Tìm Hiểu Về Làng Gốm Bát Tràng - Tài Liệu Text - 123doc

Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)
  1. Trang chủ
  2. >>
  3. Khoa học xã hội
  4. >>
  5. Văn hóa - Lịch sử
Tìm hiểu về làng gốm Bát Tràng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (785.7 KB, 44 trang )

MỤC LỤCMỞ ĐẦU..............................................................................................................1Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GỐM VÀ KHÁI QUÁT VỀLÀNG GỐM BÁT TRÀNG................................................................................41.1. Một số vấn đề chung về gốm Việt Nam..................................................41.1.1. Khái niệm gốm..................................................................................41.1.2. Lịch sử phát triển của gốm qua các thời kỳ......................................41.2. Khái quát về làng gốm sứ Bát Tràng.......................................................71.2.1. Vị trí địa lý làng gốm Bát Tràng........................................................71.2.2. Lịch sử hình thành và phát triển của làng gốm Bát Tràng.............8Chương 2 TÌM HIỂU VỀ GỐM SỨ BÁT TRÀNG.......................................122.1. Tổ chức sản xuất tại làng gốm Bát Tràng.............................................122.2. Những sản phẩm chính của làng gốm Bát Tràng.................................122.3. Quy trình sản xuất đồ gốm Bát Tràng...................................................132.3.1. Quá trình tạo cốt gốm.......................................................................132.3.1.1. Chọn đất..........................................................................................132.3.1.2. Xử lý, pha chế đất............................................................................142.3.1.3. Tạo dáng..........................................................................................142.3.1.4. Phơi sấy và sửa hàng mộc..............................................................162.3.2. Quá trình trang trí hoa văn và phủ men.........................................162.3.2.1. Kỹ thuật vẽ.......................................................................................162.3.2.2. Chế tạo men.....................................................................................172.3.2.3. Tráng men.......................................................................................172.3.2.4. Sửa hàng men.................................................................................182.3.3. Quá trình nung..................................................................................182.3.3.1. Lò nung............................................................................................182.3.3.2. Bao nung.........................................................................................182.3.3.3. Nhiên liệu........................................................................................192.3.3.4. Chồng lò..........................................................................................192.3.3.5. Đốt lò................................................................................................202.4.1. Loại hình............................................................................................212.4.2. Trang trí..............................................................................................222.4.3. Các dòng men.....................................................................................232.5. Minh văn trên gốm sứ.............................................................................232.6.1. Giá trị lịch sử.....................................................................................242.6.2. Giá trị văn hóa, nghệ thuật..............................................................242.6.3. Giá trị kinh