Tìm Hiểu Chi Tiết Văn Bản: Tây Tiến - Quang Dũng | Ngữ Văn 12

I. Tìm hiểu chung

1. Tác giả

– Quang Dũng tên thật là Bùi Đình Diệm (1921 – 1988) tại làng Phượng Trì, huyện Đan Phượng (nay thuộc Hà Nội). Ông là một nhà thơ nổi tiếng của nền văn học Việt Nam hiện đại, là tác giả của một số bài thơ được nhiều bạn đọc biết đến như Tây Tiến, Đôi mắt người Sơn Tây, Đôi bờ,… Ngoài ra ông còn là một họa sĩ, nhạc sĩ.

– Trước cách mạng tháng Tám, ông học Ban trung học trường Thăng Long. Sau khi tốt nghiệp, ông đi dạy học tư ở Sơn Tây. Ông gia nhập quân đội Nhân dân Việt Nam vào ngày Cách mạng tháng Tám thành công, trở thành phóng viên tiền phương của báo Chiến đấu.

– Năm 1947, ông được điều đi học Trường bổ túc trung cấp quân sự Sơn Tây. Sau khóa học ông làm Đại đội trưởng ở tiều đoàn 212, Trung đoàn Tây Tiến. Ông thâm gia chiến dịch Tây Tiến đợt hai, mở đường qua Tây Bắc. Trong thời gian này, ông còn được cử làm Phó đoàn tuyên truyền Lào – Việt.

– Cuối năm 1948, sau chiến dịch Tây Tiến, ông làm Trưởng tiểu ban tuyên huấn của Trung đoàn 52 Tây Tiến, rồi làm Trưởng đoàn Văn nghệ Liên khu III. Ông đã viết rất nhiều truyện ngắn xuất bản và viết kịch, cũng như đã triển lãm tranh sơn dầu cùng với các họa sĩ nổi danh. Ông sáng tác nhạc, bài Ba Vì của ông đã nổi tiếng ở trong khu kháng chiến. Ông làm bài thơ Tây Tiến năm 1948 khi dự Đại hội toàn quân ở Liên khu III tại làng Phù Lưu Chanh (Hà Nam). Tháng 8 năm 1951, ông xuất ngũ.

– Sau 1954, ông làm Biên tập viên tại báo Văn nghệ, rồi chuyển về Nhà xuất bản Văn học. Ông mất ngày 13/10/1988 sau một thời gian dài đau ốm tại bệnh viên Thanh Nhàn, Hà Nội. Năm 2001, ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.

2. Hoàn cảnh sáng tác

– Sau cách mạng tháng Tám thành công, Quang Dũng gia nhập bộ đội. Năm 1947, ông tham gia đoàn quân Tây Tiến với chức vụ đại đội trưởng.

– Tây Tiến là đơn vị bộ đội thành lập năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào, địa bàn hoạt động suốt miền núi Tây Bắc từ Châu Mai, Châu Mộc sang Sầm Nứa cho tới miền Tây Thanh Hóa. Ngày ấy nơi đây còn rất hoang vu, hiểm trở, núi cao sông sâu.

– Những người lính trong đoàn quân Tây Tiến năm ấy chủ yếu là học sinh, trí thức ra đi từ những mái trường, từ phố phường Hà Nội chiến đấu trong những hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn về vật chất, chết vì sốt rét nhiều hơn là vì súng đạn. Tuy vậy, các anh vẫn phơi phới tinh thần lạc quan anh hùng.

– Người lính mang trong mình sự trẻ trung khỏe khoắn, hào hoa, thanh lịch. Ở họ vừa cháy bỏng lí tưởng quyết tử cho tổ quốc quyết sinh vừa mang trong mình nét lãng mạn mộng mơ. Nét độc đáo này ở người lính Tây Tiến đã thực sự làm hồn thơ Quang Dũng rung động.

– Cuối năm 1948 Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác, khi dự hội nghị toàn quân ở Phù Lưu Chanh tác giả bồi hồi nhớ lại những kỷ niệm kháng chiến cùng đồng đội ở đơn vị cũ trong những tháng năm ở miền biên cương Tây Bắc. Những ngày tháng gian khổ mà hào hùng ấy đã rung lên những dây tơ xúc cảm trong tâm hồn nhà thơ viết nên bài thơ Tây Tiến. Bài thơ ban đầu có tựa đề Nhớ Tây Tiến in trong tập thơ Mây đầu ô.

