Tiểu Luận Về Phát Triển Kinh Tế Bền Vững ở Nước Ta Giai đoạn Hiện Nay

Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)
  1. Trang chủ
  2. >>
  3. Thể loại khác
  4. >>
  5. Tài liệu khác
tiểu luận về phát triển kinh tế bền vững ở nước ta giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.24 KB, 13 trang )

LỜI NÓI ĐẦUPhát triển kinh tế bền vững nhấn mạnh đến khả năng phát triển liên tục lâu dài,không gây ra những hậu quả tai hại khó khôi phục ở những lĩnh vực khác, nhất là thiênnhiên và xã hội. Phát triển kinh tế mà làm hủy hoại môi trường là phát triển không bềnvững, phát triển mà chỉ dựa vào những loại tài nguyên có thể cạn kiệt (mà không lotrước đến ngày chúng cạn kiệt) là phát triển không bền vững. Chẳng hạn, trữ lượng dầumỏ thế giới theo một số tính toán chỉ có thể khai thác được khoảng 50 - 60 năm nữa;trữ lượng than đá thì còn khoảng trên dưới 120 năm nữa. Vậy, nếu các ngành kinh tếchỉ dựa vào những nguồn năng lượng này thì không thể bảo đảm tính bền vững lâu dàiđược. Đồng thời muốn kéo dài sự tồn tại của các ngành kinh tế dựa vào các nguồn nănglượng hóa thạch thì chỉ có thể là phải sử dụng tiết kiệm chúng hoặc là tìm nguồn nănglượng thay thế. Ngoài ra, có quan điểm còn cho rằng, mô hình phát triển kinh tế mà đểphụ thuộc quá nhiều vào ngoại lực (như FDI) cũng là khó bền vững, vì nguồn ấy cónhiều rủi ro, không chắc chắn. Nói ngắn gọn, phát triển kinh tế là không bền vững nếunó thật "nóng", không thể giữ lâu, nền kinh tế chóng rơi vào khủng hoảng, hay ít nhấtcũng chậm lại trong tương lai. Không thể chối cãi: "phát triển kinh tế bền vững" là mộtkhái niệm một phạm trù đang được toàn thế giới lưu tâm."Phát triển kinh tế bền vững” có nội hàm rất rộng, mỗi thành tố trong đó đều cómột ý nghĩa riêng. Một mẫu hình phát triển kinh tế bền vững là mỗi địa phương, vùng,quốc gia không nên thiên về thành tố này và xem nhẹ thành tố kia. Vấn đề là áp dụngnó như thế nào ở các cấp độ trên và trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.Nhưng chỉ để ý đến liên hệ giữa môi trường sinh thái, tài nguyên thiên nhiên và tăngtrưởng kinh tế là chưa toàn diện, chưa bao quát hết nội hàm của khái niệm "bền vững"trong phát triển kinh tế. Khái niệm đó sẽ toàn diện và toàn vẹn hơn nếu được áp dụngvào hai thành tố nòng cốt khác của phát triển, đó là văn hóa và xã hội. Để chuyển hoákhái niệm phát triển kinh tế bền vững từ cấp độ lý thuyết áp dụng vào thực tiễn, kháiniệm cần được làm sáng tỏ sau đó áp dụng trực tiếp đối với các lĩnh vực khác nhau củađời sống kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội. Nhiều công trình nghiên cứu khác đã đisâu nghiên cứu hệ thống và công phu về phát triển kinh tế bền vững.Tuy nhiên, như trên đã phân tích, phát triển kinh tế bền vững có nội hàm rấtrộng, bao gồm nhiều thành tố, mỗi thành tố trong đó đều có một ý nghĩa riêng. Bởivậy, các nghiên cứu chuyên biệt về phát triển kinh tế bền vững đang chưa được thựchiện một cách thật hệ thống, nhất là đặt nó trong mối liên hệ tương tác với các thành1tố quan trọng khác của phát triển kinh tế bền vững. Mặt khác, thực tiễn phát triển kinhtế của Việt Nam đã bộc lộ những dấu hiệu của tính không bền vững. Từ những lý dotrên, tiểu luận đã được lựa chọn với đề tài “Phát triển kinh tế bền vững ở Việt Namhiện nay”.2NỘI DUNGChương 1:Những lý luận về phát triển kinh tế và sự phát triển bền vững1. Cơ sở lý luận.Phát triển bền vững là mối quan tâm trên phạm vi toàn cầu. Trong tiến trìnhphát triển của thế giới, mỗi khu vực và quốc gia xuất hiện nhiều vấn đề bức xúc mangtính phổ biến. Kinh tế càng tăng trưởng thì tình trạng khan hiếm các loại nguyênnhiên liệu, năng lượng do sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên không tái tạo được càngtăng thêm, môi trường thiên nhiên càng bị hủy hoại, cân bằng sinh thái bị phá vỡ,thiên nhiên gây ra những thiên tai vô cùng thảm khốc.