tế....................................................................................242.6.4. Giá trị du lịch.....................................................................................25Chương 3 MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAOCHẤT LƯỢNG GỐM BÁT TRÀNG..............................................................263.1 Đánh giá....................................................................................................263.1.1 Thành tựu...........................................................................................263.2 Giải pháp nâng cao chất lượng gốm Bát Tràng..................................26KẾT LUẬN........................................................................................................29TÀI LIỆU THAM KHẢOPHỤ LỤCBẢNG KÊ CHỮ VIẾT TẮTSTT12Từ viết tắtVH – NTUBNDTên cụm từ viết tắtVăn hóa – Nghệ thuậtỦy ban nhân dânLỜI CAM ĐOANNhóm 03 xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu Nhóm thực hiện. Các tư liệu,kết quả nghiên cứu trong đề tài là trung thực. Nếu sai Nhóm xin hoàn toàn chịutrách nhiệm.Ký tênLỜI CẢM ƠNVới sự biết ơn sâu sắc, Nhóm 03 xin chân thành cảm ơn Ths. Bùi Thị ÁnhVân giảng viên học phần phương pháp nghiên cứu khoa học – Người đã trựctiếp tận tình hướng dẫn, động viên giúp đỡ nhóm hoàn thành bài tiểu luận này.MỞ ĐẦU1. Lý do chọn đề tàiThăng Long - Hà Nội là mảnh đất có một nền văn hoá lâu đời, nơi đây cònnổi tiếng với những làng nghề thủ công mỹ nghệ bởi những bàn tay tài hoa củanhững bậc nghệ nhân từ cổ chí kim khiên người đời thán phục đến kinh ngạc bởibàn tay tài hoa của các nghệ nhân làng gốm - những con người đã sai khiếnđược đất và lửa để tạo nên những men ngọc cho đời.. Các sản phẩm tài hoa củaThăng Long không những nổi tiếng trong nước mà còn, bay cao bay xa trêntrường quốc tế. Một trong những làng nghề cổ truyền nổi tiếng ấy là một lànggốm ven sông, làng gốm Bát Tràng. Làng gốm đã trải qua trên năm thế kỷ vớinhiều thành tựu rất đáng tự hào, đó là bệ đỡ vững chắc để Bát Tràng hôm nayngày càng tiến nhanh hơn cùng với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.Từ những thế kỷ trước, đồ gốm Bát Tràng đã thuộc loại cao cấp, quý hiếmnhưng phần nhiều là đồ thờ: chân đèn, lư hương, bình hoa. Về sau, do thị hiếuphát triển, cộng với nhu cầu thị trường, gốm Bát Tràng đã có nhiều đồ gia dụng,phổ biến nhất là bát, đĩa, bình, lọ. Ngày nay, cái khéo cái tài của người làng gốmBát Tràng được phát huy cao độ trong cơ chế thị trường. Nhiều mặt hàng phongphú về chủng loại và kiểu dáng đã được sản xuất. Các loại gốm mỹ thuật, gốmsứ công nghiệp, đồ giả cổ, gốm xây dựng cao cấp đã dần được sản xuất nhiềuhơn đồ gốm gia dụng. Bây giờ những mặt hàng truyền thống xưa chỉ được làmkhi có khách đặt để trùng tu phục chế di tích cổ. Đứng trước những mặt hàng mỹnghệ gốm.Là một sinh viên chuyên nghành Quản lý văn hóa, chúng tôi nhận thấy tìmhiểu về gốm Bát Tràng là một đề tài rất phù hợp với chuyên ngành học, đối vớiđề tài này chúng tôi có thể vận dụng thực tế được nhưng kiến thức về văn hóa đãhọc vào nghiêm cứu, tìm tòi, làm rõ vấn đề. Hơn thế nữa, gốm Bát Tràng có sứcảnh hưởng lớn tới cuộc sống mỗingười Việt từ những vật dụng nhỏ nhất. gốm đãkhông còn đơn giản là gốm, mà gốm còn là văn hóa, còn là tâm linh và lịch sử,1là sự kết tinh, giao hòa tinh tế giữa đất, nước và lửa tạo nên một nền văn hóaThăng Long, là biểu tượng của đất Việt. Từ những lý do trên, Nhóm 03 quyếtđịnh chon gốm Bát Trànglà đề tài nghiên cứu với tên gọi: Tìm hiểu về làng gốmBát Tràng”.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đềNói đến gốm Bát Tràng thì đã có khá nhiều các đề tài, công trình nghiên cứukhoa học đề cập tới vấn đề này. Dưới đây là một số công trình nghiên cứu cụthể:- Nguyễn Đức Thịnh (2016), Làng gốm Bát Tràng, Tạp chí xưa và nay.