa khoá của sự “tự vận động” của tất thảy mọi cái đang tồn tại; chỉ có nó mới cho ta chìa khoá của những “bước
nhảy vọt", của sự “gián đoạn của tính tiệm tiến”, của sự “chuyển hoá thành mặt đối lập”, của sự tiêu diệt cái cũ và sự nảy sinh ra cái mới” 5
Khái niệm chuyển hoá ở đây dùng để chỉ sự biến đổi của sự vật này sang sựvật khác, của hiện tượng này thành hiện tượng khác Điều này về mặt khoahọc tự nhiên, định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng đã chứng minh đó
là năng lượng không những luôn được bảo toàn mà còn luôn luôn có sựchuyển hoá từ dạng này sang dạng khác (từ cơ năng sang nhiệt năng, từ nhiệtnăng sang điện năng v.v) Trong giới tự nhiên có sự chuyển hoá từ giới vô cơthành giới hữu cơ, từ động vật thấp đến động vật cao v.v Khi chứng minh
sự vận động phát triển của xã hội loài người, Ăngghen đã khẳng định về vai
trò của lao động trong sự chuyển hoá từ vượn thành người Nhưng “sự
4 Lnin toàn tập, tập 29 nhà xuất bản tiến bộ Mát-xcơ-va, 1981, trang 151.
5 Sđd, tập 29, tr 379.
Trang 5chuyển hoá” như thế rất phổ biến Đó là một nguyên lý quan trọng của phép
biện chứng khách quan
Trong tư duy phép biện chứng lại nói đến sự chuyển hoá của nhữngkhái niệm điều này chính Hêghen là người đã đưa ra phép biện chứng củanhững khái niệm, nhưng đó là phép biện chứng duy tâm Khắc phục những
thiếu sót của Hêghen, chắt lọc những “hạt nhân hợp lý” trong phép biện chứng đó, Lênin đã viết: “Trong sự thay thế, sự phụ thuộc lẫn nhau của tất cả
các khái niệm, trong tính đồng nhất của tất cả các mặt đối lập của chúng, trong những chuyển hoá của những khái của một khái niệm này sang một khái niệm khác, trong sự thay thế, sự vận động vĩnh viễn của những khái niệm, Hêghen đã đoán được một cách tài tình chính mối quan hệ như vậy, của sự vật, của giới tự nhiên…sự chuyển hoá của những khái niệm từ cái này sang cái kia Sự chuyển hoá của tất cả mọi khái niệm không trừ khái niệm nào…”6
Qua đây lần nữa cho chúng ta thấy rằng sự chuyển hoá của những kháiniệm chẳng qua chỉ là sự phản ánh những chuyển hóa của các sự vật hiệntượng trong hiện thực khách quan Sự vận động chuyển hoá của thế giới vậtchất được tư duy con người phản ánh vào trong não của mình Đây cũng là
sự khác nhau căn bản về chất trong quan niệm về sự chuyển hoá của tư duygiữa triết học Mác Lênin và các dòng triết học trước đó, khẳng định tínhđúng đắn, khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Như vậy có thể khẳng định sự chuyển hoá là vô cùng, vô tận diễn ratrong mọi điều kiện hoàn cảnh đối với mọi lĩnh vực của thế giới cả vật chấtlẫn tinh thần Ở đây không bàn đến sự chuyển hoá của các sự vật và hiệntượng nói chung, hay sự chuyển hoá của những khái niệm trong lĩnh vực tư