Đó là sự tăng trưởng kinh tế không cùng nhịp với tiến bộ và phát triển xã hội.Có tăng trưởng kinh tế nhưng không có tiến bộ và công bằng xã hội; tăng trưởng kinhtế nhưng văn hóa, đạo đức bị suy đồi; tăng trưởng kinh tế làm dãn cách hơn sự phânhóa giàu nghèo, dẫn tới sự bất ổn trong xã hội. Vì vậy, quá trình phát triển cần có sựđiều tiết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với bảo đảm an ninh xã hội và bảo vệ môitrường hay phát triển bền vững đang trở thành yêu cầu bức thiết đối với toàn thế giới.Khái niệm phát triển bền vữngNăm 1980, trong bản “Chiến lược bảo tồn thế giới” do Liên minh Quốc tế Bảotồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên (IUCN-International Union forConservation of Nature and Natural Resources) đã đưa ra mục tiêu của phát triển bềnvững là “đạt được sự phát triển bền vững bằng cách bảo vệ các tài nguyên sinh vật”và thuật ngữ phát triển bền vững ở đây được đề cập tới với một nội dung hẹp, nhấnmạnh tính bền vững của sự phát triển về mặt sinh thái, nhằm kêu gọi việc bảo tồn cáctài nguyên sinh vật.Năm 1987, trong Báo cáo “Tương lai chung của chúng ta”, Ủy ban Thế giới vềMôi trường và Phát triển (WCED-World Commission on Environment andDevelopment) của Liên hợp quốc, "phát triển bền vững" được định nghĩa là “Sự pháttriển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn thương khả năng cho việcđáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”.Quan niệm này chủ yếu nhấn mạnh khía cạnh sử dụng hiệu quả nguồn tàinguyên thiên nhiên và bảo đảm môi trường sống cho con người trong quá trình phát3triển. Phát triển bền vững là một mô hình chuyển đổi mà nó tối ưu các lợi ích kinh tếvà xã hội trong hiện tại nhưng không hề gây hại cho tiềm năng của những lợi íchtương tự trong tương lai (Gôdian và Hecdue, 1988, GS. Grima Lino).Nội hàm về phát triển bền vững được tái khẳng định ở Hội nghị Thượng đỉnhTrái đất về Môi trường và phát triển tổ chức ở Rio de Janeiro (Brazil) năm 1992 vàđược bổ sung, hoàn chỉnh tại Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về Phát triển bền vững tổchức ở Johannesburg (Cộng hoà Nam Phi) năm 2002: "Phát triển bền vững" là quátrình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa 3 mặt của sự phát triển,gồm: phát triển kinh tế (nhất là tăng trưởng kinh tế), phát triển xã hội (nhất là thựchiện tiến bộ, công bằng xã hội; xoá đói giảm nghèo và giải quyết việc làm) và bảo vệmôi trường (nhất là xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môitrường; phòng chống cháy và chặt phá rừng; khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tàinguyên thiên nhiên).Quan niệm về phát triển bền vững dần được hình thành từ thực tiễn đời sống xãhội và có tính tất yếu. Tư duy về phát triển bền vững bắt đầu từ việc nhìn nhận tầmquan trọng của bảo vệ môi trường và tiếp đó là nhận ra sự cần thiết phải giải quyếtnhững bất ổn trong xã hội. Năm 1992, Hội nghị thượng đỉnh về Môi trường và Pháttriển của Liên hợp quốc được tổ chức ở Rio de Janeiro đề ra Chương trình nghị sựtoàn cầu cho thế kỷ XXI, theo đó, phát triển bền vững được xác định là: “Một sự pháttriển thỏa mãn những nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm hại đến khả năng đápứng những nhu cầu của thế hệ tương lai”.Về nguyên tắc, phát triển bền vững là quá trình vận