Tiểu Luận: Văn Hóa ăn Uống Của Người Hàn

Trang chủ Trang chủ Tìm kiếm Trang chủ Tìm kiếm Tiểu luận: Văn hóa ăn uống của người Hàn pdf Số trang Tiểu luận: Văn hóa ăn uống của người Hàn 21 Cỡ tệp Tiểu luận: Văn hóa ăn uống của người Hàn 404 KB Lượt tải Tiểu luận: Văn hóa ăn uống của người Hàn 5 Lượt đọc Tiểu luận: Văn hóa ăn uống của người Hàn 289 Đánh giá Tiểu luận: Văn hóa ăn uống của người Hàn 4.6 ( 18 lượt) Xem tài liệu Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu Tải về Chuẩn bị Đang chuẩn bị: 60 Bắt đầu tải xuống Đang xem trước 10 trên tổng 21 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên Chủ đề liên quan Văn hóa ăn uống người Hàn Văn hóa ẩm thực Tiểu luận văn hóa Văn hóa Việt Nam Cơ sở văn hóa Việt Nam Đại cương văn hóa Di sản văn hóa Việt Nam

Nội dung

Tiểu luận Văn hóa ăn uống của người Hàn Cả người Hàn và người Việt đều ăn cơm làm từ gạo và sử dụng đũa. Đến bữa ăn, cả gia đình cùng tập trung và ăn chung đĩa thức ăn ( người Nhật ăn riêng). Những người ít tuổi hơn mời người lớn tuổi hơn ăn trước và sau khi người lớn tuổi bắt đầu thì người nhỏ tuổi hơn mới bắt đầu ăn. Ngoài những điểm chung nói chung nói trên thì có rất nhiều điểm khác biệt trong văn hóa ăn uống thường ngày của hai nước. người Hàn thường ăn cơm nấu từ gạo nếp trộn với gạo tẻ nên cơm rất dẻo, họ còn có cơm ngũ cốc "okok bap" (cơm nấu từ 5 loại ngũ cốc). Trong khi đó, người Việt thường chỉ ăn cơm nấu bằng gạo tẻ và cơm khô hơn một chút, thường vào những ngày đặc biệt thì mới nấu cơm nếp. Ở Hàn Quốc có rất nhiều loại gia vị, đặc biệt, họthường sử dụng bột ớt và có loại nước tương "kan chang". Ở Việt Nam,gia vị không thật nhiều nhưng có một loại nước chấm đặc biệt là nước mắm và để cho món ăn có hương vị thơm ngon hơn, khi nấu ăn có nhiều loại rau, củ, quả cho thêm vào như: hành, nghệ, cà chua, dứa, chuối...Ở Hàn, kim chi có nhiều loại đa dạng và thường ăn cùng trong bữa cơm. Còn ở Việt Nam, trong bữa ăn nhất định phải có rau tươi, có thể chế biến nhiều món như: rau luộc, rau xào, canh rau... và cũng có một sốmón tương tự như kim chi: dưa muối, cà muối, hành muối... Vào mùa hè, khi ăn cả người Hàn và người Việt đều uống nước nhưng cách thức cũng khác nhau. Người Hàn vừa ăn vừa cầm cốc nước lạnh và uống. Người Việt thì thường chan nước rau luộc hoặc canh vào bát và ăn cùng với cơm, hoặc sau khi ăn sẽ chan nước canh vào bát, uống riêng. Người Hàn sử dụng cả đũa và thìa nên không cần cầm bát lên. Người Việt mình thì thường chỉ sử dụng đũa nên dù ăn cơm hay canh cũng cầm bát lên ăn. Vì vậy, cái trôn bát của mình thường cao để người ăn không bị nóng. Cũng vì việc sử dụng thìa, đũa mà người Hàn thường để thức ăn lên bàn, trong khi người Việt mình thương để thức ăn vào mâm rồi có thể đặt trên bàn, trên chiếu, kể cả trên sàn nhà và ngồi ăn. Vẫn còn chuyện liênquan đến thìa, đũa nữa là khi ăn, người Hàn thường có cái để đặt thìa đũa lên, gọi là "sut ka rak bat schim" (숟가락 받침) còn người Việt thường để đũa trên mâm hoặc trên bát. Sau khi ăn, người Hàn không bao giờ bỏ đi thức ăn thừa mà cất cẩn thận để sau đó ăn tiếp. Tại sao lại như vậy ? mấy chục năm trước người Hàn còn rất khó khăn, vì vậy họ đã hình thành tính tiết kiệm. Mặt khác, vì người Hàn thường ăn sáng ở nhà nên thức ăn còn lại