duy Mà chủ yếu tập trung bàn đến sự chuyển hoá của các mặt đối lập trong
các quy luật, các cặp phạm trù của phép biện chứng Để từ đó có cái nhìn
6 Sđd, tập 29, tr 209 - 210.
Trang 6đúng hơn về phép biện chứng trong sự vận động phát triển của thế giới Trên
cơ sở đó thấy được sự vận dụng của phong trào cách mạng thế giới trong giaiđoạn vừa qua, đấu tranh với những xuyên tạc của kẻ thù trên lĩnh vực tưtưởng Đồng thời làm cơ sở cho việc vận dụng giải quyết những mâu thuẫn,những vấn đề nảy sinh trong công tác giáo dục, quản lý học viên ở các họcviện, nhà trường trong Quân đội Nhân dân Việt Nam
1 Nguyên lý về sự chuyển hóa của các mặt đối lập trong phép biện chứng duy vật
Nguyên lý về sự chuyển hóa của các mặt đối lập trong phép biện chứngnói chung cũng như trong sự phân tích những mâu thuẫn cụ thể của các sựvật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội là vô cùng phong phú và linh hoạt.Điều này đã được Mác và Ăngghen ví dụ, chứng minh một cách sâu sắc và cụ
thể Khi nghiên cứu về lĩnh vực tự nhiên, Ăngghen đã viết: “ Nếu người ta cắt
một thanh nam châm làm đôi, thì khoảng giữa trước là trung hòa, nay bị phân cực, nhưng phân cực sao cho những cực cũ vẫn y nguyên Trái lại nếu
ta cắt đôi một con sâu, thì nó giữ lại ở cực dương cái miệng để ăn, và tạo ra
ở đầu kia một cực âm mới có hậu môn để bài tiết; nhưng cái cực âm cũ ( hậu môn ) bây giờ trở thành cực dương nghĩa là trở thành cái miệng và ở chỗ bị cắt lại thành ra một cái hậu môn mới hay là cực âm Đó là sự chuyển hóa từ cực dương sang cực âm”7
Với chúng ta vấn đề có ý nghĩa thực tiễn quan trọng là vận dụng nhữngnguyên lý này vào việc phân tích những mâu thuẫn trong xã hội Lịch sử loàingười đã chứng minh rằng, cuộc đấu tranh giai cấp giữa chủ nô và nô lệ pháttriển đến mức độ nào đó thì cả hai giai cấp đều biến đi, nhường chỗ cho sự rađời của hai giai cấp khác là địa chủ và nông dân Trong xã hội phong kiến , ởmột số nước phương tây cuộc đấu tranh giữa địa chủ và nông dân đã diễn rahàng nghìn năm, nhưng cuối cùng không đưa lại một chế độ xã hội mới, vì
7 PH Ăng ghen;’ chống Đuy-rinh, nhà xuất bản sự thật, Hà Nội 1971, trang 332.
Trang 7giai cấp nông dân không đại diện cho một phương thức sản xuất mới Để giảithích sự vận động của xã hội phong kiến ở những nước đó, Ở đây ta phải phântích một mâu thuẫn khác: mâu thuẫn giữa một bên là địa chủ phong kiến vớimột bên là ba giai cấp tư sản, vô sản và nông dân Trong ba giai cấp này thìgiai cấp tư sản đóng vai trò lãnh đạo Nên khi mâu thuẫn được giải quyết thì
có sự chuyển hóa về vị trí của hai giai cấp phong kiến và tư sản Giai cấpphong kiến từ chỗ là giai cấp lãnh đạo trở thành giai cấp bị trị còn giai cấp tưsản từ chỗ là giai cấp bị trị lại trở thành giai cấp thống trị Ở Việt Nam cuộcđấu tranh giữa địa chủ phong kiến và nông dân cũng diễn ra hàng nghìn năm,