hành đồng thời ba bìnhdiện phát triển: kinh tế tăng trưởng bền vững, xã hội thịnh vượng, công bằng, ổn định,văn hoá đa dạng và môi trường được trong lành, tài nguyên được duy trì bền vững.Do vậy, hệ thống hoàn chỉnh các nguyên tắc đạo đức cho phát triển bền vững baogồm các nguyên tắc phát triển bền vững trong cả “ba thế chân kiềng” kinh tế, xã hội,môi trường.Cho tới nay, quan niệm về phát triển bền vững trên bình diện quốc tế có đượcsự thống nhất chung và mục tiêu để thực hiện phát triển bền vững trở thành mục tiêuthiên niên kỷ.Tiêu chí của phát triển bền vữngThứ nhất, phát triển bền vững về kinh tế là phát triển nhanh và an toàn, chấtlượng. Phát triển bền vững về kinh tế đòi hỏi sự phát triển của hệ thống kinh tế trong4đó cơ hội để tiếp xúc với những nguồn tài nguyên được tạo điều kiện thuận lợi vàquyền sử dụng những nguồn tài nguyên thiên nhiên cho các hoạt động kinh tế đượcchia sẻ một cách bình đẳng. Yếu tố được chú trọng ở đây là tạo ra sự thịnh vượngchung cho tất cả mọi người, không chỉ tập trung mang lại lợi nhuận cho một số ít,trong một giới hạn cho phép của hệ sinh thái cũng như không xâm phạm những quyềncơ bản của con người.Khía cạnh phát triển bền vững về kinh tế gồm một số nội dung cơ bản: Một là,giảm dần mức tiêu phí năng lượng và các tài nguyên khác thông qua công nghệ tiếtkiệm và thay đổi lối sống; Hai là, thay đổi nhu cầu tiêu thụ không gây hại đến đa dạngsinh học và môi trường; Ba là, bình đẳng trong tiếp cận các nguồn tài nguyên, mứcsống, dịch vụ y tế và giáo dục; Bốn là, xóa đói, giảm nghèo tuyệt đối; Năm là, côngnghệ sạch và sinh thái hóa công nghiệp (tái chế, tái sử dụng, giảm thải, tái tạo nănglượng đã sử dụng).Nền kinh tế được coi là bền vững cần đạt được những yêu cầu sau: (1) Có tăngtrưởng GDP và GDP đầu người đạt mức cao. Nước phát triển có thu nhập cao vẫnphải giữ nhịp độ tăng trưởng, nước càng nghèo có thu nhập thấp càng phải tăngtrưởng mức độ cao. Các nước đang phát triển trong điều kiện hiện nay cần tăngtrưởng GDP vào khoảng 5%/năm thì mới có thể xem có biểu hiện phát triển bền vữngvề kinh tế. (2) Cơ cấu GDP cũng là tiêu chí đánh giá phát triển bền vững về kinh tế.Chỉ khi tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP cao hơn nông nghiệp thì tăngtrưởng mới có thể đạt được bền vững. (3) Tăng trưởng kinh tế phải là tăng trưởng cóhiệu quả cao, không chấp nhận tăng trưởng bằng mọi giá.Thứ hai, phát triển bền vững về xã hội được đánh giá bằng các tiêu chí, nhưHDI, hệ số bình đẳng thu nhập, các chỉ tiêu về giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, hưởngthụ văn hóa. Ngoài ra, bền vững về xã hội là sự bảo đảm đời sống xã hội hài hòa; cósự bình đẳng giữa các giai tầng trong xã hội, bình đẳng giới; mức độ chênh lệch giàunghèo không quá cao và có xu hướng gần lại; chênh lệch đời sống giữa các vùng miềnkhông lớn.Công bằng xã hội và phát triển con người, chỉ số phát triển con người (HDI) làtiêu chí cao nhất về phát triển xã hội, bao gồm: thu nhập bình quân đầu người; trìnhđộ dân trí, giáo dục, sức khỏe, tuổi thọ, mức hưởng thụ về văn hóa, văn minh.Phát triển bền vững về xã hội chú trọng vào sự công bằng và xã hội luôn cầntạo điều kiện thuận lợi cho lĩnh vực phát triển con người và cố gắng cho tất cả mọi5người cơ hội phát triển tiềm năng bản thân và có điều kiện sống chấp nhận được. Pháttriển bền vững về xã hội gồm một số nội dung chính: Một là, ổn định dân số, pháttriển nông thôn để giảm sức ép di dân vào đô thị; Hai là, giảm thiểu tác động xấu củamôi trường đến đô thị hóa; Ba là, nâng cao học vấn, xóa mù chữ; Bốn là, bảo vệ đadạng văn