hôm trước thường để ăn sáng hôm sau. Hiện nay, với cuộc sống hiện đại, người Hàn thường không đi chợ nhiều, họ thường đi một lần, mua rất nhiều thứ và để vào tủ lạnh nên tủ lạnh của họ thường rất to. Người Việt mình thì thường chỉ cất một số món vào trong tủ lạnh, các món rau hay canh thường ăn hết hoặc cho chó, mèo, hoặc bỏ đi. Có vẻ người Việt Nam mình lãng phí hơn người Hàn. Người Việt Nam thường hôm nào cũng đi chợ, mua những đồ tươi sống để nấu và không thích những thức ăn để lâu trong tủ lạnh. Và người Việt mình còn có cả thói quen ăn sáng ở ngoài nữa. Sau khi ăn xong, cả người Hàn và người Việt thường có thói quen ăn hoa quả, gọi là tráng miệng. Sau đó, người Hàn thường uống một loại nước quế, hoặc cà phê còn người Việt mình lại hay uống trà. Văn hóa ăn uống thường ngày không phải là vấn đề lớnnhưng nếu tìm hiểu một chút cũng thấy có nhiều thú vị. Nó cũng phần nào phản ánh những nét độc đáo của văn hóa hai nước Việt - Hàn. Bữa ăn là lúc gia điìn sum họp đông đủ nhất. Món ăn chính là cơm, thường ăn kèm với lúa mạch, hạt kê hoặc với các loại đậu đỗ. Người Hàn Quốc cũng hay ăn súp, còn kim chi- một loại dưa cải muốicay - là món ăn phụ không thể thiếu. Xì dầu, hạt tiêu, tương ớt và toenjang (tương đỗ) được dùng làm gia vị. Người Hàn Quốc thích rượu gạo truyền thống và họ thường uống trước bữa ăn. Đãi khách bằng rượu truyền thống là một phong tục phổ biến. Trong khi người phương Tây có thể coi những lời đề nghị lặp đi lặp lại rót đầy một cốc rượu đã cạn hoặc cạn một nửa là một sự phiền hà, thì người Hàn Quốc có thể nghĩ là chủ nhà không lịch sự nêếungười đó không yêu cầu khách rót đầy cốc. Rót rượu cho nhau trong một bầu không khí vui vẻ có ý nghĩa rất quan trọng đối với người Hàn Quốc. Trong những buổi tiệc tùng này, thứ bậc về quan hệ xã hội củănhngx tham gia tiệc vẫn được giữ vững. Ngừơi ít tuổi hơn không được phép uống rượu hay hút thuốc lá trước mặt người lớn. Tập tục ăn uống của người Trung Quốc Người TQ có câu tục ngữ: thuốc bổ không bằng ăn bổ,. Có nghĩa là khi tẩm bổ dưỡng sinh, nên chú ý ăn uống. Tuy rằng điều kiện kinh tế của một số người còn thiếu thốn, nhưng họ vẫn tận khả năng ăn uống cho tốt một chút, còn những người điều kiện kinh tế khá giả lại chú ý vấn đề ăn uống. Cứ như vậy, lâu ngày việc ăn uống đã đi sâu vào các mặt trong đời sống của người dân, vì vậy đã xuất hiện những nghi lễ ăn uống trong xã giao, tập tục ăn uống trong ngày lễ, ngày tết, tập tục ăn uống theo tín ngưỡng, tập tục ăn uống trong hôn lễ và mai táng, trong ngày sinh nhật và sinh nở v,v. Nghi lễ ăn uống trong xã giao chủ yếu biểu hiện trong khi giao tiếp. Nhiều nhất là những lúc bạn bè và người thân đi lại với nhau, mỗi khi bạn bè người thân có việc gì lớn, như sinh con, dọn nhà v,v thường phải tặng quà, còn chủ nhà thì trước hết là phải nghĩ đến việc mời khách ăn, uống cái gì đây ? Tận khả năng sắp xếp những món ăn cho thịnh soạn, để cho khách vừa llòng. Khi bàn chuyện làm ăn, buôn bán cũng có thói quen vừa ăn vừa bàn bạc, ăn uống vui vẻ, thì việc làm ăn cũng được ổn thỏa. Do phong tục tập quán ở mỗi nơi một khác, các món ăn để tiếp khách cũng không giống nhau. Ở Bắc Kinh, ngày xưa thì đãi khách ăn mỳ, với ý là mời khách ở lại, nếu như khách ở lại thì mời khách ăn một bữa sủi cảo