có lúc giai cấp nông dân đã lật đổ được ách thống trị của phong kiến (cuộccách mạng Tây Sơn) nhưng cuối cùng rồi cũng lập lại chế độ phong kiến ởđây sự chuyển hóa của hai mặt đối lập không mang lại một chế độ xã hội mới.Điều này do tính chất đặc thù của hai mặt đối lập trong chế độ xã hội đó và dođiều kiện lịch sử của xã hội ta lúc bấy giờ
Trong xã hội tư sản, cuộc đấu tranh giữa hai giai cấp tư sản và vô sảncũng đi đến chỗ chuyển hóa lẫn nhau Nhưng ở đây không được hiểu mộtcách máy móc là giai cấp tư sản trở thành vô sản còn giai cấp vô sản trở thànhgiai cấp tư sản Mà ở đây với một ý nghĩa nào đó thì có thể nói giai cấp tư sản
từ chỗ là giai cấp thống trị trở thành giai cấp bị trị, còn giai cấp vô sản từ chỗ
là giai cấp bị tri sau khi thực hiện cuộc cách mạng xã hội xã hội chủ nghĩa trởthành giai cấp thống trị khi thực hiện nhiệm vụ chuyên chính vô sản củamình Thực ra nói như vậy không phản ánh hết thực tế khách quan diễn ra.Bởi sau khi cách mạng vô sản thành công, giai cấp tư sản không còn là mộtgiai cấp như cũ nữa và bản thân giai cấp vô sản cũng không còn là giai cấp “
vô sản” nữa mà đã có sự thay đổi hẳn về địa vị, họ đã trở thành giai cấp cùngvới nhân dân lao động làm chủ xã hội, làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu
của xã hội Mác và Ăng ghen đã viết “… Sau khi giành được thắng lợi, giai
cấp vô sản không hề trở trở thành mặt tuyệt đối của xã hội, vì nó giành thắng
Trang 8lợi chỉ bằng cách tự thủ tiêu mình và thủ tiêu cả mặt đối lập của mình Với thắng lợi của giai cấp vô sản, bản thân giai cấp vô sản cũng như mặt đối lập chế ước nó, chế độ tư hữu - sẽ biến mất ”8.
Trong thực tiễn cách mạng, Đảng ta đã vận dụng nguyên lý về sựchuyển hóa của các mặt đối lập vào rất nhiều trường hợp khác nhau, ở mỗithời điểm lịch sử khác nhau, mỗi tình huống cách mạng khác nhau, Đảng tađều căn cứ vào tình hình thực tế và xem xét, giải quyết sự chuyển hóa giữacác mặt đối lập một cách hài hòa, linh hoạt và đem lại thắng lợi vẻ vang.Trong cuộc chiến tranh chống mỹ cứu nước, chúng ta nói là cuộc đấu tranhmột mất, một còn Là nói lên tính chất khốc liệt của cuộc chiến tranh giữahai mặt đối lập: một bên là đế quốc Mỹ xâm lược cùng bọn tay sai bán nước,với một bên là toàn thể dân tộc Việt Nam đấu tranh chính nghĩa chống lại sựxâm lược của bọn phản động Chúng ta phải đấu tranh cách mạng đánh đổtoàn bộ ý đồ xâm lược của tập đoàn tay sai phản động Hoa Kỳ và bọn bánnước Song không phải như thế là một mặt đối lập sẽ mất đi và chỉ còn lạimột mặt đối lập mà khi sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc được hoànthành, mâu thuẫn cơ bản được giải quyết, một mặt đối lập mất đi thì đồngthời mặt kia cũng không còn nữa, vì khi sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đờithì cũng xuất hiện những mâu thuẫn mới với những mặt đối lập mới Ởtrường hợp trên, khi đế quốc Mỹ đã bị thất bại hoàn toàn, sự nghiệp giảiphóng dân tộc cơ bản đã hoàn thành thì về phía cách mạng nước ta, sựnghiệp cách mạng của nhân dân ta cũng không còn nguyên như cũ nữa mà