3. Chủ đề

– Quang Dũng ngợi ca vẻ đẹp của người lính Tây Tiến, cũng là vẻ đẹp của những người lính trong kháng chiến chống Pháp.

– Qua đó, nhà thơ còn thể hiện tình cảm sâu nặng của nhà thơ với đơn vị Tây Tiến, với cảnh vật và con người Tây Bắc một thời gắn bó.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Khung cảnh thiên nhiên miền Tây và cuộc hành quân của đoàn quân Tây Tiến

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”.

– Hai câu đầu khái quát nỗi nhớ:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”.

+ Sông Mã là con sông lưu giữ nhiều kỷ niệm về đồng đội cũ, được nhắc đến như một cái cớ khơi gợi cảm xúc.

+ Cụm từ “xa rồi”, gợi lên cảm giác tiếc nuối, xót xa đến quặn lòng như bị mất mát một điều gì lớn lao. Lời thơ cảm thán “Tây Tiến ơi”, là tiếng kêu xé lòng, day dứt về đồng đội.

+ Điệp từ “nhớ” lặp lại hai lần làm cho nỗi nhớ cháy bỏng, da diết đến quặn lòng, day dứt về đồng động. Nhớ rừng núi là nhớ về thiên nhiên Tây Bắc, nhớ về con đường hành quân cũng là nhớ về Tây Tiến. Từ láy chơi vơi diễn tả cảm giác bồng bềnh, huyền ảo, lơ lửng. Đó là nỗi nhớ của xóa nhòa không gian, thời gian, đưa con người đắm vào quá khứ, sống với kỷ niệm. Với cách sử dụng điệp vần ơi trong các tiếng ơi, chơi, vơi tạo âm hưởng mênh mang như kéo dài thêm nỗi nhớ.

– Nhớ Tây Bắc khắc nghiệt:

“Sài khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.

+ Tác giả liệt kê các địa danh Sài Khao, Mường Lát để tạo ấn tượng về sự xa xôi, heo hút, bí ẩn của những vùng đất lạ, chứa đựng nhiều khóa khăn, thử thách ý chí con người. Hình ảnh sương lấp và đoàn quân mỏi là những hình ảnh miêu tả hiện thực. Các chiến sĩ hành quân trong sương mù giá lạnh. Sương dày đặc, sương che lấp cả đoàn quân. Chữ mỏi nói lên bao gian khó mà người lính phải trải qua.

+ Hình ảnh hoa về trong đêm hơi thật đẹp, vừa khắc họa vẻ thơ mộng của núi rừng Tây Bắc, vừa gợi nét lạc quan ở những người lính trẻ. Người lính như đi ở chốn bồng lai tiên cảnh, xứ sở thần tiên, ở nõi mộng chữ không phải nơi trần thế.

– Nhớ địa hình Tây Bắc hiểm trở:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.

+ Điệp từ dốc và từ láy khúc khuỷu, thăm thẳm diễn tả sự quanh cao, hiểm trở của dốc núi, đường lên rất cao và xuống rất sâu.

+ Câu thơ có năm thanh trắc tạo âm điệu trúc trắc, vừa gợi con đường gập ghềnh cheo leo, vừa gợi hơi thở gấp gáp của người lính khi vượt dốc.

+ Từ láy heo hút gợi nét hoang sơ, vắng vẻ đồng thời vẽ ra thế núi hũng vĩ. Núi cao ngập vào trong những cồn mây.

– Hình ảnh súng ngửi trời là cách nói nhân hóa thú vị, vừa tả núi, dốc như cao đến tận trời, vừa thể hiện nét tinh nghịch của người lính.

+ Từ ngửi có hiệu quả nghệ thuật cao, thể hiện tư thế hiên ngang, vững chãi của người lính bảo vệ vùng trời, vùng đất của Tổ quốc.

+ Điệp ngữ ngàn thước chỉ độ cao vô cùng, vô tận của núi. Câu thơ ngàn thước lên cao ngàn thước xuống như bị bẻ đôi, diễn tả hai sườn núi dốc dựng đứng, vút lên cao rồi đổ xuống sâu rất nguy hiểm.