- GS. Phan Huy Lê, Nguyễn Đình Chiến và Nguyễn Quang Ngọc, Gốm BátTràng thế kỷ XIV – XIX, Nxb Thế giới.Sau Lời mở đầu, sách có 2 phần giới thiệu về trung tâm sản xuất gốm BátTràng của Bắc Việt Nam từ thế thế kỷ XIV - XIX. Phần 1: gồm 3 bài viết của 3tác giả: Lịch sử hình thành và phát triển làng gốm Bát Tràng Quy trình sản xuấtđồ gốm Bát Tràng Đặc điểm đồ gốm men Bát Tràng Phần 2: Sách có 83 trangảnh màu và đen trắng, lựa chọn những loại hình, hoa văn và minh văn tiêu biểucủa đồ gốm Bát Tràng, 28 trang bản vẽ hoa văn và 4 trang ảnh chụp bản dập hoavăn trên giấy dó. Nguồn gốc sưu tập chủ yếu là các bảo tàng, trong đó nhiềunhất là Bảo tàng Lịch sử Việt Nam. Ngoài ra, sách còn có bảng Chữ viết tắt, Bảnđồ xã Bát Tràng và phụ lục bài viết Bát Tràng và buôn bán gốm ở quần đảoĐông Nam Á.-Sylvie Fanchette và Nicholas Stedman (2003), Khám phá các làng nghề ởViệt Nam,Cuốn sách giới thiệu hơn 40 làng nghề của Hà Nội và khu vực Hà Tây (cũ)do các tác giả thực hiện từ năm 2003, một cuốn cẩm nang mới vô cùng dày dặn5 và đầy đủ thông tin về các làng nghề, vừa ra mắt bạn đọc với ba ấn bản bằngtiếng Việt, Anh, Pháp. Một trong nhóm tác giả này, Nicholas Stedman, nhà2nghiên cứu, giáo viên tiếng Anh, người có tới 10 năm gắn bó với Việt Nam, đãcó cuộc trao đổi chung quanh cuốn sách.-Gốm cổ Việt Nam, tập san Nghiên cứu Huế tập Bốn năm 2002.Trên đây là một số công trình nghiên cứu về gốm Bát Tràng đây là những tàiliệu quý báu, giúp nhóm chúng tôi hoàn thành bài nghiên cứu này.3. Mục tiêu nghiên cứu- Tìm hiểu thêm về làng gốm Bát Tràng, quy trình sản xuất tạo nên gốm.- Đánh giá những thành tự, tồn tại tại làng gốm Bát Tràng.- Đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng gốm Bát Tràng.4. Đối tượng nghiên cứu- Tìm hiểu về làng gốm Bát Tràng.5. Phạm vi nghiên cứu- Không gian: Làng gốm Bát Tràng, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.- Thời gian: Năm 20176. Phương pháp nghiênĐể tiến hành thực hiện đề tài nhóm 03 đã sử dụng hai phương pháp nghiêncứu như sau để thu thập tài liệu:- Phương pháp thu thập thông tin trực tiếp: quan sát.- Phương pháp thu thập thông tin gián tiếp: phân tích và tổng hợp số liệu.+ Nghiên cứu tài liệu, tư liệu tham khảo.+ Nguồn tin từ mạng Internet.37. Cấu trúc đề tàiNgoài phần mở đầu, kết thúc và danh mục tài liệu tham khảo, đều tài đượcchia ra làm ba chương cụ thể như sau:Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GỐM VÀ KHÁI QUÁT VỀLÀNG GỐM BÁT TRÀNG.Chương 2: TÌM HIỂU VỀ LÀNG GỐM BÁT TRÀNG.Chương 3: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤTLƯỢNG GỐM BÁT TRÀNGChương 1MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GỐM VÀ KHÁI QUÁT VỀ LÀNGGỐM BÁT TRÀNG1.1. Một số vấn đề chung về gốm Việt Nam1.1.1. Khái niệm gốmKhái niệm Gốm và sứ: Gốm: sản phẩm được làm bằng chất liệu thô, kết cấugiòn, xốp, bề mặt giáp không phủ men. Nhiệt độ nung thường thấp (chỉ khoảngtrên dưới 9000C).Việt Nam ta có các dòng gốm sứ: Bát Tràng, Chu Đậu, Phù Lãng, Thanh Trì,Đông Triều, Hải Dương, Đồng Nai.41.1.2. Lịch sử phát triển của gốm qua các thời kỳThời tiền sửNhững sản phẩm đất nung được phát hiện cho thấy ở giai đoạn đầu thườngthô có pha lẫn cát hoặc các tạp chất khác, được nặn bằng tay, hoa văn đơn giản ởphía ngoài như các vạch chéo, vân sóng, vân chải răng lược... Các hoa văn nàyđược tạo ra khi sản phẩm còn ướt, một số được tạo bằng bàn dập hoặc dùng quenhọn để vẽ, vạch.Thời kỳ đồ đồngỞ Việt Nam (cách đây 4 nghìn năm), hầu hết các sản phẩm gốm được hìnhthành bằng bàn xoay một cách khá thành thạo, do vậy tạo nên sự phong phú vềchủng loại và kiểu dáng sản phẩm: ngoài các sản phẩm đun nấu còn thấy nhữngsản phẩm gốm để chứa đựng, dụng cụ ăn uống, trang sức, công cụ lao động vàgốm mỹ thuật. Về trang trí, gốm đất nung chủ yếu có các hoa văn hình hoạ, nétchìm là chính. Một số sản phẩm được xoa một lớp áo bằng nước đất khác màunhưng chưa phải men. Các hoa văn trang trí và cách tạo dáng của gốm giai đoạnnày có ảnh hưởng đến tạo dáng và trang trí trên đồ đồng cùng thời.Thời đại đồ sắtGốm đất nung được sản xuất hầu như khắp các vùng trong nước. Chất lượnggốm còn non lửa và vẫn thô sơ nhưng về tạo dáng và trang trí thì chưa có thời kỳnào đặc sắc và phong phú bằng. Hiện vật thời kỳ này cho thấy nghề gốm vẫngắn bó với nghề nông nhưng nam giới đã đóng vai trò quan trọng trong quá trìnhsản xuất.