hay còn gọi là bánh chẻo, tỏ lòng nhiệt tình. Khi tặng quà cho bạn bè và người thân phải chọn “8 thứ của BK”, cũng tức là 8 loại bánh điểm tâm. Một số vùng nông thôn miền Nam TQ, khi nhà có khách, sau khi mời khách uống trà, lập tức xuống bếp làm bánh, hoặc nấu mấy quả trứng gà, rồi cho đường. Hoặc nấu mấy miếng bánh bột nếp, cho đường để khách thưởng thức, rồi mới đi đi nấu cơm. Ở Tuyền Châu, tỉnh Phúc Kiến miền Đông TQ, khi mờ khách ăn hoa quả, người địa phương ngọt là “ngọt ngào”, tức là mời hkách thưởng thức mùi vị ngọt ngào, mà trong đĩa hoa quả còn có quít, bởi vì trong tiếng địa phương từ quít đồng âm với từ may mắn, , với ngụ ý là chúc khách may mắn, cuộc sống ngọt ngào như quả quít. Khi đãi khách, tập tục của mỗi một địa phương cũng hkông giống nhau. Ở BK, thấp nhất cũng phải là một mâm 16 món, tức là 8 đĩa và 8 bát. 8 đĩa là món ăn nguội, 8 bát là món ăn nóng. Ở t̉nh Hắc Long Giang miền Đông Bắc TQ khi tiếp khách các món ăn đều phải có đôi, cũng tức là mỗi món nhất định phải có đôi. Ngoài ra, ở một số khu vực, phải có cá, với ý là uộc sống dư thừa. Trong cuộc sống hàng ngày, những bữa cỗ thường thấy là cỗ cưới dẫn đến nhiều cỗ tiệc, như cỗ ăn hòi, cỗ gặp mặt, cỗ đính hôn, cỗ cưới, cỗ hồi môn v,v. Trong đó cỗ cưới là long trọng và cầu kỳ nhất. Chẳng hạn như một số khu vực ở tỉnh Thiểm Tây miền Tây TQ, mỗi món trong cỗ cưới đều có hàm ý iêng. Món thứ nhất là thịt đỏ, “đỏ” là mong muốn “mọi điều may mắn”; Món thứ hai “gia đình phúc lộc” với ngục ý là “cả nhà xum họp, cùng hưởng phúc lộc”, món thứ 3 là bát cơm bát bảo to, nấu bằng tám loại như gạo nếp , táo tàu, bách hợp, bạch quả, hạt sen v,v với ngụ ý là yêu nhau đến bạc đầu v,v. Ở vùng nông thôn tỉnh Giang Tô, cỗ cưới đòi hỏi phải có 16 bát, 24 bát, 36 bát, ở thành phố, tiệc cưới cũng rất long trọng, những điều này đều có ngụ ý là may mắn, như ý. Tiệc chúc thọ là tiệc để mừng thọ các cụ già, lương thực thường là mỳ sợi, còn gọi là mỳ trường thọ. Ở một số khu vực miền bắc tỉ̉nh Giang Tô, Hàng Châu miền Đông TQ, thường là buổi trưa ăn mỳ, buổi tối bày tiệc rượu. Người Hàng Châu khi ăn mỳ, mỗi người gắp một sợi mỳ trong bát mình cho cụ, gọi là “thêm thọ”mỗi người nhất định phải ăn hai bát mỳ, nhưng không được múc đầy, vì như vậy sẽ xúi quẩy. Cách ăn cơm bằng đũa Được biết, trên thế giới có cách để ăn cơm, trực tiếp lấy tay bốc chiếm 40 phần trăm, dùng dao và dĩa chiếm 30 phần trăm, còn 30 phần trăm là ăn bằng đũa. Đũa là một phát minh lớn của người TQ. Từ thời Ân Thương cách đây hơn 3000 năm đã bắt đầu biết dùng đũa, nhưng lúc ban đầu không gọi là “đũa”. Theo văn hiến thời cổ ghi chép, lúc đó người ta gọi “đũa” là “trợ” hoặc là “giáp”, đến thế kỷ thứ 6, thứ 7 trước công nguyên đũa còn được gọi là “Cân”. Vậy tại sao lại gọi là đũa ? theo văn hiến ghi chép, người dân miền Giang Nam miền Đông TQ cho rằng, phát âm từ “trợ” và “trọ” là giống nhau, mà những người đi thuyền trên sônglại rất kỵ “thuyền ngừng Lại” , nên đặt ngược ý là “đũa”. Đến đời nhà Đường, trong thế kỷ 7, người ta lại ghép chữc trúc với chữ nhanh, bởi vử đũa thường là làm bằng trúc. Thế là, đôi đũa để ăn cơm mà TQ phát minh mà ai nấy đều biết mới có tên gọi là “đũa” . Vậy đũa đã được phát minh trong bốic ảnh như thế nào ? Có người dự đóan, trong thời