+ Câu thơ Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi mở ra một không gian xa rộng, thoáng đãng. Người lính tạm dừng chân bên dốc núi, phóng tầm mắt ra xa. Trong màn mưa giăng mịt mù, những ngôi nhà sàn như bồng bềnh ẩn hiện. Câu thơ toàn thanh bằng gợi tả niềm vui, một chút bình yên trong tâm hồn người lính.

– Nhỡ những gian khổ hi sinh của đồng đội:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời

Chiều chiều oai lĩnh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

+ Từ láy dãi dầu nghĩa là chịu đựng gian khổ, vất vả lâu ngày. Người lính phải hành quân trong thời tiết khắc nghiệt, địa hình hiểm trở, thiếu thốn mọi thứ khiến nhiều người kiệt sức vì mỏi mệt.

+ Nghệ thuật nói giảm, nói tránh không bước nữa, bỏ quên đời diễn tả cái chết nhẹ nhàng. Đó là cách nói thể hiện thái độ trân trọng, tự hào về đồng đội. Câu thơ này còn có cách hiểu khác là người lính tạm dừng chân, nghỉ ngơi lấy lại sức để tiếp tục hành quân.

+ Các từ láy nhấn mạnh chiều chiều, đêm đêm chỉ thời gian nhiều chiều, nhiều đêm người lính phải đối mặt với hiểm nguy.

– Nhớ tình cảm sâu nặng của người dân Tây Bắc:

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

+ Đảo ngữ nhớ ôi nhấn mạnh nỗi nhớ thấm thía, sâu sắc của tác giả. Hình ảnh cơm lên khói vừa chân thật, vừa trữ tình nói lên tình quân dân ấm áp.

+ Cách dùng từ sáng tạo mùa em chứ không phải là mùa của quê em, gợi nét trẻ trung, tình cảm sâu nặng của nhà thơ.

=> Mười bốn câu thơ đầu, với sự kết hợp giữa chất hiện thực và lãng mạn, Quang Dũng đã dựng lại cảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội trong nỗi nhớ miên man. Đoàn quân Tây Tiến đã vượt những chặn đường dài gian khổ, có mất mát, có hy sinh, nhưng vẫn ánh lên niềm tin, nét trẻ trung kiêu dũng.

2. Những kỷ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Xuôi dòng nước lũ hoa đong đưa.

– Nếu như phần thứ nhất của bài thơ là bức tranh vừa dữ dội, hoan sơ, vừa hùng vĩ nên thơ của núi rừng miền Tây và con đường hành quân đầy gian khổ được vẽ bằng nét bút gân guốc, khỏe khoắn, thì đến phần thứ hai này bài thơ Tây Tiến đã mở ra một thế giới khác của Tây Bắc, một Tây Bắc mỹ lệ, tài hoa, duyên dáng với những nét vẽ tinh tế, mềm mại.

– Bốn câu đầu là kỷ niệm về đêm liên hoan văn nghệ mang đậm tình quân dân: Hình ảnh một đêm liên hoan văn nghệ được tổ chức tại doanh trại bộ đội được gợi lên vừa hiện thực, lại vừa huyền ảo:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

– Đêm liên hoan văn nghệ ấy được tổ chức tại doanh trại quân đội có đồng bào dân tộc để thắt chặt tình quân dân thì hình ảnh em chính là những cô gái người dân tộc Mèo, Mường, Thái… Cũng có thể hiểu cách khác, đêm liên hoan văn nghệ ấy được tổ chức tại doanh trại bộ đội chỉ toàn người lính và em đó là những chàng trai đóng giả những gái múa những điệu múa dân tộc. Hiểu như thế càng làm nổi bật vẻ đẹp lãng mạn và tinh thần lạc quan của những chiến binh Tây Tiến.

– Vẻ  đẹp lãng mạn và tinh thần lạc quan của những người lính Tây Tiến thể hiện rõ nét qua tâm hồn lãng mạn và lạc quan của họ. Cách cảm nhận về cảnh và người của người lính Tây Tiến mang đậm màu sắc lãng mạn.