Đến thế kỷ 2 trước Công nguyên Việt Nam bị rơi vào ách thống trị của phongkiến phương Bắc. Nghề gốm tiếp tục phát triển trên vốn kinh nghiệm cổ truyền,có tiếp thu ảnh hưởng của gốm Trung Hoa. Về chủng loại sản phẩm, xuất hiệnthêm loại gốm kiến trúc như gạch, ngói. Ngoài ra còn có các tượng động vật nhỏnhư lợn, bò với kiểu nặn sơ sài. Phong cách gốm thời kỳ này mang phong cáchHán hoặc kết hợp hoa văn Việt và hoa văn Hán. Nhiều sản phẩm gốm Hán khácđược cải biên theo phong cách Việt.Thời Lý - Trần5Thế kỷ 10 đánh dấu bước ngoặt trong lịch sử Việt Nam. Thời kỳ phục hồiđộc lập dân tộc sau hơn mười thế kỷ đô hộ của phong kiến Trung Hoa. Suốt bốnthế kỷ, từ nhà Lý sang nhà Trần, đồ gốm đạt được những thành tựu rực rỡ. Quymô sản xuất, chủng loại sản phẩm, chất liệu... đều được mở rộng. Nhiều loạimen được ứng dụng và ổn định về công nghệ. Đặc biệt men trắng cũng xuất hiệnở thời kỳ này ngoài men tro và men đất. Ba yếu tố cơ bản tạo nên vẻ đẹp của đồgốm là hình dáng, hoa văn trang trí, men màu. Sự phát triển của kỹ thuật và trìnhđộ thẩm mỹ cao đã tạo nên sản phẩm gốm thời kỳ này có ba loại nổi tiếng làgốm men trắng ngà chạm đắp nổi, gốm hoa nâu, gốm men ngọc.Về tạo dáng gốm Lý - Trần ngoài những hình mẫu trong thiên nhiên như hoa,quả là cách tạo dáng của những đồ đồng trước đó. Trang trí trên gốm Lý - Trần,hoa văn hình học chiếm vị trí phụ. Những hoạ tiết chính ở đây là hoa lá, chim,thú, người. Hoa văn trang trí với cách miêu tả giản dị, mộc mạc rất gần gũi vớithiên nhiên và con người Việt Nam. Một đặc điểm nữa là nét chìm được làm"bè" ra, một bên rõ cạnh, một bên biến dần vào sản phẩm, làm chỗ chảy dồnmen, tạo nên độ đậm nhạt cho hoạ tiết như trên gốm men ngọc hoặc làm giớihạn để tô nâu.Về kỹ thuật, lò nung cho gốm thời Lý - Trần có một bước tiến lớn như việcsử dụng các lò cóc, lò nằm, có khi cả lò rồng để nâng nhiệt độ nung cho sảnphẩm lên đến 1200ºC – 1280ºC. Việc sử dụng bao nung và kỹ thuật nung chồngbằng con kê (lòng dong) được ứng dụng rộng rãi đối với nhiều loại sản phẩm đãcho thấy đạt trình độ sản xuất gốm cao cấp, nhất là gốm men ngọc. Nhiều địaphương sản xuất gốm ở Thanh Hoá, Hà Nội, vùng Nam Định... chứng tỏ sự hìnhthành gốm tập trung và mang tính chuyên nghiệp.Gốm Lý - Trần đã tạo nên sự chuyển hoá bước đầu giữa yêu cầu sử dụng vớichất liệu. Điều này nó thể hiện bước tiến bộ về mặt kỹ thuật và nghệ thuật, phảnánh tư tưởng duy lý trong quá trình sáng tạo gốm và ứng dụng nó vào đời sốngmột cách tốt đẹp nhất, phù hợp nhất.Sau thế kỷ 14Nhiều trung tâm sản xuất gốm chuyên môn hoá nổi tiếng như Bát Tràng, Thổ6Hà, Phù Lãng, Hương Canh, Hàm Rồng, Mỹ Thiện, Phú Vinh... chứng tỏ sứcsống mạnh mẽ của nghề. Nhiều sản phẩm gốm ghi lại địa phương, ngày tháng vàngười sáng tạo ra nó. Nhiều quốc gia đã nhập gốm từ Việt Nam, đặc biệt thợ giỏicủa Nhật Bản còn bắt chước gốm của Việt Nam.Tiêu biểu cho kỹ thuật và nghệ thuật gốm Việt Nam thời kỳ này là gốm hoalam; gốm chạm đắp nổi tinh tế, có bản sắc riêng. Ngoài ra còn có loại gốm vẽmen mà người Nhật thời đó trong trà đạo rất ưa chuộng, gọi là "Hồng An Nam".Về kỹ thuật, các loại lò rồng cỡ lớn đã được sử dụng khá rộng rãi, nhiệt độ vàchế độ nung, điều khiển lửa một cách chủ động. Loại men tro trấu, tro cây đượcdùng nhiều. Kỹ thuật vẽ hoa đã đạt tới trình độ thành thục, nét trang trí phóngbút mang nhiều chất hội hoạ.Đến thời Gia Long (đầu thế kỷ 19), nghề gốm có dấu hiệu xuống dốc bởiviệc nhập gốm từ Trung Hoa theo các đơn đặt hàng của triều đình Huế. Một vàicơ sở sản xuất gốm ở Biên Hoà, Lái Thiêu đã phát triển một loại gốm men lửatrung (thường gọi là gốm Biên Hoà) được sử dụng khá rộng rãi ở các địa phươnglân cận. Đầu thế kỷ 20, ở miền Bắc, một vài cơ sở đã nhập thiết bị từ nước ngoàivà nghiên cứu sản xuất đồ sứ, nhưng kết quả không đáng kể.Trong những năm chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, người Việt Namkhông có điều kiện để phát triển nghề thủ công nói chung và nghề gốm nóiriêng. Nghề gốm bị sa sút và có lúc tưởng chừng bị mất nghề. Sau ngày đất nướcthống nhất, hầu hết các nghề thủ công được hồi sinh, trong đó nghề gốm là mộtnghề đã được khôi phục và phát triển rất nhanh. Nhiều trung tâm gốm trở lạihoạt động sôi nổi và rất năng động như Bát Tràng, Đông Triều, Phù Lãng, BiênHoà... May mắn thay, các lớp nghệ nhân cũ vẫn còn và các lớp nghệ nhân mớiđang xuất hiện. Sản phẩm gốm của Việt Nam từ lâu đã là một mặt hàng xuấtkhẩu có giá trị cao và hôm nay nó còn là một mặt hàng lưu niệm không thể thiếuđối với nhiều du khách gần xa.Gốm thời Nguyễn thế kỷ XIX - XX thuộc địa PhápCuối thế kỷ XVIII nước ta bước vào giai đoạn biến loạn, suy thoái nghiêmtrọng, chiến tranh liên miên, nội chiến, xâm lược Mãn Thanh, giao thương đình7đốn, mất mùa. Thủ công nghiệp, các làng sản xuất gốm sa sút, cùng lúc đó sựxâp nhập của đồ gốm Trung Hoa và phương tây vào Việt Nam do triều đình Huếcho nhập khẩu.Khi tình hình đất nước ổn định, nhà Nguyễn đã phát triển dòng gốm phục vụcho triều đình, quan lại, dòng gốm dân gian phục hồi và bước đầu lại xuất khẩuở Bát Tràng.Gốm cung đình triều Nguyễn mở lò gốm tại Long Thọ (Huế) chủ yếu là gốmtrang trí kiến trúc xây lăng tẩm, ngói phục vụ cung điện, gốm kiến trúc cungđiện, lăng tẩm thời Nguyễn là bộ mặt của kinh đô Phú Xuân (Huế) còn lại đếnnay, đặc biệt là nghệ thuật trang trí ghép các mảnh gốm sứ đất điêu luyện, mỹthuật đỉnh cao. Các dòng men rạn trắng ngà, men trắng hoa lam vẫn phát triển ởđỉnh cao. Các loại mầu men phát triển phong phú như màu men đá, trắng đục(gốm cậy); xanh xám, da lươn, đỏ sậm (Phù Lãng). Hình thức trang trí đa dạng,mở rộng đề tài, đặc biệt là tứ quý: Long, ly, quy, phượng; hoa lá: lan, cúc, trúc,mai, bướm, tùng hạc…1.2. Khái quát về làng gốm sứ Bát Tràng1.2.1. Vị trí địa lý làng gốm Bát TràngVị trí: Nằm bên bờ tả ngạn sông Hồng, làng gốm Bát Tràng thuộc huyện GiaLâm, cách trung tâm thủ đô Hà Nội hơn 10km về phía đông – nam [Phụ lục; ảnh 1].Thời Hậu Lê, xã Bát Tràng thuộc huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, trấn KinhBắc. Sang thời nhà Nguyễn, năm 1822 trấn Kinh Bắc đổi làm trấn Bắc Ninh,năm 1831 đổi làm tỉnh Bắc Ninh, lúc này xã Bát Tràng thuộc tổng Đông Dư,huyện Gia Lâm, phủ Thuận An. Đến năm 1862 chia về phủ Thuận Thành vànăm 1912 chia về phủ Từ Sơn. Ngày 13 tháng 12 năm 1954, sáp nhập khu vựcphố Gia Lâm (gồm phố Gia Lâm, khu nhà ga Gia Lâm, sân bay Gia Lâm, và 6xã: Hồng Tiến, Việt Hưng, Long Biên, Ngọc Thụy, Thượng Thanh, Tiến Bộ) củatỉnh Bắc Ninh vào Hà Nội. Từ năm 1961 đến nay, huyện Gia Lâm thuộc ngoạithành thủ đô Hà Nội.Năm 1948, xã Bát Tràng nhập với xã Giang Cao và xã Kim Lan lập thành xã8Quang Minh. Năm 1964, sau khi xây dựng hệ thống thủy nông Bắc Hưng Hải,thôn Kim Lan bị chia tách với phần còn lại của xã Quang Minh bởi sông BắcHưng Hải. Do đó xã Quang Minh được chia tách thành hai xã là Bát Tràng vàKim Lan.Thôn Bát Tràng nay được chia làm 5 xóm, gồm 2 xóm cổ (xóm 1, xóm 2)giáp bờ sông Hồng và 3 xóm mới (xóm 3, xóm 4, xóm 5).