hóa; Năm là, bình đẳng giới, quan tâm tới nhu cầu và lợi ích giới; Sáu là,tăng cường sự tham gia của công chúng vào các quá trình ra quyết định.Thứ ba, phát triển bền vững về môi trường. Quá trình công nghiệp hóa, hiệnđại hóa, phát triển nông nghiệp, du lịch; quá trình đô thị hóa, xây dựng nông thônmới,... đều tác động đến môi trường và gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường, điềukiện tự nhiên. Bền vững về môi trường là khi sử dụng các yếu tố tự nhiên đó, chấtlượng môi trường sống của con người phải được bảo đảm. Đó là bảo đảm sự trongsạch về không khí, nước, đất, không gian địa lý, cảnh quan. Chất lượng của các yếu tốtrên luôn cần được coi trọng và thường xuyên được đánh giá kiểm định theo nhữngtiêu chuẩn quốc gia hoặc quốc tế.Khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và cảithiện chất lượng môi trường sống. Phát triển bền vững về môi trường đòi hỏi chúng taduy trì sự cân bằng giữa bảo vệ môi trường tự nhiên với sự khai thác nguồn tàinguyên thiên nhiên phục vụ lợi ích con người nhằm mục đích duy trì mức độ khaithác những nguồn tài nguyên ở một giới hạn nhất định cho phép môi trường tiếp tụchỗ trợ điều kiện sống cho con người và các sinh vật sống trên trái đất.Phát triển bền vững về môi trường gồm những nội dung cơ bản: Một là, sửdụng có hiệu quả tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên không tái tạo; Hai là, phát triểnkhông vượt quá ngưỡng chịu tải của hệ sinh thái; Ba là, bảo vệ đa dạng sinh học, bảovệ tầng ôzôn; Bốn là, kiểm soát và giảm thiểu phát thải khí nhà kính; Năm là, bảo vệchặt chẽ các hệ sinh thái nhạy cảm; Sáu là, giảm thiểu xả thải, khắc phục ô nhiễm(nước, khí, đất, lương thực thực phẩm), cải thiện và khôi phục môi trường những khuvực ô nhiễm...6Chương 2:Thực trạng tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững nền kinh tế ở Việt Nam1. Về tốc độ tăng trưởngTốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thời gian qua tương đối cao nhưngthiếu bền vững, điều này được thể hiện ở tốc độ tăng trưởng qua từng năm và từngthời kỳ. Giai đoạn 2001-2005, tăng trưởng bình quân đạt 7,5%/năm; giai đoạn 2006-2010 giảm xuống còn 6,9%/năm; năm 2011 đạt 6,24%, năm 2012 đạt 5,25%, năm2013 đạt 5,5%, năm 2014 tăng trưởng đạt trên 6% và 6 tháng đầu năm 2015 đạt6,22%. Số liệu này cho thấy tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam có xu hướnggiảm. Nhìn chung, các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế có mức tăng, song cũngchưa thực sự bền vững.2. Về năng lực cạnh tranhKinh tế tăng trưởng cao trong một thời gian dài nên quy mô của nền kinh tếtăng lên rõ rệt, điều này đã làm cho vị thế kinh tế của Việt Nam trên trường quốc tếđược nâng lên đáng kể. Tuy nhiên, năng lực cạnh tranh quốc giacòn thấp và chậmđược cải thiện. Chỉ số năng lực cạnh tranh tổng hợp (Global Competitiveness Index)của nước ta liên tục giảm. Cụ thể, thứ hạng của Việt Nam như sau: hạng 61 năm2004-2005; hạng 64 năm 2006-2007; hạng 68 năm 2007-2008; hạng 70 năm 20082009 và hạng 75 năm 2009-2010. Không những tụt hạng theo thời gian, tức là nănglực cạnh tranh tổng thể của Việt Nam chậm được cải thiện so với các quốc gia kháctrên thế giới, mà chúng ta còn chậm tiến bộ so với chính bản thân chúng ta.3. Về cơ cấu các thành phần kinh tếCơ cấu các thành phần kinh tế của Việt Nam có sự thay đổi tích cực. Các thànhphần kinh tế đã chuyển dịch theo hướng từ độc tôn khu vực kinh tế nhà nước, đến nayđã có đầy đủ các thành phần kinh tế hoạt động cạnh tranh lành mạnh, hỗ trợ và tạođộng lực cho nhau để phát triển. Các thành phần kinh tế đã phát