đã có sự thay đổi về chất, các mặt đối lập mới lại được thiết lập, sự chuyểnhóa của các mặt đối lập mới lại hình thành Vận dụng vào trong học tập vàcông tác, nghiên cứu của người học viên sau đại học là phải thường xuyêntiến hành phê bình và tự phê bình để giải quyết những mâu thuẫn giữa hai mặt
ưu điểm và khuyết điểm Vậy, có nên nói là phải bỏ mặt khuyết điểm và giữ
8 Lê nin toàn tập, tập 29 nhà xuất bản tiến bộ Mát-xcơ-va, 1981, tr 13
Trang 9lại mặt ưu điểm hay không? Thực tế trong cuộc đấu tranh tư tưởng, hai mặtđối lập ưu điểm và khuyết điểm chuyển hóa lẫn nhau không có nghĩa là mộtcòn, một mất một cách máy móc Điều này, không có nghĩa là chúng ta chỉ bỏkhuyết điểm và giữ nguyên ưu điểm nguyên như cũ Mà sau khi sửa chữakhuyết điểm rồi thì ưu điểm sẽ cũng không còn nguyên như trước nữa mà có
sự hoàn thiện và phát triển hơn Nên có thể nói là, các mặt ưu và khuyết điểmthực hiện chuyển hóa trong cơ chế khắc phục khuyết điểm và phát huy ưuđiểm mới đúng trong cơ chế chuyển hóa
Những ví dụ nói trên về sự chuyển hóa khác nhau của các mặt đối lậptrong các sự vật khác nhau, chính là “sự chuyển hóa lẫn nhau của các mặt đối
lập” Ăngghen đã tổng hợp sự chuyển hóa muôn vẻ đó như sau: “…tức là
những mặt, thông qua sự đấu tranh thường xuyên của chúng và sự chuyển hóa cuối cùng của chúng từ mặt đối lập này thành mặt đối lập kia, hoặc lên những hình thức cao hơn, đã quy định sự sống của giới tự nhiên” 9 Ở đây,
chúng ta thấy Ăng ghen đã khái quát thành hai hình thức chuyển hóa: một là,hai mặt đối lập nhằm vào nhau mà chuyển hóa từ mặt này thành mặt kia; hai
là, cả hai mặt đều biến đi trở thành những mặt khác cao hơn
Sự chuyển hóa của các mặt đối lập là một nguyên lý rất quan trọng củaphép biện chứng Nếu hiểu không đúng, vận dụng không đúng nguyên lý đó,
có thể dẫn đến thuật ngụy biện, phản lại phép biện chứng Thuật ngụy biện, làlối nói xuất phát từ chủ quan, bề ngoài có vẻ biện chứng nhưng thực ra làxuyên tạc hiện thực khách quan
Ví dụ: như xấu và tốt là hai mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau, xấu trởthành tốt và ngược lại Đúng là trong thực tế xã hội có người tốt trở thànhngười xấu, có người xấu trở thành người tốt, đó là sự thay đổi bình thường.Nhưng nếu đi đến kết luận “ càng xấu càng tốt” thì lại là ngụy biện Trong
9 PH Ăng ghen;’ biện chứng của tự nhiên, nhà xuất bản sự thật, Hà Nội 1971, trang 321.
Trang 10thực tế không phải càng xấu bao nhiêu thì lại chuyển thành tốt bấy nhiêu Mộtngười quá xấu thì khó cải tạo thành tốt được.
