Tiểu Sử Nguyễn Công Trứ

  • Đăng nhập
Banner
  • GIỚI THIỆU
    • Lãnh đạo nhà trường qua các thời kì
    • Lịch sử hình thành và phát triển
    • Tiểu sử Nguyễn Công Trứ
  • CHUYỂN ĐỔI SỐ
    • VNeID [BỘ CÔNG AN]
    • Văn bản chỉ đạo chuyển đổi số
    • Cổng dịch vụ công Quốc gia
    • Cẩm nang chuyển đổi số
  • VĂN BẢN - CÔNG VĂN
    • Văn bản nhà trường
    • Thông báo, phổ biến
    • Các khoản thu chi
  • CHUYÊN MÔN
    • Hoạt động chuyên môn
    • Hoạt động - Sự kiện
    • Hoạt động Đoàn - Đội
    • Hoạt động NGLL
  • CÔNG KHAI TT36
  • GIÁO DỤC-HƯỚNG NGHIỆP
    • Văn bản chỉ đạo các cấp
    • Thông tin tuyển sinh của các Trường nghề trong tỉnh BR-VT
    • Tài liệu Giáo dục - Hướng nghiệp
  • HỌC LIỆU
    • BGĐT-ĐỀ CƯƠNG-ĐỀ KIỂM TRA
      • Năm học 2022-2023
      • Năm học 2015-2016
      • Năm học 2016-2017
      • Năm học 2017-2018
      • Năm học 2018-2019
      • Năm học 2019-2020
      • Năm học 2020-2021
      • Năm học 2021-2022
    • Tài liệu giáo dục địa phương
    • Bài giảng điện tử
      • 2023-2024
      • 2024 - 2025
    • Biểu mẫu - Tài liệu
      • Tài liệu giáo dục địa phương
    • Tài liệu BDTX
    • Đề tài NCKH - SKKN
    • Thư viện ảnh
    • Video Clip
  • THƯ VIỆN
    • Giới thiệu thư viện
    • Nội qui thư viện
    • Hướng dẫn sử dụng Thư viện
    • Chức năng - Nhiệm vụ
    • Thư mục Sách
      • Sách tham khảo
      • Sách Lịch sử-Địa lí
      • Sách Vật lí
      • Sách Hóa học
      • Sách Sinh học
      • Sách Toán học
      • Sách Văn học
      • Sách Tiếng Anh
  • LIÊN HỆ
Thứ hai, 15/12/2025 - 17:43| CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐẾN VỚI CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ CHÍNH THỨC CỦA TRƯỜNG THCS NGUYỄN CÔNG TRỨ, HUYỆN LONG ĐẤT

Nội dung đang cập nhật...

    Nội dung đang cập nhật...

Tiểu sử Nguyễn Công Trứ

          ĐÔI NÉT VỀ CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA NGUYỄN CÔNG TRỨ

1. Tiểu sử:

         Nguyễn Công Trứ hiệu là Ngộ Trai, biệt hiệu Hy Văn, sinh năm 1778, đời vua Cảnh Hưng thứ 38; quê quán làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Nghệ Tĩnh. Thân phụ Nguyễn Công Trứ là Đức Ngạn Hầu Nguyễn Công Tấn. Thân mẫu họ Nguyễn, người xứ Sơn Nam. Gia thế Nguyễn Công Trứ là một thi thư thế phiệt, khoa giáp danh gia, đầy đủ trung thần liệt nữ, đạo cương thường sáng chói cả một vùng Hồng Sơn, Lam Thủy.

          Thuở thiếu thời là một thư sinh nghèo khó, Uy Viễn tướng công vẫn dùi mài kinh sử. Buổi hàn vi đó, Nguyễn Công Trứ đã lo lắng nhiều đến vận mệnh nhân dân, tương lai đất nước. Năm 28 tuổi, khi vua ra Bắc làm lễ tấn phong, Nguyễn Công Trứ đã đón xa giá nhà vua để dâng “Thái Bình Thập Sách” nhằm hiến kế phò nước an dân.• Năm 1819: Nguyễn Công Trứ đậu Giải Nguyên và sau đó là suốt ba mươi năm trời lận đận trên hoạn hải ba đào.• Năm 1820: Hành tẩu Sứ quán, Tham tri Bộ Lễ.• Năm 1824: Giữ chức Lang trung Bộ Lại, Quốc tử giám tư nghiệp.• Năm 1825: Tham biện Thanh Hóa.• Năm 1827: Binh Bộ Tham tri, Nội các Cơ viện.• Năm 1829: Sung chức Doanh điền sứ, chiêu mộ dân binh khai phá hai huyện Kim Sơn và Tiền Hải.• Năm 1832: Binh Bộ hữu Tham tri, Bố Chánh Hải Dương, Tổng đốc Hải An.• Năm 1836: Sau công dẹp loạn, phong Binh Bộ Thượng thư, biểu “Lao năng khả tưởng”.• Năm 1840: Sau hai năm giáng, được thăng Chánh chủ khảo trường thi Hà Nội.• Năm 1841: Vua cử Tham tán Quân vụ, trấn Tây Cao Miên.• Năm 1842: Giáng Binh Bộ Lang trung và giữ chức Tuần vũ An Giang.• Năm 1844: Khai phục Binh Bộ Tham tri.• Năm 1845: Sau một năm giáng được cử làm Chủ sự Bộ Hình, Án sát Quảng Ngãi.• Năm 1847: Vua phong Thừa Thiên Phủ doãn.