huy tiềm năng, thếmạnh để phát triển. Khu vực kinh tế ngoài nhà nước ngày càng chiếm tỷ trọng lớntrong GDP (riêng khu vực kinh tế tư nhân chiếm trên 30% GDP năm 2013); khu vựckinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng đóng vai trò quan trọng trongtăng trưởng, chiếm khoảng trên 20% GDP, chiếm tỷ lệ lớn trong tổng kim ngạch xuấtkhẩu của Việt Nam trong những năm vừa qua.7Khu vực kinh tế nhà nước đang được tổ chức lại, đổi mới và chiếm tỷ trọngngày càng nhỏ dần trong GDP: chiếm 40,28% GDP vào năm 1995, năm 2000 chiếm38,52% GDP, năm 2005 là 38,40% và năm 2010 là 33,74% và chi phối nhiều ngànhkinh tế then chốt, tập trung vào những lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế.Sự phát triển tích cực của các thành phần kinh tế thời gian qua đã góp phần tạonhiều công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, góp phần ổn định tình hình kinh tế,chính trị, xã hội. Tuy nhiên, sự yếu kém về trình độ công nghệ, quy mô sản xuất nhỏ,công nghệ lạc hậu, khả năng tích tụ vốn và huy động vốn thấp, trình độ và kỹ năngquản lý yếu nên năng lực cạnh trạnh của các thành phần kinh tế không cao, dẫn đếnnăng lực cạnh tranh của Việt Nam rất thấp.4. Về chuyển dịch cơ cấu kinh tếTăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia thường đi liền với chuyểndịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là cơ cấu ngành kinh tế. Trong những năm qua, cơ cấukinh tế chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH, phát huy lợi thế so sánh ngành và vùnglãnh thổ. Gắn khai thác, phân phối, sử dụng các nguồn lực và quá trình sản xuất vớithị trường. Xu hướng chung là công nghiệp - xây dựng, thương mại - dịch vụ tăngnhanh và nền kinh tế từng bước được hiện đại hóa.Trong điều kiện điểm xuất phát thấp về kinh tế - xã hội, kỹ thuật, vốn đầu tưphát triển ít ỏi và bắt đầu từ cơ sở kinh tế tự túc, tự cấp là chính, đạt được sự chuyểndịch cơ cấu ngành kinh tế như trên là một thành công lớn, giúp Việt Nam nhanhchóng thoát khỏi tình trạng nước kém phát triển. Tuy vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tếcòn diễn ra chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu. Tỷ trọng nông - lâm - thủy sản cònchiếm tới 22,02%. Về cơ bản vẫn là cơ cấu kinh tế của một nước nông nghiệp, côngnghiệp và dịch vụ kém phát triển, đặc biệt là ngành dịch vụ trong suốt hơn 10 nămqua hầu như không thay đổi. Nếu phân tích sâu hơn về sự chuyển dịch cơ cấu trongnội bộ từng ngành kinh tế thì có thể thấy rằng, chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷtrọng những mặt hàng, những lĩnh vực có giá trị gia tăng cao, có khả năng cạnh tranhcao, có hàm lượng chất xám cao... còn diễn ra rất chậm.Chất lượng tăng trưởng, hiệu quả sử dụng các nguồn lực thấp, chậm được cảithiện và ngày càng có xu hướng giảm sútHệ số ICOR của nền kinh tế ngày càng cao: Thời kỳ 1996 - 2000 bình quân là4,7; thời kỳ 2001 - 2005 là 5,2; thời kỳ 2006 - 2010 là 6,1; năm 2010 là 6,2; năm2011 là 6,2 và năm 2012 là 6,7. Đóng góp của yếu tố lao động đã nhỏ nhưng lại có xu8hướng giảm là bất hợp lý đối với một nước có tiềm năng về số lượng lao động và giárẻ. Đóng góp của yếu tố lao động vào tăng trưởng kinh tế thời kỳ 1990 - 2000 là 22%,thời kỳ 2001 - 2010 giảm xuống 19%. Điều này phản ánh những bất cập sau: chưa tậndụng hết lực lượng lao động vào hoạt động kinh tế; chất lượng lao động thấp, năngsuất lao động xã hội không cao.