cổ xưa khi nướng thức ăn, tiện tay bẻ hai cành cây hoặc cành trúc để gắp ăn, như vậy vừa không bỏng, lại có thể thưởng thức món ăn thơm ngon nóng sốt, vì vậy đã chuyển biến thành đũa. Kết cấy của đôi đũa hết sức đơn giản. Về hình dáng, là hai que nhỏ, đũa của Tq trên to dưới nhỏ, trên vuông dưới tròn, tạo hình như vậy có ưu điểm là gấp rất tiện, không bị trơn, khi để trên bàn cũng không bị lăn đi lăn lại, đầu đũa tròn khi gắp thức ăn cho miệng cũng không bị xước môi. Sau khi đũa được truyền vào Nhật bản, người Nhật lại làm thành đũa vuông, là vì người Nhật hay ăn đồ tươi sống, như các sống v,v, thì loại đũa này sẽ tiện hơn. Đũa tuy rất đơn giản, nhưng về nguyên liệu để làm đũa và điêu khắc, trang trí đũa thì người TQ làm rất cầu kỳ. Từ hơn 2000 năm về trước đã có đũa ngà và đũa mạ đồng. 6-7 thế kỷ trở lại đây, trong cung đình, quan phủ và những gia đình giàu có đã dùng đũa bằng vàng, bạc, lấy ngọc, san hô điêu khắc đũa v,v. Những loại đũa cầu kỳ còn bịt đầu bằng bặc để thơử thức ăn có thuốc độc hay không, nếu như oć thuốc độc, thì bạc lập tức biến thành màu đen hoặc màu xanh. Đũa trong dân gian TQ thường đóng một trò rất quan trọng. Có một số nơi khi cô gai về nhà chông, trong của hồi môn nhất định phải chuẩn bị cho đôi vợ chồng trẻ hai cái bát và hai đôi đũa, rồi lấy dây đỏ buộc vào nhau, gọi là “bát con cháu”, đây không những là tỏ ý từ nay hai vợ chồng trẻ sẽ sinh sống bên nhau, mà từ “đũa” đồng âm với tư “nhanh” với ngụ ý là chúc hai vợ chồng “sớm ngày sinh con đẻ cái”. Ở nông thôn miền Bắc TQ còn có một tập tục là, khi bạn bè đến vui đùa trong phòng cô dau chú rể trong đêm tân hôn, bạn bè và người thân từ ngoài cửa xổ ném đũa vào với ngụ ý là may mắn, như ý, sớm có con. Không nên coi thường đôi đũa chỉ là chiếc que nhỏ, nhưng muốn cầm hai chiếc que nhỏ này cho vững cũng phải biết cách cầm . Kỹ xảo cầm đũa của người TQ, thường thu hút sự chú ý của người nước ngoài, thậm trí ở phương Tây còn có “trung tâm bồi dưỡng”sử dụng đũa. Có chuyên gia ý học cho rằng, dùng đũa có thể họat động hơn 30 khớp xương và hơn 50 cơ bắp trong cơ thể con người, có lợi cho sự linh hoạt của tay và sự phát triển của bộ não. TQ là quên hương của đũa, thế nhưng “viện bảo tàng đũa” đầu tiên trên thế giới nghe nói là ở Đức. Viện bảo tàng này triển lãm hơn 10 nghìn đôi đũa làm bằng những nguyên liệu khác nhau như: vàng, bạc, ngọc, xương v,v, thu tập từ các nước và khu vực khác nhau, ở trong từng thời kỳ khác nhau, thật là đẹp mắt. Thói quen uống trà Người Trung Quốc uống trà đã có hơn 4 nghìn năm lịch sử, trong sinh họat hằng ngày ngày của người TQ không thể thiếu một loại nước giải khát đó là trà, tục ngữ có câu: “củi đóm, gạo dầu, muối, tương, dấm và trà” Trà được liệt vào một trong 7 thứ quan trọng trong cuộc sống, có thể thấy được uống trà là điều rất quan trọng. Dùng trà để tiếp khách là thói quen của người TQ. Khi có khách đến nhà, chủ nhà liền bưng một chén trà thơm ngào ngạt cho khách, vừa uống vừa chuyện trò, bầu không khí rất thoải mái. TQ thính hành uống trà đã có lịch sử lâu đời. Được biết, trước năm 280, ở miền Nam TQ có một nước nhỏ gọi là nước Ngô, mỗi khi nhà vua thết tiệc các đại thần, thường ép các đại thần uống rượu cho say mềm. Trong số các đại thần có một đại thần tên là