– Nhà văn hào nước Pháp V.Huygo có nói: Chữ nào đặt đúng chỗ là chữ đó hay nhất. Từ bừng vừa gợi hình, vừa gợi cảm. Bừng là bừng sáng lên bởi ánh lửa từ ngọn đuốc trong đêm của bộ đội liên hoan văn nghệ cùng nhân dân; hay là tưng bừng rộn rã của niềm vui của tiếng khèn bản nhạc man điệu, cùng giọng hát vừa ngọt ngào vừa mê say, tình tứ của các cô gái dân tộc. Đuốc hoa là một từ cổ để chỉ ngọn nến đốt lên trong phòng cưới đêm tân hôn. Hình ảnh này xuất hiện trong đêm vui liên hoan của người lính đã tạo nên một màu sắc vừa cổ kính, vừa hiện đại, vừa thiêng liêng, vừa ấm áp keo sơn tình quân dân gắn bó.

– Không chỉ cảm nhận về cảnh lãng mạn mà còn là say đắm trước vẻ đẹp của những bóng hồng sơn cước – những thiếu nữ Tây Bắc: Kìa em xiêm áo tự bao giờ. Câu thơ như một tiếng trầm trồ đầy trìu mến, thích thú vui sướng đến ngỡ ngàng trước vẻ đẹp vừa e ấp, vừa tính tứ với bộ xiêm y lộng lẫy đủ mọi sắc màu trong một vũ điệu mang màu sắc xứ lạ (man điệu). Tâm hồn người lính hòa theo bản nhạc, điệu múa. Câu thơ Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ có sáu thanh bằng gợi cảm giác lâng lâng chới với như có thể đưa tâm hồn người lính phiêu diêu về chốn Viên Chăn, thủ đô của nước bạn xa xôi để xây hồn thơ.

=> Như vậy chỉ bằng bốn câu thơ mà Quang Dũng đã khắc họa được một bức tranh vừa phong phú về màu sắc, đường nét (đuốc hoa xiêm áo); vừa đa dạng về âm thanh (tiếng khèn man điệu). Với tâm hồn lãng mạn tài hoa, bằng cảm hứng nhạy cảm với cái lạ thường, cái thi vị, tác giả không chỉ cho ta thấy được vẻ đẹp đầy bản sắc văn hóa phong tục của đồng bào miền núi biên cương Tổ quốc, mà con cho ta thấy được tình quân dân đằm thắm keo sơn và tâm hồn lạc quan yêu đời, yêu cuộc sống kháng chiến gian khổ mà vui tươi của người lính Tây Tiến.

– Bốn câu sau miêu tả cảnh sông nước Tây Bắc vừa hiện thực vừa huyền ảo:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Xuôi dòng nước lũ hoa đong đưa

+ Nếu khung cảnh một đêm liên hoan đem đến cho người đọc không khí mê say ngây ngất thì cảnh sông nước Tây Bắc lại gợi lên được cảm giác mênh mang hoang dại mờ ảo tĩnh lặng và chứa chan thi vị. Ở đây một lần nữa càng khẳng định rõ hơn nét tài hoa lãng mạn giàu mộng ảo của người lính Tây Tiến. Thiên nhiên ở nơi chốn chỉ có bản sương giăng, đèo mây phủ, khi chiều về vốn mờ ảo lại càng mờ ảo hơn khi có lớp sương mờ bảng lảng choáng lên như thực như mơ. Qua hoài niệm, khung cảnh Tây Bắc như đang sống dậy trong kí ức của tác giả làm cho giọng thơ của ông cất lên như tiếng thì thầm, như lời tự hỏi có thấy – có nhớ, day dứt càng gợi lên cảm giác bâng khuâng xa vắng đầy lưu luyến. Con người có tâm hồn tài hoa và lãng mạn ấy thất bạt ngàn hồn lau trong gió trong cây như xôn xao một nỗi niềm.

+ Từ người được tác giả sử dụng thật tài tình. Ở đây nó mang tính chất vừa cụ thể, vừa phiếm chỉ, vừa là tác giả vừa là đồng đội, những người tri âm, tri kỉ đã từng đồng cam cộng khổ sống chết có nhau. Từ ấy không xác định được thời gian, nhưng lại gợi về thời khắc khó quên, một đi không trở lại, đã in đậm trong trái tim, trong nỗi nhớ đầy vơi của Quang Dũng và những người lính Tây Tiến. Chữ ấy đó lại bắt vần với chữ thấy ở câu dưới tạo nên một vần lưng đầy quyến luyến, vấn vương.