Đóng góp của các nhân tố năng suất tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tếnhỏ và có xu hướng giảm sút: thời kỳ 1990 - 2000 là 44%, giảm xuống còn 26% thờikỳ 2001 - 2010. Điều này phản ánh tính chất lạc hậu về công nghệ kỹ thuật và hiệuquả của tăng trưởng ngày càng thấp. Đóng góp của TFP vào tăng trưởng thấp là do:hàm lượng công nghệ trong giá trị sản phẩm thấp; trình độ công nghệ của các ngànhkinh tế thấp; hoạt động chuyển giao công nghệ kém hiệu quả và công tác nghiên cứuvà triển khai (R&D) trong nước còn nhiều hạn chế.Hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế nhà nước không cao; cơ cấu kinh tếchậm chuyển dịch theo hướng hợp lý và hiệu quảĐáng chú ý là khu vực quốc doanh chiếm một lượng vốn rất lớn, song đầu tưrất kém hiệu quả, thể hiện ở các chỉ số ICOR, tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư, tỷsuất lợi nhuận trên vốn kinh doanh, vấn đề giải quyết việc làm... điều này không chỉảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động mà còn làm hạn chế sự năng động của nền kinh tế.Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP hiện còn chiếm trên 22%, tỷ trọng của dịchvụ chỉ chiếm chưa đầy 39% và hầu như không thay đổi trong 10 năm gần đây; tỷtrọng ngành công nghiệp - xây dựng chiếm từ 42% - 43% GDP. Trình độ công nghệcủa các ngành công nghiệp lạc hậu và chậm đổi; chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa tốiưu và đồng đều, chưa phát huy lợi thế trong từng ngành, từng vùng, từng sản phẩm;vẫn còn nhiều ngành tăng trưởng dựa vào khai thác tài nguyên.Kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật còn nhiều yếu kém; môi trường và tài nguyênthiên nhiên đang bị suy thoái nhanh chóng dưới áp lực tăng trưởng nhanhPhát triển đô thị, đặc biệt là phát triển nông thôn còn thiếu quy hoạch và tựphát, hoặc có quy hoạch nhưng quản lý kém. Kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội còn lạchậu, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững. Môi trường thành thị và nhiều vùngnông thôn ngày càng bị ô nhiễm do chất thải sinh hoạt, chăn nuôi và nông dược...Những điều đó dẫn đến năng lực cạnh tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh của doanhnghiệp Việt Nam và năng lực cạnh tranh của sản phẩm đều hết sức thấp kém.9Các vấn đề môi trường như ô nhiễm môi trường, suy giảm đa dạng sinh học,khai thác khoáng sản và quản lý chất thải rắn đang ngày càng nghiêm trọng.Kinh tế vĩ mô thiếu vững chắc và có những dấu hiệu bất ổn; thể chế kinh tế thịtrường chưa đồng bộ, chất lượng nguồn nhân lực thấpNợ công gia tăng, chiếm tỷ lệ lớn trong GDP. Hiện nợ công của Việt Namchiếm trên 60% GDP. Thâm hụt ngân sách với tỷ lệ khá cao. Bội chi ngân sách hàngnăm từ khoảng từ 3% - 6% GDP. Nguồn lực vốn cho tăng trưởng vẫn dựa quá nhiềuvào nguồn lực bên ngoài, trong đó, vốn vay ODA chiếm tỷ trọng cao, gây nên gánhnặng nợ quốc gia ngày càng tăng và đe dọa sự ổn định tài chính trong tương lai. Hệthống ngân hàng thương mại đang tiềm ẩn nhiều rủi ro, nợ xấu chưa được xử lý đangđe dọa đến an ninh tài chính quốc gia.Thể chế kinh tế thị trường chưa đồng bộ, chất lượng nguồn nhân lực thấp, cùngvới kết cấu hạ tầng thấp kém là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển.Do đó, cần phải có sự thay đổi mạnh mẽ cả về tư duy, nhận thức, mục tiêuphát triển bền vững và các giải pháp phải ngày càng mạnh mẽ hơn, triệt để hơn,hệ thống hơn.3. Giải pháp để phát triển bền vững nền kinh tế ở Việt NamMột là, đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng chuyển nền kinh tếphát triển theo chiều rộng sang chiều sâuTăng cường năng lực về khoa học công nghệtrong phát triển kinh tế, nhất làphát triển mạnh mẽ công tác R&Dtrong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tập trungvào