Vĩ Siêu không uống được nhiều rượu, nhà vua cho phép ông ta uống trà thay rượu. Từ đó về sau, các quan văn bắt đầudùng trà để tiếp khách. Đến đời nhà Đường, uống trà đã trở thành thói quen của mọi người. Nghe nói, thói quen này còn có liên quan đến Phật giáo. Vào khoảng năm 713 đến năm 741, lúc đó các sư sãi và các tín đồ trong nhà chùa do ngồi tụng kinh trong thời gian dài, thường hay ngủ ngật và ăn vặt, nhà sư liền nghĩ ra cách cho họ uống trà cho tỉnh táo, từ đó, biện pháp này được lưu truyền đi khắp nơi. Trong khi đó, những gia đình giàu có của nhà Đường, còn mở phòng chuyên pha trà, thưởng thức trà và đọc sách, gọi là phòng trà. Năm 780, ông Lục Vũ chuyên gia về trà của nhà Đường đã tổng kết kinh nghiệp trồng trà, làm trà và uống trà, viết cuốn sách về trà đầu tiên của TQ với tựa đề: “Kinh nghiệm về trà”. Trong đời nhà Tống, nhà vua Tống Huy Tôn dùng tiệc trà để thết các đại thần, tự tay pha trà; Trong Hoàng cung đời nhà Thanh, không những uống trà, mà còn dùng trà tiếp khách nước ngoài. Ngày nay, hàng năm vào những ngày tết quan trọng như : tết dương lịch hoặc tết xuân v,v,có một số cơ quan, đoàn thể thường tổ chức liên hoan tiệc trà. Ở TQ, trà đã hình thành một nền văn hóa độc đáo. Mọi người coi việc pha trà, thưởng thức trà là một nghệ thuật. Từ xưa đến nay, ở các nơi TQ đều có mở quán trà, hiệu trà v,v với những hình thức khác nhau, trên phố Tiền Môn tấp nập ở Bắc Kinh cũng có quán trà. Mọi người ở đây uống trà, ăn điểm tâm, thưởng thức những tiết mục văn nghệ, vừa được nghỉ ngơi lại vừa giải trí, đúng là một công đôi việc. Ở miền Nam TQ, không những có lầu trà, quán trà, mà còn có một loại lều trà, thường là ở những nơi phong cảnh tươi đẹp, du khách vừa uống trà, vừa ngắm cảnh. Uống trà cũng có những thói quen, chẳng hạn như trà, mỗi nơi lại có thói quen riêng, thích uống những loại trà cũng không giống nhau. Người Bắc Kinh thích uống trà hoa nhài, người Thượng Hải lại thích uống trà xanh. Người Phúc Kiến ở miền Đông Nam TQ lại thích uống trà đen v,v. Có một số địa phương, khi uống trà lại thích bỏ thêm gia giảm, chẳng hạn như một số địa phương ở tỉnh Hồ Nam ở miền Nam thường lấy trà gừng muối để tiếp khách, không những có trà, mà còn cho gừng, muối, bột đỗ tương và vừng, khi uống vừa quấy vừa uống, cuối cùng đổ bột đỗ tương, gừng, vừng và trà vào mồn ăn, nhấm nháp hương vị thơm ngon, vì vậy có nhiều địa phương còn gọi “uống trà” là “ăn trà”. Cách pha trà mỗi điạ phương lại có thói quen khác nhau, vùng miền Đông TQ, thích dùng tích pha trà, khách đến nhà, liền bỏ trà vào tích, đổ nước sôi, đội cho ngấm rồi rót ra chén, mời khách uống. Có nơi, như trà công phu ở Trương Châu tỉnh Phúc Kiến ở miền Đông, không những tách, chén rất khác biết, mà cách pha trà cũng rất đặc biệt, hình thành nghệ thuật pha trà rất độc đáo. Ở các nơi TQ nghi lễ uống trà cũng không giống nhau, ở Bắc Kinh, khi chủ nhà bưng trà mời khách, người khách phải lập tức đứng dậy, hai tay đỡ lấy chén trà, rồi cảm ơn. Ở Quảng, Đông, Quảng Tây miền Nam TQ, sau khi chủ nhà bưng tra lên, phải khum bàn tay phải lại gõ nhẹ lên lên bàn 3 lần, tỏ ý cảm ơn, ở một số khu vực khác, nếu như khách muốn uống thêm, thì trong chén để lại ít nước trà, chù nhà thấy vậy sẽ rót thêm, nếu như uống cạn, chủ nhà sẽ cho rằng bạn không muốn uống nữa, thì sẽ không rót thêm nữa. Ăn uống để chữa bệnh và nâú món ăn với thuốc Trong thời cổ của TQ, trong thiên nhiên có thể tìm được thuốc, hình thành Trung y dược rất độc đáo. Loại y dược học này có liên quan mật thiết với ăn uống của con người. Thuốc vừa có thể ăn, ăn lại có thể thay thuốc đã hình thành ăn để chữa bệnh và món ăn nếu với thuốc, trong dân gian TQ có cách nói là “thuốc bổ không bằng ăn bổ, ăn để chữa bệnh còn hơn là chữa bệnh bằng thuốc”. Trong dân gian TQ, bất kể là xưa kia hay ngày nay, đều rất thịnh hành cách chữa bệnh qua ăn uống, trở thành bông hoa kỳ diệu trong vườn hoa tập tục ăn uống của TQ. Phương pháp truyền thống kết hợp giữa ăn uống và chữa trị, giữa bệnh viện với nhà bếp, ngay từ đời nhà Chu đã được thể hiện trong chế đệ chữa trị và ăn uống. Trong điển tích thời cổ, có rất nhiều điều liên quan đến việc ăn chữa bệnh qua ăn uống, hai cuốn sách “nghìn phương thuốc vàng” và cuốn “nghìn phương thuốc vàng dực” nổi tiếngcủa nhà y học nổi tiếng Tôn Tư Mạc đời nhà Đường < 618 đến năm 907>, đều có những chương viết về chữa bệnh qua ăn uống, có ảnh hưởng sâu xa đối với sự phát triển của việc chữa bệnh qua ăn uống trong thời cổ. Ông Tôn Tư Mạc cho rằng, sức khỏe của con người phải lấy việc ăn uống hợp lý làm cơ sở, chứ không nên tuỳ tiện uống thuốc. Bác sĩ nên tìm hiểu rõ nguyên nhân ngây bệnh, trước hết chữa bệnh qua ăn uống, nếu như hiệu quả không tốt, mới dùng thuốc cũng không muộn. Những phương pháp chữa bệnh qua ăn uống, nấu thức ăn với thuốc trong dân gian TQ đều được diễn biến từ quan điểm chữa bệnh qua ăn uống của Ông Tôn Tư Mạc. Bản thân ông Tôn Tư Mạc thọ hơn 100 tuổi, sự thật này khiến những lúc cũng như sau này phải khâm phục lý luận chữa bệnh qua ăn uống và cách dưỡng sinh của ông. Dần dần, chữa bệnh qua ăn uống và nấu thức ăn với thuốc đã trở thành cách tẩm bổ sức khỏe, phòng bệnh và chữa bệnh rất thịnh hành trong dân gian TQ. Chữa bệnh qua ăn uống tức là lấy thức ăn làm thuốc. Ở TQ, lấy những rau xanhvà thức ăn ăn hàng ngày để phòng chữa bệnh, hầu như nhà nào cũng biết cách. Trong nhà có người bị cảm cúm, thái mấy lát gừng, cho thêm mấy củ hành, cho đường đó nấu chè, uống nóng cho toát mồ hôi, thì thường là có hiệu quả. Có cách dưỡng sinh hàng ngày là “lên giường ăn củ cải, xuống giường ăn gừng”, tức là buổi sáng ăn gừng, buổi tối ăn củ cải. Trong dân gian tác dụng chữa bệnh của các loại gia giảm như muối, dấm, gừng, hành, tỏi v,v lại khác nhau, và còn không ngừng phát triển, hiện nay lại có người lấy dấm pha với cô ca cô la làm nức giải khát bảo vệ sức khỏe và còn rất thịnh hành. Trong cách chữa bệnh qua ăn uống, có hệ hệ “món ăn bằng hoa”. Món ăn bằng hoa tức là lấy hoa làm thành món ăn. Món ăn này được bắt đầu từ thời Xuân Thu thế thứ 6 và thứ 7 trước công nguyên và được thịnh hành vào đời nhà Đường trong thế kỷ 7. Hoa có hơn 1 nghìn loại, ở miền Bắc TQ có hơn 100 loại hoa có thể được, còn ở tỉnh Vân Nam miền Tây Nam TQ được gọi là “vương quốc thực vật” thì nghe nói có hàng hơn 260 loại hoa có thể ăn được. Món ăn bằng hoa có thể chữa bệnh, nhất là đối với phụ nữ, ăn nhiều hoa rất có lợi. Chẳng hạn như hoa hồng tượng trưng cho tình yêu, có tác dụng làm lưu thông mạch máu và điều kinh, dưỡng da và bảo vệ sức