Hay như trong chiến tranh và hòa bình chuyển hóa lẫn nhau Nếu nóitrong lịch sử xã hội, tình hình thay đổi có khi đang hòa bình lại xẩy ra chiếntranh rồi chiến tranh kết thúc hòa bình lại trở lại thì điều đó dễ hiểu Nhưngnói một cách chung chung rằng hoà bình và chiến tranh là hai mặt đối lập baogiờ cũng chuyển hóa lẫn nhau, chiến tranh trở thành hòa bình, hòa bình tấtyếu trở thành chiến tranh thì ở đây phép biện chứng đã bị xuyên tạc Có phảitrong lịch sử xã hội, bao giờ hòa bình cũng tất yếu chuyển thành chiến tranhđâu? Chúng ta thừa nhận rằng: Còn chủ nghĩa đế quốc thì còn nguy cơ chiếntranh, nhưng sau khi chủ nghĩa đế quốc mất đi, chiến tranh sẽ không còn làmột hiện tượng tất yếu nữa Hiện nay, chúng ta đang đấu tranh để bảo vệ hòabình trên toàn thế giới Với sức mạnh của chính nghĩa và lực lượng yêuchuộng hòa bình, kết hợp với xu hướng quốc tế hóa và hợp tác hóa toàn cầuchúng ta có thể ngăn chặn được chiến tranh để bảo vệ hoà bình trên thế giới,đẩy lùi được nguy cơ chiến tranh
Qua đây, đồng thời cũng phê phán thuật ngụy biện, cần phải phân biệt
và đấu tranh kiên quyết với những luận điệu giả danh biện chứng với phépbiện chứng chân thực Sự chuyển hóa của các mặt đối lập là một vấn đề rấtphức tạp Dễ bị xuyên tạc và bị thay thế bằng thuật ngụy biện Vì vậy, muốnhiểu và thực hiện đúng phép biện chứng chúng ta phải phân tích cụ thể sự vậtkhách quan để phản ánh đúng sự chuyển hóa cụ thể của các mặt đối lập
Một khía cạnh nữa cần được giải quyết là sự chuyển hóa đó xảy ra lúcnào trong quá trình đấu tranh của các mặt đối lập? Có ý kiến cho rằng: sựchuyển hóa đó diễn ra ngay từ đầu và trong suốt quá trình đấu tranh của cácmặt đối lập Quan điểm này cho rằng quá trình đấu tranh của các mặt đối lậpcũng là quá trình chuyển hóa giữa chúng Nói như vậy là không đúng Ở đây
có sự lẫn lộn khái niệm chuyển hóa với khái niệm biến đổi nói chung Sự
Trang 11chuyển hóa cũng là sự biến đổi nhưng không phải bất cứ sự biến đổi nào cũng
là sự chuyển hóa Trong quá trình đấu tranh của hai mặt đối lập, với sự tácđộng qua lại lẫn nhau, hai mặt đó biến đổi dần dần về lượng, nhưng sự biếnđổi đó chưa phải là sự chuyển hóa về chất, khái niệm chuyển hóa của hai mặtđối lập chỉ dùng khi nào hai mặt đối lập trở thành “đồng nhất”, khi sự đấutranh đã lên tới cực độ, tức là giai đoạn cuối của cuộc đấu tranh, khi mâuthuẫn được giải quyết Trong câu trích ở trên, chúng ta thấy Ăng ghen nói tới
sự chuyển hóa cuối cùng của chúng, Người còn chỉ rõ: “sự chuyển hóa từ mặt
này sang mặt khác khi các mặt đó lên tới cực độ”…”ở một điểm nhất định, cực này chuyển thành cực kia”10 Về vấn đề này, Lênin cũng đã nói: “Phép
biện chứng là học thuyết vạch ra rằng những mặt đối lập làm thế nào mà có thể và thường là (trở thành) đồng nhất - trong những điều kiện nào chúng là đồng nhất, bằng cách chuyển hóa lẫn nhau-” 11
2 Sự chuyển hoá của các mặt đối lập trong các quy luật và các cặp phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng
* Sự chuyển hoá các mặt đối lập trong các quy luật của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Với tư cách là khoa học triết học, phép biện chứng duy vật nghiên cứunhững quy luật cơ bản, phổ biến tác động trong mọi sự vật, hiện tượng, quátrình,…của thế giới khách quan Những quy luật này phản ánh quá trình vậnđộng, biến đổi và phát triển của cả giới tự nhiên, đời sống xã hội và tư duycon người Trong đó, quy luật mâu thuẫn (thống nhất và đấu tranh của cácmặt đối lập) làm sáng tỏ nguồn gốc và động lực của mọi sự vận động, biếnđổi và phát triển; quy luật lượng - chất (chuyển hoá từ những thay đổi vềlượng thành những thay đổi về chất và ngược lại) phản ánh phương thức vàtrạng thái của quá trình vận động, biến đổi và phát triển; quy luật phủ định
10 PH Ăng ghen;’ biện chứng của tự nhiên, nhà xuất bản sự thật, Hà Nội 1971 tr 306.
11 Lê nin toàn tập, tập 29 nhà xuất bản tiến bộ Mát-xcơ-va, 1981, tr 116.
Trang 12của phủ định chỉ rõ khuynh hướng của quá trình vận động, biến đổi và pháttriển của thế giới khách quan.