phát triển các ngành, các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, thân thiện với môitrường, tăng cường đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật hiện đại.Nghiên cứu và triểnkhai áp dụng mạnh mẽ mô hình tăng trưởng xanh. Đây là mô hình mà các quốcgiaphát triểnđã và đang áp dụng.Hai là, sử dụng tốt các nguồn lực để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vữngGiải phóng nguồn nhân lực, sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực và tạo động lựcmới để nguồn nhân lực phát huy tiềm năng, thế mạnh trong phát triển kinh tế. Nhànước cần có các quyhoạch sử dụng và phát triển nguồn tài nguyên thiên nhiên củaquốc gia một cách tối ưu nhất, sử dụng hiệu quảnguồn lực vốn. Cải thiện môi trườngkinh doanh và môi trường đầu tư nhằm khuyến khích tất cả các thành phần kinh tếđầu tư sản xuất kinh doanh. Tạo môi trường, thể chế sản xuất - kinh doanh đồng bộ,10lành mạnh để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.Đổi mới cơ chế, tổ chức bộ máy và phươngthức hoạt động của Nhà nước. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính theo hướngthông thoáng, công khai, minh bạch để thúc đẩy đầu tư, tăng trưởng kinh tế. Kiênquyết xử lý nghiêm tình trạng các địa phương, ngành dựng lên những rào cản (giấyphép con) trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.Ba là, tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳngTrong nền kinh tế thị trường, công bằng về cơ hội cho mọi chủ thể trong nềnkinh tế là điều kiện hết sức quan trọng. Cơ chế, mô hình và cách thức can thiệp củaNhà nước trong nền kinh tế thị trường hiện đại phải theo hướng tôn trọng các quy luậtkhách quan của thị trường, tức là phải tạo ra một môi trường để các chủ thể trong nềnkinh tế cạnh tranh với nhau một cách bình đẳng, phải lấy thị trường làm căn cứ đểphân bổ nguồn lực vốn có hiệu quả, hạn chế tới mức thấp nhất sự can thiệp hànhchính của Nhà nước vào nền kinh tế. Đảm bảo cho mọi chủ thể trong nền kinh tế thịtrường cạnh tranh công bằng và bình đẳng, có cơ hội ngang nhau trong việc tiếp cậnnguồn lực vốn.Bốn là, đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách kinh tế, bảo vệ môi trườngvà đảm bảo công bằng xã hộiViệc đổi mới hệ thống chính sách kinh tế, bảo vệ môi trường và chính sách xãhội phải được tiến hành đồng thời và kết hợp theo hướng mỗi chính sách kinh tế phảigắn với mục tiêu phát triển bền vững, công bằng xã hội và mỗi chính sách phát triểnbền vững, chính sách xã hội phải dựa trên những cơ sở tiền đề vật chất của quá trìnhtăng trưởng kinh tế và đặc biệt nó phải tạo được động lực cho tăng trưởng kinh tế,thực hiện được mục tiêu phát triển bền vững. Tránh tình trạng chính sách tăng trưởngkinh tế bằng mọi giá, xung đột với mục tiêu phát triển bền vững.Theo đó, hệ thống chính sách kinh tế phải đổi mới theo hướng tạo mọi điềukiện huy động các nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế và nâng cao hiệu quả sản xuất,kinh doanh, tăng thu nhập cho người lao động. Đổi mới chính sách xã hội theohướng đảm bảo công bằng xã hội, tạo điều kiện tốt hơn để người dân tiếp cận cácdịch vụ thiết yếu, các nguồn lực, khuyến khích làm việc tăng thu nhập. Chính sáchkinh tế và chính sách xã hội phải thực sự là kênh để điều tiết thu nhập giữa cácngành, giữa các doanh nghiệp, vùng, miền và giữa các bộ phận dân cư. Chính sáchmôi trường phải thực sự làm tăng trưởng kinh tế và thực hiện tốt mục tiêu phát triểnbền vững về môi trường.11Năm là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lựcĐể nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu tăng