khỏe; Hoa đào nấu với cá, tôm tươicó tác dụng bổ khí huyết, tăng cường chức năng của tỳ vị, còn có tác dụng dưỡng da rất tốt. Thức ăn nấu với thuốc cũng như là uống thuốc, lấy thuốc làm thức ăn để phòng chữa bệnh. Ở TQ cách nấu thức ăn với thuốc được lưu truyền từ xưa cho đến nay, hiện nay ngày càng được nhiều người ưa thích, những món ăn thường thấy như cháo, các món ăn điểm tâm, xúp và các món ăn, còn có những nhà hàng chuyên nấu những món ăn với thuốc. Những món nấu với thuốc thì có đủ các món, nhưng đòi hỏi yêu cầu khác nhau, chẳng hạn như có một loại “cháo của trẻ”, lấy củ từ, ý nhân và hồng khô v,v với gạo nấu cháo, có thể chữa cho trẻ bệnh tỳ vị yếu. Những món khác như “canh Xuyên bối nấu với vỏ quít có thể chữa phong hàn và ho; “canh sâm”có thể tẩm bổ cho ngừi bệnh và người già. Luật “vệ sinh thực phẩm” của TQ quy địnhnghiêm cấm pha thuốc vào thực phẩm, điều này đã đi ngược với cách nấu thức ăn với thuốc trong dân gian. Để giải quyết mâu thuẫn này, ngành hữu quan đã công bố mấy chục loại thuốc Bắc có thể pha vào thực phẩm, như: táo Tàu, gừng khô, sơn trà, bạc hà v,v. Cách nấu thức ăn với thuốc của TQ không những thịnh hành ở trong nước, mà còn đi vào thị trường quốc tế. Chẳng hạn như rượu hoa cúc, trà vỏ quít, bánh phục linh, thuốc trám v,v, đang đi vào bữa ăn hàng ngày của ngày càng nhiều người nước ngoài. Văn hóa ẩm thực của người Việt Đối với người Việt ẩm thực không chỉ là vấn đề ăn uống mà nó bắt mạch văn hóa và trở thành văn hóa trong đời sống tinh thần Ăn uống cũng như mặc, ở vốn là một trong những nhu cầu vật chất thiết yếu của loài người, vốn gốc gác từ nhu cầu sinh lý, sinh học. Trên diễn trình lịch sử và sự phát triển của kinh tế xã hội, văn minh, việc ăn uống trở thành một thành tố tổng thể trong cấu trúc văn hóa – xã hội. Nó hình thành khẩu vị cá nhân đến khẩu vị cộng đồng (gia đình, họ hàng, vùng miền), từ đó hình thành những nguyên lý, nguyên tắc, quy ước về ăn uống (cách hành xử, đối xử tạo nên triết lý, triết lý sống (ăn gió nằm sương, ăn trộm, ăn cưới, ăn giỗ…) Quan niệm ăn uống của người Việt Nam khác với quan niệm của người phương Tây. Người phương Tây quan niệm ăn uống thể hiện triết lý: Ăn để mà sống, không phải sống để để mà ăn. Chính vì vậy khẩu vị của họ không thay đổi, họ có chung một khẩu vị, ăn những đồ ăn sẵn: đồ hộp, xúc xích, khẩu vị riêng thành khẩu vị chung và đã hình thành nên những quán ăn nhanh Fastfood, quán ăn KFC. Nhưng với người Việt Nam quan niệm “Có thực mới vực được đạo”. Như vậy miếng ăn đã bắt mạch văn hóa, nó quan trọng đến mức như một đấng tối cao, toàn năng đến trời cũng không có quyền xâm phạm “Trời đánh tránh miếng ăn”. Trong ngôn ngữ của người Việt phân biệt ba nội dung: ăn cốt để lo (chém to kho mặn), ăn có nhân cách (đói cho sạch, rách cho thơm), ăn có văn hóa: ăn trong giá trị tự thân của nó, ăn mà không có người thưởng thức, không trong không gian văn hóa thì sẽ không ngon. Ví dụ như: Bạn muốn ăn đồ biển phải ngồi gần biển, nghe tiếng sóng vỗ rì rào mới thưởng thức hết được cái ngon của món ăn. Hay bạn muốn ăn cơm cá kho tộ phải vào miền tây (miền sông nước) mới cảm nhận được hương vị của món ăn. Như vậy, theo quan niệm của người Việt Nam, ăn không phải để sống, ý niệm ăn tồn tại trong mọi sinh hoạt vật