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
Mâu thuẫn là một trong những vấn đề trung tâm của triết học Khôngphải ngẫu nhiên mà ngay từ thời cổ đại, Denon (490 - 430 trước công nguyên)
đã đưa ra những Aporia nổi tiếng: “Achille và con rùa”, “Mũi tên bay” Saunày Cantơ lại day dứt trước những Antinômi (nghịch lý) của lý trí Còn nhà tưtưởng bách khoa Hêghen đã kiến trúc nên phép biện chứng của mâu thuẫnmột cách tài tình trong “thế giới ý niệm” Trong triết học mácxít, vấn đề mâuthuẫn đã trở thành cội nguồn sinh động của toàn bộ phép biện chứng Lêninviết: “Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thốngnhất của các mặt đối lập Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng,nhưng điều đó đòi hỏi phải có những giải thích và một sự phát triển thêm”12
Sự vật (hiện tượng, quá trình…) trong thế giới vô cùng đa dạng, phongphú Các mặt đối lập tạo nên mâu thuẫn biện chứng cũng vô cùng phong phú
và đa dạng Vì vậy sự chuyển hoá của các mặt đối lập là rất phong phú và
nhiều vẻ Lênin viết: “không phải chỉ là sự thống nhất của các mặt đối lập
mà còn là chuyển hoá của mỗi quy định, chất đặc trưng, mặt, thuộc tính sang mỗi cái khác (sang cái đối lập với nó)” 13
Không nên hiểu sự chuyển hoá của các mặt đối lập một cách đơn giảnmáy móc như là sự đổi chỗ cho nhau của các mặt đối lập, hoặc cái nọ thànhcái kia…; mà đây chính là sự chuyển hoá của các mặt đối lập biện chứng gắnliền với việc giải quyết mâu thuẫn biện chứng làm biến đổi về chất của sự vật.Đặc trưng cơ bản của sự chuyển hoá này là ở chỗ: Mâu thuẫn biện chứngđược giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời với những mặt đối lập vàmâu thuẫn biện chứng mới Trong khi phân tích quá trình tiến hoá của các sự
12 Sđd, tập 29, tr 240.
13 Sđd, tập 29, tr 379.
Trang 13vật (hiện tượng, quá trình…) trong giới tự nhiên, Ăngghen đã chỉ ra rằng
những mặt đối lập “thông qua sự đấu tranh thường xuyên của chúng và sự
chuyển hoá cuối của chúng từ mặt đối lập này thành mặt đối lập kia, hoặc nên những hình thức cao hơn, đã quy định sự sống của giới tự nhiên” 14
Vấn đề đặt ra là hiểu sự “chuyển hoá” đó như thế nào cho đúng? Mà ở
đây, chúng ta cần chú ý rằng “chuyển hoá” là một phạm trù triết học với tính
chất trừu tượng cao, nó khái quát những hiện tượng chuyển hóa muôn hìnhmuôn vẻ của sự vật khách quan Nên không được hiểu khái niệm đó một cáchđơn giản máy móc Sự chuyển hóa diễn ra đa dạng, tuỳ theo từng sự vật cómâu thuẫn khác nhau mà sự chuyển hoá của các mặt đối lập cũng diễn ra mộtcách khác nhau Ở mỗi trường hợp riêng biệt lại phải giải thích sự chuyển hoá
cụ thể của những mặt đối lập đúng như trong thực tế diễn ra Tuyệt đối khôngđược coi mọi sự chuyển hoá đồng loạt như nhau, mà ở những trường hợp cụthể có những sự chuyển hoá cụ thể Phương thức, tính chất chuyển hoá là hếtsức phong phú và đa dạng Vì, một mặt là do tính chất của mâu thuẫn, mặt