Ðặc điểm: Làng gốm Bát Tràng đã tồn tại ở ven đô Thăng Long với tư cáchmột làng nghề khoảng hơn 500 năm nay.Tên Bát Tràng được hình thành từ thời Lê, đó là sự hội nhập giữa 5 dòng họgốm nổi tiếng của làng Bồ Bát xứ Thanh với dòng họ Nguyễn ở đất Minh Tràng.Năm dòng họ lớn gồm các họ Trần, Vương, Nguyễn, Lê, Phạm đã nhóm họp vàquyết định đưa một số nghệ nhân, thợ gốm và gia đình con cháu dời làng di cưvề phía kinh thành Thăng Long tìm đất lập nghiệp. Họ dừng chân tại vùng 72 gòđất trắng làng Minh Tràng.1.2.2. Lịch sử hình thành và phát triển của làng gốm Bát Tràng“Ở thời nhà Lý, có ba vị Thái học sinh tên là Hứa Vinh Kiều, Đào Trí Tiếnvà Lưu Phương Tú được triều đình cử đi sứ Bắc Tống. Sau khi hoàn tất nhiệmvụ, trên đường về có đi qua Thiều Châu (Quảng Đông, Trung Quốc) thì gặp bãovà phải nghỉ lại. Cũng tại đây có lò gốm nổi tiếng. Ba ông đến thăm và tiếp thuđược một số kỹ thuật đem về. Hứa Vĩnh Kiều truyền cho làng Bát Tràng nướcmen rạn trắng. Đào Trí Tiến thì truyền cho Thổ Hà (Việt Yên, tỉnh Bắc Giang)nước men sắc màu vàng đỏ. Còn Lưu Phương Tú lại truyền cho Phù Lãng(huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh) nước men màu đỏ màu vàng thẫm”[1;1].Theo gia phả một số dòng họ ở Bát Tràng có ghi, tổ tiên xưa của họ từ làng BồBát di cư ra đây (Bồ Bát là Bồ Xuyên và Bạch Bát). Vào cuối thế kỷ 14 – đầuthế kỷ 15, tại Bồ Xuyên, Bạch Bát có loại đất sét trắng rất thích hợp với nghềlàm gốm. Năm 1010, Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long. Nhiều thương nhân,thợ thủ công khắp nơi tìm về lập nghiệp. Một số thợ Bồ Bát đã di cư ra đây cùngvới họ Nguyễn Ninh Tràng lập lò gốm, gọi là Bạch Thổ phường (phường ĐấtTrắng). Các đợt di cư tiếp theo đã khiến cho Bát Tràng trở thành một trung tâm9gốm nổi tiếng được triều đình chọn cung cấp đồ cống phẩm cho nhà Minh.Cho đến nay, chưa tìm thấy tư liệu lịch sử nào xác nhận tiểu sử của ba nhân vậtkể trên cũng như sự hình thành của làng. Chỉ có điều chắc chắn là làng BátTràng hình thành từ rất sớm và quá trình phát triển có nhiều mối giao lưu và tiếpnhận ảnh hưởng từ gốm sứ Trung Quốc.Các giai đoạn phát triển của làng gốm Bát Tràng:Thế kỉ 15–16Nhà Mạc trị vì giai đoạn này có chủ trương cởi mở, không chủ trương "ứcthương" như trước. Nhờ đó kinh tế hàng hoá có điều kiện phát triển thuận lợihơn. Gốm Bát Tràng được lưu thông rộng rãi. Gốm thời này có nhiều sản phẩmcó minh văn ghi rõ năm chế tạo, tên người đặt hàng và người sản xuất. Trong đócó cả một số quan chức cao cấp và quý tộc nhà Mạc như công chúa Phúc Tràng,phò mã Ngạn quận công, Đà quốc công Mạc Ngọc Liễn…Thế kỉ 16–17Sau khi thành lập, nhà Minh (Trung Quốc) cấm vận tư nhân buôn bán vớinước ngoài khiến cho việc xuất khẩu gốm sứ nổi tiếng của nước này bị hạn chế.Chính vì thế gốm Bát Tràng đã được mở rộng thị trường ở khu vực Đông NamÁ. Khi nhà Minh quyết định bãi bỏ chính sách bế quan toả cảng (1567) nhưngvẫn cấm xuất khẩu một số mặt hàng quan trọng sang Nhật Bản, các đồ gốm BátTràng đã được nhập cảng vào xứ sở Phù Tang.Đây là giai đoạn phát triển mạnh của ngành gốm xuất khẩu Việt Nam.Trong đó ở miền Bắc có 2 trung tâm quan trọng và nổi tiếng là Bát Tràng và ChuĐậu. Bát Tràng có may mắn và thuận lợi lớn là nằm ngay bên bờ sông Hồng, ởtrên đường thủy nối liền Thăng Long và Phố Hiến. Nhờ các thuyền buôn TrungQuốc, Nhật Bản, các nước Đông Nam Á và các nước phương Tây, đồ gốm ViệtNam được bán sang nhiều nước khác.Cuối thế kỉ 17 đầu thế kỉ 18Thời gian này Đài Loan được giải phóng và Trung Quốc đã bãi bỏ chínhsách cấm vượt biển buôn bán với nước ngoài. Từ đó, gốm sứ chất lượng cao củaTrung Quốc tràn xuống thị trường các nơi và đồ gốm Việt Nam không đủ sức để10cạnh tranh. Nhật Bảncũng đã đẩy mạnh được sự phát triển các ngành kinh tếtrong nước như tơ lụa, đường, gốm sứ... mà trước đây phải mua của nước ngoài.Thế kỉ 18–19Các nước phương Tây đi vào cuộc cách mạng công nghiệp. Tình hìnhTrịnh, Nguyễn phân tranh làm cho quan hệ mậu dịch đối ngoại của Việt Nam sasút và việc xuất khẩu đồ gốm cũng bị suy giảm. Gốm Bát Tràng cũng bị ảnhhưởng, nhưng vẫn giữ được sức sống bền bỉ nhờ có thị trường tiêu thụ trongnước.Thế kỉ 19 đến nay“Sau năm 1986, làng gốm Bát Tràng có sự chuyển biến lớn theo hướngkinh tế thị trường. Các hợp tác xã lần lượt giải thể hoặc chuyển thành công ty cổphần nhưng vẫn phổ biến