chất và tinh thần của con người, hay nói cách khác ăn là hoạt động sống của con người. Đặc trưng của nền văn hóa ẩm thực Việt Nam mang dấu ấn của nền văn minh thực vật. Tính thực vật nó thể hiện ở cơ cấu bữa ăn gồm các thành phần chính: gạo, rau (quả), cá tôm, thịt. Trong đó bữa ăn gọi là bữa cơm, ăn cơm là chính (người sống vì gạo cá bạo vì nước), sau đó là rau (cơm không rau như nhà giàu chết không kèn trống). Do điều kiện tự nhiên ở Việt Nam là địa hình nhiều sông suối nên người Việt thường ăn các loại động vật nước ngọt như cá, tôm… Văn hóa ẩm thực Việt Nam còn mang đậm dấu ấn của văn hóa làng, được biểu hiện cụ thể ở sự cộng cảm, tính cộng đồng và tình nghĩa trong ăn uống. Đó là triết lý cặp đôi, đôi đũa như vợ chồng (Chồng thấp vợ cao như đôi đũa lệch so sao cho vừa), tục chia phần (chia sẻ đồ ăn), cách chế biến món ăn đồ uống có sự pha chế hỗn hợp các thành phần để tạo nên món ăn (Ruột bầu nấu với tép khô), tính cộng cảm (ăn chung mâm, chấm chung bát nước chấm). Văn hóa ẩm thực Việt Nam còn thể hiện rõ nét triết lý Phương đông, đề cao sự hòa hợp và cân bằng âm dương. Nó thể hiện rõ nét ở tập quán dùng gia vị của người Việt Nam rất hài hòa và có sự ứng hợp chuẩn (Con gà cục tác lá chanh, con lợn ủn ỉn cho tôi của hành, con chó khóc đứng khóc ngồi, bà ơi đi chợ mua tôi của giềng…). Việc sử dụng các món ăn đồ uống như một vị thuốc cho cơ thể sự cân bằng giữa con người – môi trường tự nhiên thông qua ăn uống, sử dụng nguyên liệu chế biến theo từng vùng, khí hậu và cách thưởng thức theo từng thời điểm và theo mùa. Ta có thể thấy ẩm thực Việt Nam đã đi vào đời sống vật chất, tinh thần và tâm linh, nó trở thành nét văn hóa, lối sống của người Việt, làm nên bản sắc văn hóa ẩm thực Việt Nam.  Văn hóa ăn uống của người Việt - GS.TS. Trần Văn Khê ”Thật ra, tôi rất ngại trả lời cho những bạn bè người nước ngoài khi họ hỏi tôi: Người Việt Nam ăn uống thế nào? Hay là cách nấu ăn của người Việt có khác người Trung Quốc hay chăng? Vì đó chỉ là những phần nhận xét đã được nhanh chóng đúc kết để đưa ra những câu giải đáp kịp thời chớ không phải do một sự sưu tầm có tính cách khoa học. Trong câu chuyện, một vài bạn trong báo Tuổi Trẻ thấy nhận sét sơ bộ của tôi có phần nào lý thú, nghe vui tai nên nhờ tôi ghi ra thành văn bản. Nay tôi xin gởi đến các bạn đọc vài mẩu chuyện có thật về cách ăn và nấu ăn của người Việt chúng ta, và xin các tay nghề nấu ăn trong nước đừng cười tôi dốt hay nói chữ, dám múa búa trước cửa Lỗ Bang, đánh trống trước cửa nhà Sấm. Trong một bữa tối, một bạn Pháp hỏi tôi: - Chẳng biết người Pháp và người Việt Nam ăn uống khác nhau như thế nào? - Tôi rất ngại so sánh - tôi trả lời - vì so sánh là biết rõ rành mạch cả hai yếu tố This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.

Tìm kiếm

Tìm kiếm

Chủ đề

Mẫu sơ yếu lý lịch Trắc nghiệm Sinh 12 Bài tiểu luận mẫu Hóa học 11 Tài chính hành vi Đơn xin việc Lý thuyết Dow Giải phẫu sinh lý Đồ án tốt nghiệp Atlat Địa lí Việt Nam Đề thi mẫu TOEIC Thực hành Excel adblock Bạn đang sử dụng trình chặn quảng cáo?

Nếu không có thu nhập từ quảng cáo, chúng tôi không thể tiếp tục tài trợ cho việc tạo nội dung cho bạn.

Tôi hiểu và đã tắt chặn quảng cáo cho trang web này

Từ khóa » Tiêu Luận Văn Hóa ẩm Thực Hàn Quốc