khác là do tính chất của điều kiện lịch sử trong đó diễn ra cuộc đấu tranh giữa
các mặt đối lập quy định Nhưng bất cứ cuộc đấu tranh nào cũng hướng tới sựphá vỡ sự thống nhất cũ để thiết lập sự thống nhất mới cao hơn, và vì thế, bất
cứ sự chuyển hoá nào cũng không phải là sự chuyển đổi vị trí giản đơn giữahai mặt đối lập Tuy nhiên suy đến cùng tất cả đều là sự chuyển hóa của cácmặt đối lập trong sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng Song trongmỗi cách tiếp cận Và khai thác khác nhau, trong những quy luật và phạm trùkhác nhau…thì các mặt đối lập có sự chuyển hóa khác nhau Tư tưởng vềmâu thuẫn biện chứng với tính cách là quá trình thống nhất, đấu tranh vàchuyển hoá của các mặt đối lập trong một chỉnh thể được thể hiện rõ trong bộ
“tư bản” của Mác Trong khi phân tích thuộc tính của hàng hoá, C Mác chỉra: “Sản phẩm với tư cách là giá trị sử dụng mâu thuẫn với chính bản thân
14 Ph Ăngghen, Biện chứng của tự nhiên, Nxb, sự thật, Hà Nội, 1971, tr 312.
Trang 14mình với tính cách là giá trị” Ở một chỗ khác, C Mác đã vạch ra mâu thuẫncủa chính quá trình xuất hiện tư bản: “Tư bản xuất hiện trong lĩnh vực lưuthông và đồng thời lại ở ngoài lĩnh vực lưu thông”.
Đấu tranh của các mặt đối lập biện chứng là quá trình trong đó cácmặt đối lập liên hệ, tác động, bài trừ, phủ định lẫn nhau làm cho sự vậtluôn vận động, biến đổi và phát triển Chính nhờ sự đấu tranh này mà các
sự vật vận động, chuyển hoá lẫn nhau làm cho thế giới trở nên vô hạn, vĩnhviễn và bất diệt
Trong lĩnh vực quân sự, tồn tại một hệ thống các mâu thuẫn: mâuthuẫn của chiến tranh; mâu thuẫn của đấu tranh vũ trang và mâu thuẫn củaxây dựng quân đội Trong mâu thuẫn của các cuộc chiến tranh có mâu thuẫn
cơ bản và không cơ bản Thực chất mâu thuẫn cơ bản của chiến tranh là cácbên tham chiến đều muốn đạt mục đích chính trị, kinh tế của mình bằng cácphương tiện vũ trang
Do bản chất của chiến tranh là sự kế tục chính trị bằng thủ đoạn bạolực, cho nên đặc thù mâu thuẫn cơ bản của chiến tranh trước hết là do tínhchất kinh tế - xã hội của nhà nước quy định, nó xuất hiện dưới dạng khả năngngay trong thời bình Điều đó được thể hiện rõ nét trong điều kiện hiện nay,khi chủ nghĩa đế quốc đang hy vọng giải quyết mâu thuẫn cơ bản của cuộcchiến tranh tương lai bằng tiến hành cuộc chiến tranh có sử dụng vũ khí côngnghệ cao, bằng ưu thế của sức mạnh đồng đô la
Là sự đấu tranh giữa hai lực lượng đối lập, đấu tranh vũ trang là mộtmâu thuẫn gay gắt Khi tiến hành xây dựng quân đội phải chú ý đến tính đặcthù của hoạt động quân sự là một quá trình hai mặt Xây dựng quân đội vềchính trị bao gồm hai quá trình đối lập: tăng cường củng cố bản chất giai cấpcông nhân và chống "phi chính trị hoá quân đội"
Trang 15Quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi
về chất và ngược lại (quy luật lượng - chất)
Là quy luật phản ánh cơ chế, cách thức của quá trình phát triển đi từnhững biến đổi dần dần về lượng đến giới hạn nhất định, vượt quá điểm nút, phá
vỡ độ của sự vật thực hiện bước nhảy về chất đưa sự vật phát triển lên một chấtlượng mới Cơ sở phương pháp luận cho mọi cơ chế của sự phát triển với cácyêu cầu cơ bản, là phải thường xuyên tích luỹ về lượng để tạo điều kiện cho sựthay đổi về chất, chống chủ quan duy ý chí; khi lượng tích luỹ đạt đến độ, cầnkiên quyết thực hiện bước nhảy, chống bảo thủ, trì trệ và cần vận dụng linh hoạtcác hình thức bước nhảy để đẩy nhanh quá trình phát triển
Bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để chỉ giai đoạn chuyển hoá
về chất của sự vật do những thay đổi về lượng trước đó gây ra Xét về bản
chất, bước nhảy chính là sự đứt đoạn tính tiệm tiến về lượng, là sự tích hợpgiữa tính liên tục và tính gián đoạn trong sự phát triển
Kế thừa những hạt nhân hợp lý của Hêghen trong khi lý giải về sự thay
đổi về chất phải thông qua bước nhảy, Lênin đã nhấn mạnh: “tính tiệm tiến
mà không có bước nhảy vọt, thì không giải thích được gì cả” “phân biệt bằng cách nào, một sự chuyển hoá biện chứng với một sự chuyển hoá không biện chứng? bằng bước nhảy vọt bằng sự gián đoạn của tính tiệm tiến”15
Đồng thời chất mới sau khi ra đời cũng có sự tác động to lớn trở lại đối
với lượng Lênin đã khẳng định: “sự chuyển hoá lượng thành chất và ngược
lại”16 Sở dĩ như vậy là vì, nói đến chất mới, là nói đến những thuộc tính mới,những quan hệ mới của sự vật, hiện tượng Những thuộc tính và quan hệ mớinày, đến lượt nó, sẽ tạo ra những khả năng mới và những khả năng này, trongnhững điều kiện, hoàn cảnh mới sẽ thúc đẩy quy mô, tính chất, nhịp điệu vậnđộng, phát triển của sự vật, hiện tượng Chẳng hạn, nước đến nhiệt độ 1000C thì
15 Sđd, tập 29, tr 133.
16 Sđd, tập 29, tr 240.
Từ khóa » Chuyển Hoá Trong Phép Biện Chứng Duy Vật Là Gì
-
Phép Biện Chứng Duy Vật Là Gì? - Luật Hoàng Phi
-
Hai Nguyên Lý Của Phép Biện Chứng Duy Vật – Wikipedia Tiếng Việt
-
Phép Biện Chứng Duy Vật
-
[PDF] BÀI 2: PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT - Topica
-
Phép Biện Chứng Duy Vật Là Gì? - Trường THPT Thành Phố Sóc Trăng
-
Phép Biện Chứng Duy Vật - Phương Pháp Luận Của Nhận Thức Khoa ...
-
Phân Tích Những Nội Dung Cơ Bản Của Phép Biện Chứng Duy Vật
-
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
-
Vận Dụng Sự Chuyển Hóa Của Các Mặt đối Lập Trong Phép Biện ...
-
Biện Chứng Duy Vật Là Gì? Nội Dung Phép Biện Chứng Duy Vật?
-
HÓA HỌC: BÀI 2 NHỮNG NGUYÊN LÝ VÀ QUY LUẬT CƠ BẢN ...
-
Vận Dụng Phép Biện Chứng Duy Vật Trong Quá Trình Xây Dựng Và Thực ...
-
Để Triết Học Không Còn Là Nỗi ám ảnh Của Sinh Viên
-
[PDF] Vật Chất Là Một Phạm Trù Nền Tảng Của Chủ Nghĩa Duy Vật Triết