trưởng kinh tếnhanh, bền vữngcần tập trung vào các biện pháp: đổi mới hệ thống giáo dục - đàotạo,đổi mớinội dung giáo dục - đào tạo theo yêu cầu của thị trường lao động, nâng cấptrang thiết bị dạy học, học nghề,tiêu chuẩn hóa các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng tay nghề,bồi dưỡng kỹ năng với những tiêu chí chất lượng phù hợp, đào tạo người lao động cókhả năng thích ứng tốt với cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.KẾT LUẬN12Tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần đối với phát triển kinh tế, song nó khôngphải là điều kiện đủ cho việc phát triển kinh tế. Nếu một đất nước có tốc độ tăngtrưởng kinh tế quá nhanh sẽ làm cho nền kinh tế phát triển không bền vững. Vì thế, đểcó được một nền kinh tế phát triển bền vững phải kết hợp nhiều yếu tố như môitrường, có cơ cấu kinh tế một cách hợp lí, và đặc biệt là phải quan tâm đến việc cảithiện đời sống cho người dân.Phát triển kinh tế bền vững là mục tiêu hướng tới của nhiều quốc gia.Tính bềnvững về kinh tế được thể hiện trên các khía cạnh: sự gia tăng quy mô kinh tế, tăngtrưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ và bình đẳng về cơ hộitham gia cũng như hưởng thụ thành quả phát triển của mọi người. Với những phântích trên, có thể thấy, phát triển bền vững đã trở thành một phương thức phát triểntổng hợp đa ngành, liên ngành, thành chương trình hành động với nhiều tiêu chí ngàycàng được cụ thể và rõ nét. Phát triển bền vững, vì vậy, mang tính tất yếu và là mụctiêu cao đẹp nhất của quá trình phát triển.13

Tài liệu liên quan

  • Biện pháp thúc đẩy hoạt động tiêu thụ hàng hoá của các doanh nghiệp thương mại ở nước ta giai đoạn hiện nay.docx Biện pháp thúc đẩy hoạt động tiêu thụ hàng hoá của các doanh nghiệp thương mại ở nước ta giai đoạn hiện nay.docx
    • 17
    • 868
    • 2
  • Một số giải pháp cơ bản phát triển dịch vụ thông tin hỗ trợ các hoạt động thương mại nước ta giai đoạn hiện nay Một số giải pháp cơ bản phát triển dịch vụ thông tin hỗ trợ các hoạt động thương mại nước ta giai đoạn hiện nay
    • 69
    • 499
    • 2
  • Một số giải pháp cơ bản phát triển dịch vụ thông tin hỗ trợ các hoạt động thương mại nước ta giai đoạn hiện nay Một số giải pháp cơ bản phát triển dịch vụ thông tin hỗ trợ các hoạt động thương mại nước ta giai đoạn hiện nay
    • 50
    • 384
    • 0
  • Một số giải pháp cơ bản phát triển dịch vụ thông tin hỗ trợ các hoạt động thương mại nước ta giai đoạn hiện nay Một số giải pháp cơ bản phát triển dịch vụ thông tin hỗ trợ các hoạt động thương mại nước ta giai đoạn hiện nay
    • 71
    • 404
    • 0
  • 222 Thực trạng và giải pháp phát triển hệ thống siêu thị ở nước ta trong đoạn hiện nay 222 Thực trạng và giải pháp phát triển hệ thống siêu thị ở nước ta trong đoạn hiện nay
    • 167
    • 1
    • 1
  • Nghiên cứu về vấn đề  quản lý giá thuốc ở nước ta giai đoạn hiện nay Nghiên cứu về vấn đề quản lý giá thuốc ở nước ta giai đoạn hiện nay
    • 34
    • 717
    • 0
  • phát triển dịch vụ thông tin hỗ trợ các hoạt động thương mại nước ta giai đoạn hiện nay phát triển dịch vụ thông tin hỗ trợ các hoạt động thương mại nước ta giai đoạn hiện nay
    • 59
    • 390
    • 0
  • Những giải pháp về khai thác khả năng tiềm tàng tăng năng suất lao động trong sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta giai đoạn hiện nay Những giải pháp về khai thác khả năng tiềm tàng tăng năng suất lao động trong sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta giai đoạn hiện nay
    • 41
    • 1
    • 35

Từ khóa » Tiểu Luận Kinh Tế Phát Triển Bền Vững