+ Cõ lẽ, trong hình ảnh làm cho người lính Tây Tiến Nghìn năm chưa dễ mấy ai quên ấy thì hình ảnh hồn lau nẻo bến bờ là hình ảnh gợi cảm nên thơ nhất. Theo thi sĩ Chế Lan Viên thì “lau” là biểu tượng cho mùa thu. Còn thi sĩ Hoàng Hữu thì hồn lau trong gió qua hoài niệm lại gợi cảm giác buồn vắng, lặng tờ nhạt nhòa như khói pha. Những hồn lau như thế xuất hiện trong làn sương chiều mờ ảo nơi bến bờ sông suối hoang sơ hẻo lánh của miền Châu Mộc, Châu Mai đã nói với ta rất nhiều vẻ đẹp tâm hồn của một thi sĩ tài hoa lãng mạn đã có cách nhìn, cách cảm thiên nhiên rất lạc quan yêu đời và có phần mơ mộng.

+ Tâm hồn lãnh mạn mộng mơ đó còn phát hiện ra trong cảnh sông nước chiều sương mang đậm màu sắc cổ tích huyền thoại ấy, hình ảnh con thuyền độc mộc với dáng mềm mại của cô gái và bông hoa trôi theo nước lũ:

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.

+ Đúng là thi chung hữu họa. Ngòi bút tinh tế của Quang Dũng chấm phá vài nét không chỉ gợi được cái hồn của những bông hoa lau, mà còn cả cái dáng rất tạo hình của cô gái lái đò người Mường, người Thái,… cái dáng ngả nghiêng rất tình tứ, rất đong đưa chứ không phải đung đưa của những bông hoa rừng như muốn làm duyên bên dòng nước lũ. Đung đưa chỉ thuần túy tả chuyển động đưa đi đưa lại mang tính chất vật lý, còn đong đưa vừa tả chuyển động, tả cảnh vừa tả tình làm cho bông hoa trở thành một sinh thể duyên dáng và rất đa tình.

+ Với một chữ trôi mà tác giả dùng ở đây cũng rất tinh tế, gợi lên sự nhẹ nhàng thanh thoát Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa. Phải có tay lái ra hoa thì chiếc thuyền độc mộc vượt qua suối lũ ghềnh thác mới êm nhẹ đến thế. Với một chữ trôi tinh tế và một chữ đong đưa hơi phong tình, dòng nước lũ dữ dằn bỗng trở thành suối mơ êm đềm yên ả, để con thuyền lướt nhẹ êm trôi.

=> Đoạn thơ như một bức tranh thủy mặc với những nét chấm phá tinh tế, mềm mại, tài hoa đã truyền được cái hồn của cảnh vật Tây Bắc. Với bút pháp thiên về cảnh vật và con người ấy của Quang Dũng, bức tranh của cảnh và người miền Tây Tổ quốc hiện lên thật duyên dáng, thơ mộng dễ làm đắm say lòng người đọc.

3. Vẻ đẹp của người lính Tây Tiến

Đoạn thơ thứ ba, Quang Dũng tái hiện lại chân dung người lính Tây Tiến:

+ Hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng trên cái nền cảnh thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ, dữ dội, mỹ lệ. Nhớ Tây Tiến, Quang Dũng không chỉ nhớ núi rừng mà còn nhớ những người đồng đội cùng trèo đèo lội suối, vượt qua muôn trùng ngàn thử thách, vào sinh ra tử.

+ Nhà thơ đã hồi tưởng và vẽ lại bức chân dung của họ với vẻ đẹp đậm chất bi tráng. Quang Dũng đã chọn lọc  nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạo nên bức tượng đài tập thể, khái quát được gương mặt chung của cả đoàn quân.

– Quang Dũng đã khắc họa thành công những khó khăn, thiếu thốn mà người lính phải trải qua:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm.”

+ Hai câu thơ gợi nhắc đến hình ảnh người lính trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,

Sốt run người vầng chán ướt mồ hôi

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày.”