là đơn vị sản xuất nhỏ theo hộ gia đình” [1;3].. Xã BátTràng trở thành một trung tâm gốm lớn.Sản phẩm của gốm Bát Tràng càng ngày càng phong phú và đa dạng.Ngoài các mặt hàng truyền thống, các lò còn sản xuất nhiều sản phẩm tiêu dùngnhư ấm chén, bát đĩa, lọ hoa... Sản phẩm không chỉ có mặt trên thị trường cảnước mà còn được xuất khẩu sang nhiều nước châu Á, châu Âu.11Tiểu kết chương 1Chương một khái quát về gốm và tổng quan về làng gốm Bát Tràng thôngqua các nội dung: Khái niệm, lịch sử phát triển của gốm qua các thời kỳ, cáchphân biệt giữa gốm và các dòng gốm ở Việt Nam. Đặc điểm của mỗi dòng gốmvà giá trị của gốm. Vị trí địa lý, lịch sử hình thành và phát triển của làng gốmBát Tràng. Đây là những lí luận quan trọng làm cơ sở lý thuyết,lập luận giúpnhóm phát triển đề tài nghiên cứu theo đúng hướng đi.12Chương 2TÌM HIỂU VỀ GỐM SỨ BÁT TRÀNG2.1. Tổ chức sản xuất tại làng gốm Bát TràngXã Bát Tràng gồm hai làng nhỏ là làng Giang Cao và làng Bát Tràng; cả hailàng đều sản xuất đồ gốm sứ nhưng phần lớn sản phẩm bán ra vẫn do làng BátTràng sản xuất. Đại hội lần thứ VI của Đảng (1986) thực hiện chủ trương đổimới cơ chế quản lý kinh tế, xoá bỏ chế độ tập trung quan liêu bao cấp, chuyểnsang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đã tạo ra mộtbước ngoặt mới trong công cuộc phát triển của cả nước. Chính sách phát triểnkinh tế nhiều thành phần đã tạo một sức sống mới cho các làng nghề nói chungvà cho Bát Tràng nói riêng. Cơ chế mới đã mở rộng khả năng huy động mọinguồn vốn, lao động, vật tư trong các hộ gia đình vào phát triển sản xuất và xuấtkhẩu sản phẩm. Từ năm 1990 trở lại đây, nghề gốm Bát Tràng đã thực sự khởisắc và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Từ khi chuyển hướng kinh tế, lấy hộ giađình làm nòng cốt trong sản xuất - kinh doanh. Chấp nhận cạnh tranh, mở rộngsản xuất và thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước, do vậy, sản xuất của BátTràng tăng lên nhanh chóng, thu nhập được nâng cao, đời sống vật chất và tinhthần được cải thiện rõ rệt. Nói đến Bát Tràng ta không thể không nói đến làng cổBát Tràng. Hiện tại, làng cổ Bát Tràng chỉ có diện tích 5,6 ha và chỉ còn 20 lògốm mang tính chất dòng họ (cả làng hiện có 26 họ) nhưng nơi đây lại có nhiềudi tích mang đậm nét văn hoá truyền thống của làng. Khu vực sản xuất chủ yếucủa làng Bát Tràng hiện nay là khu đất mới, khu sản xuất này phát triển từ saunăm 1990 và có diện tích lớn gấp hai lần so với khu làng cổ trước kia.2.2. Những sản phẩm chính của làng gốm Bát TràngSản phẩm gốm Bát Tràng vừa đa dạng về chủng loại, vừa phong phú về màusắc 500 năm, thì hiện naykích cỡ. Ngoài những sản phẩm truyền thống có từcác đây 400 với nhu cầu thị trường đã xuất hiện rất nhiều mẫu mã mới phục vụcho cuộc sống. Xét về tổng thể thì có thể chia các sản phẩm của Bát Tràng làmcác loại chủ yếu sau1314Đồ dân dụng- Cỡ nhỏ có: bát cơm, bát đào, bát đá, chén, tách và be rượu.- Cỡ vừa có: bát yêu, bát nắp, ấm chuyên, ấm tích, liễn, phạng, thùng hoabèo,...Đồ thờCó bát hương, đỉnh chầm, cây đèn, độc bình, song bình, lộc bình, ống cắmhương, chân nến, lọ hoa, bộ tam đa và các loại choé[Phụ lục; ảnh 2],...Đồ trang trí nội thất và vườnCó các loại chậu hoa, chậu thống, đôn, trạc, nghê, voi, vịt, cá, tôm, cua, vesầu cùng các loại phù điêu và đĩa treo tường và mới đây là những đồ vật có kíchthước rất nhỏ và ngộ nghĩnh thường phục vụ dưới hình thức đồ lưu niệm chokhách du lịch như hộp phấn, hình người, bộ ấm chén cỡ nhỏ xíu. Với nhữngngày lễ trong năm như: ngày quốc tế phụ nữ, ngày lễ tình yêu, ngày nhà giáo,...cũng có những sản phẩm đặc trưng tại các quầy hàng.2.3. Quy trình sản xuất đồ gốm Bát Tràng2.3.1. Quá trình tạo cốt gốm2.3.1.1. Chọn đấtĐiều quan trọng đầu tiên để hình thành nên các lò gốm là nguồn đất sét làmgốm. Những trung tâm sản xuất gốm thời cổ thường là sản xuất trên cơ sở khaithác nguồn đất tại