• Năm 1857: Liên quân Pháp - Bồ nổ súng xâm lược nước ta, Nguyễn Công Trứ đã nghỉ hưu, tuổi già sức yếu nhưng vẫn xung phong ra chốn trận tiền, kháng quân xâm lược.

Giờ Sửu, ngày 14 tháng 11 năm Mậu Ngọ, nhằm ngày 18 tháng 12 năm 1858, Uy Viễn tướng công trút hơi thở cuối cùng, từ giã cõi đời. Triều đình đã tổ chức chịu tang với lời điếu của Vua ban:

“TẢ HỮU NGHI VĂN NGHI VÕTỬ SINH DANH TƯỚNG DANH THẦN”

2. Sự nghiệp: (Quân sự, Kinh tế, Thơ ca):

- Quân sự: Do chính sách hà khắc của nhà Nguyễn dưới triều đại Gia Long và Minh Mạng nên đã xảy ra liên tiếp nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân. Nguyễn Công Trứ tuy là quan văn nhưng phải cầm quân, làm tướng, đánh đâu thắng đó: 1827 dẹp Khởi nghĩa Phan Bá Vành1833 dẹp Khởi nghĩa Nông Văn Vân1835 dẹp giặc Khách. Ông cũng góp nhiều công lớn trong cuộc Chiến tranh Việt–Xiêm (1841-1845). Đến đời vua Tự Đức thứ 11 (1858), khi thực dân Pháp tấn công Đà Nẵng, thì ông đã 80 tuổi nhưng vẫn xin vua cho đi đánh giặc (theo SGK lịch sử 11 nâng cao 1998).

- Kinh tế: Ông có sáng kiến chiêu mộ dân nghèo, đắp đê lấn biển, lập ấp, khai sinh các huyện Kim Sơn (thuộc tỉnh Ninh Bình ngày nay), Tiền Hải (thuộc tỉnh Thái Bình ngày nay) vào những năm cuối thập niên 1820, đề xuất lập nhà học, xã thương ở nông thôn nhằm nâng cao dân trí và lưu thông hàng hóa. Những hoạt động của ông trong lĩnh vực kinh tế được nhân dân các vùng kể trên ghi nhớ. Hiện nay còn rất nhiều từ đường thờ cúng ông ở hai huyện nói trên và quê hương ông. Nhiều đình chùa tại các địa phương này cũng thờ ông và tôn ông làm thành hoàng làng.

- Thơ ca: Nguyễn Công Trứ là người có tài. Là một người của hành động, trải qua nhiều thăng trầm, Nguyễn Công Trứ hiểu sâu sắc nhân tình thế thái đương thời. Ông khinh bỉ và ngán ngẩm nó.

Thế thái nhân tình gớm chết thayLạt nồng coi chiếc túi vơi đầyHoặc:Tiền tài hai chữ son khuyên ngượcNhân nghĩa đôi đường nước chảy xuôiHoặc:Ra trường danh lợi vinh liền nhụcVào cuộc trần ai khóc trước cười.

        Trong xử thế ông cười nhạo sự thăng giáng, coi làm quan thì cũng như thằng leo dây và không giấu sự ngạo mạn:

Nào nào! Thằng nào sợ thằng nàoĐã sa xuống thấp lại lên cao      Chán chường với chốn quan trường nhưng ông không chán đời. Ông vốn yêu đời, là người chịu chơi, với ông cái gì cũng có thể đem chơi kể cả tài kinh bang tế thế. (ông vì không dược triều đình nhà nguyễn trọng dụng cái tài của mình đặc biệt là ở thời vua Tự Đức nên ông chán chường mới than thở trời sinh cho nhưng không được dùng)Trời đất cho ta một cái tàiGiắt lưng dành để tháng ngày chơi.

Nguyễn Công Trứ là người đào hoa, mê hát ả đào, ông viết nhiều bài ca trù đa tình. Ngất ngưởng, ngông nghênh, về hưu đi chơi ông không dùng ngựa mà dùng . Bảy mươi ba tuổi ông cưới vợ, trả lời cô dâu khi nàng hỏi tuổi:

Năm mươi năm trước, anh hai ba(Ngũ thập niên tiền, nhị thập tam)

Hoặc trong bài "Bỡn nhân tình":

Tau ở nhà tau, tau nhớ miNhớ mi nên phải bước chân điKhông đi mi nói: răng không đến?Đến thì mi nói: đến làm chi

Ngay lúc chua chát nhìn lại đời mình, ông vẫn là người đầy khí phách:

Kiếp sau xin chớ làm ngườiLàm cây thông đứng giữa trời mà reoGiữa trời vách đá cheo leoAi mà chịu rét thì trèo với thông

Ghi chú: Cây thông trong cách hiểu Nho-Khổng giáo là người quân tử.

         Đời ông đầy giai thoại, giai thoại nào cũng cho thấy bản lĩnh sống, bản lĩnh trí tuệ và mang tính bình dân sâu sắc. Có thể nói thơ ông sinh động, giàu triết lý nhân văn nhưng hóm hỉnh, đó là chất thơ có được từ đời sống, lấy đời sống làm cốt lõi.

Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguyễn_Công_Trứ

  • Chia sẻ:
  • Chia sẻ bài viết lên facebook
  • Chia sẻ bài viết lên twitter
  • |
  • In bài viết

Từ khóa » Nguyễn Công Trứ Có Bao Nhiêu Vợ