+ Những câu thơ của Quang Dũng đề cập đến một hiện thực, đó là căn bệnh sốt rét hiểm nghèo mà người lính thường mắc phải. Quang Dũng trong bài thơ cũng không che giấu những gian khổ, khó khăn, căn bệnh quái ác đó và sự hy sinh lớn lao của người lính Tây Tiến, nhưng hiện thực nghiệt ngã ấy lại được nhìn qua một tâm hồn lãng mạn. Những cái đâu cạo trọc để thuận lợi cho việc đánh giáp lá cà, những cái đầu bị rụng tóc, vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính qua cái nhìn của Quang Dũng lại trở nên oai phong, dữ dằn, lẫm liệt như những con hổ chốn rừng thiêng.

– Những người ấy lính một mặt đầy oai hùng, một mặt lại rạo rực tình yêu thương:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

+ Mắt trừng là đôi mắt mở to, nhìn thẳng, hướng thẳng về phía trước để quan sát kẻ thù. Các chàng trai Tây Tiến với đôi mắt thao thức trừng lên quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ nhưng trái tim vẫn để dành chỗ cho những dáng kiều thơm chốn Hà thành, những người em, những người bạn gái thân thương nơi quê nhà.

– Quang Dũng với cái nhìn nhiều chiều, đã khắc họa chân dung người lính không chỉ ở dáng vẻ bề ngoài mà còn thể hiện được thế giới nội tâm, tâm hồn mộng mơ, lãng mạn, phong phú của họ.

– Trong chiến tranh, mất mát hy sinh là không tránh khỏi. Quang Dũng đã nêu lên hiện thực này không che giấu theo cách riêng của mình:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.

+ Những từ Hán Việt cổ kính, trang trọng: biên cương, mồ, viễn xứ, chiến trường kết hợp với từ láy rải rác đã làm giảm nhẹ yếu tố bi thương, làm những đau thương vì mất mát lắng xuống.

+ Điều nổi bật lên là vẻ đẹp lãng mạn của lý tưởng quên mình, xả thân vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến. Cách nói chẳng tiếc đời xanh vang lên khẳng khái, khẳng định vẻ đẹp hào hùng của các chàng trai Tây Tiến.

– Hai câu thơ:

“Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”

+ Nhắc đến một sự thật bi thương: những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường hành quân chiến đấu không có đến cả manh chiếu bó thân, qua cái nhìn của Quang Dũng lại được bọc trong những tấm áo bào sang trọng mang dáng dấp của những tráng sĩ oai hùng thuở xưa, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng.

+ Cách nói giảm anh về đất làm vơi đi cái bi thương, rồi cái bi ấy bị lấn át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của sông Mã.

+ Nhà thơ đã mượn âm thanh của dòng sông, của thiên nhiên, của hồn thiêng Tây Bắc để nói lời từ biệt, lời biết ơn ngợi ca đồng đội. Câu thơ mang âm hưởng vừa dữ dội, vừa hào hùng khiến cho sự hy sinh của người lính không hề bi lụy mà thấm đãm tinh thần bi tráng.

=> Đoạn thơ thứ ba có giọng điệu chủ đạo là trang trọng, thể hiện tình cảm đau thương vô hạn và sự trân trọng, kính cẩn của nhà thơ trước sự hy sinh của đồng đội. Đoạn thơ với cảm hứng lãng mạn, ngòi bút sắc sảo, táo bạo, trên nền hiện thực nghiệt ngã đã chạm khắc chân thực bức chân dung tập thể những người lính Tây Tiến đậm chất bi tráng.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Qua bài thơ, Quang Dũng đó ngợi ca vẻ đẹp hùng vĩ và trữ tình, dữ dội mà mĩ lệ của thiên nhiên núi rừng miền Tây Bắc của Tổ quốc, đặc biệt khắc vào thời gian một bức tượng đài bất tử về người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa.

2. Nghệ thuật

– Ngôn từ giàu hình ảnh, cảm xúc; nhiều từ ngữ Hán Việt ; từ ngữ chỉ địa danh. – Sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật đặc sắc như nhân hóa, đối lập, điệp,.. – Hình ảnh đặc sắc, đậm chất thơ chất nhạc. – Kết hợp giữa cảm hứng lãng mạn và bút pháp bi tráng.

Từ khóa » đặt Tiêu đề Cho Văn Bản Tây Tiến