chỗ. Làng gốm Bát Tràng cũng vậy, sở dĩ dân làng Bồ Bátchọn khu vực làng Bát Tràng hiện nay làm đất định cư phát triển nghề gốm vìtrước hết họ đã phát hiện ra mỏ đất sét trắng ở đây. Đến thế kỉ 18, nguồn đất séttrắng tại chỗ đã cạn kiệt nên người dân Bát Tràng buộc phải đi tìm nguồn đấtmới. Không giống như tổ tiên, dân Bát Tràng vẫn định cư lại ở các vị trí giaothông thuận lợi và thông qua dòng sông bến cảng, dùng thuyền toả ra các nơikhai thác các nguồn đất mới. “Từ Bát Tràng ngược sông Hồng lên vùng SơnTây, Phúc Yên, rẽ qua sông Đuống, xuôi dòng Kinh Thầy đến Đông Triều, khaithác đất sét trắng ở Hồ Lao, Trúc Thôn” [2;2]..Đất sét Trúc Thôn có độ dẻo cao, khó tan trong nước, hạt mịn, màu trắng15xám, độ chịu lửa ở khoảng 1650°C. Thành phần hoá học (tính trung bình theo %trọng lượng) của đất sét Trúc Thôn như sau: Al203: 27,07; Si02: 55,87; Fe2031,2; Na2O 0,7; CaO 2,57; MgO 0,78; K2O: 2,01; Ti02: 0,81. Tuy là loại đất tốtđược người thợ gốm Bát Tràng ưa dùng nhưng sét Trúc Thôn cũng có một sốhạn chế như chứa hàm lượng ôxít sắt khá cao, độ ngót khi sấy khô lớn và bảnthân nó không được trắng.2.3.1.2. Xử lý, pha chế đấtTrong đất nguyên liệu thường có lẫn tạp chất, ngoài ra tuỳ theo yêu cầu củatừng loại gốm khác nhau mà có thể có những cách pha chế đất khác nhau để tạora sản phẩm phù hợp. Ở Bát Tràng, phương pháp xử lý đất truyền thống là xử lýthông qua ngâm nước trong hệ thống bể chứa, gồm 4 bể ở độ cao khác nhau.Bể thứ nhất ở vị trí cao hơn cả là "bể đánh" dùng để ngâm đất sét thô và nước(thời gian ngâm khoảng 3-4 tháng). Đất sét dưới tác động của nước sẽ bị phá vỡkết cấu hạt nguyên thuỷ của nó và bắt đầu quá trình phân rã (dân gian gọi làngâm lâu để cho đất nát ra). Khi đất đã "chín" (cách gọi dân gian), đánh đất thậtđều, thật tơi để các hạt đất thực sự hoà tan trong nước tạo thành một hỗn hợplỏng. Sau đó tháo hỗn hợp lỏng này xuống bể thứ hai gọi là "bể lắng" hay "bểlọc". Tại đây đất sét bắt đầu lắng xuống, một số tạp chất (nhất là các chất hữucơ) nổi lên, tiến hành loại bỏ chúng.Sau đó, múc hồ loãng từ bể lắng sang bể thứ ba gọi là "bể phơi", người BátTràng thường phơi đất ở đây khoảng 3 ngày, sau đó chuyển đất sang bể thứ tư là"bể ủ". Tại bể ủ, ôxyt sắt (Fe2O3) và các tạp chất khác bị khử bằng phương pháplên men (tức là quá trình vi sinh vật hoá khử các chất có hại trong đất). Thờigian ủ càng lâu càng tốt.Nhìn chung, khâu xử lý đất của người thợ gốm Bát Tràng thường không quanhiều công đoạn phức tạp. Trong quá trình xử lý, tuỳ theo từng loại đồ gốm màngười ta có thể pha thêm cao lanh ở mức độ nhiều ít khác nhau.2.3.1.3. Tạo dángPhương pháp tạo dáng cổ truyền của người làng Bát Tràng là làm bằng tay16trên bàn xoay[Phụ lục; ảnh 3]. Trong khâu tạo dáng, người thợ gốm Bát Tràng sử dụngphổ biến lối "vuốt tay, be chạch" trên bàn xoay, trước đây công việc này thườngvẫn do phụ nữ đảm nhiệm. Thợ ngồi trên một cái ghế cao hơn mặt bàn rồi dùngchân quay bàn xoay và tay vuốt đất tạo dáng sản phẩm. Đất trước khi đưa vàobàn xoay được vò cho thật nhuyễn, cuốn thành thoi rồi ném ("bắt nẩy") để thungắn lại. Sau đó người ta đặt vào mà giữa bàn xoay, vỗ cho đất dính chặt rồi lainén và kéo cho đất nhuyễn dẻo mới "đánh cử" đất và "ra hương" chủ yếu bằnghai ngón tay bên phải. Sau quá trình kéo đất bằng tay và bằng sành tới mức cầnthiết người thợ sẽ dùng sành dan để định hình sản phẩm. Sản phẩm "xén lợi" và"bắt lợi" xong thì được cắt chân đưa ra đặt vào "bửng". Việc phụ nữ sử dụng bànxoay vuốt tạo dáng ban đầu của sản phẩm là công việc bình thường phổ biến ởmỗi lò gốm cổ Việt Nam (không chỉ riêng Bát Tràng) nhưng lại rất xa lạ với mộtsố người thợ gốm phương Tây. Tuy thế, kĩ thuật này đã mất dần và hiện naykhông còn mấy người thợ gốm Bát Tràng còn có thể làm được công việc nàynữa. "Be chạch" cũng là một hình thức vuốt sản phẩm trên bàn xoay nhẹ đà vàchủ yếu do thợ đàn ông đảm nhiệm.Người thợ "đắp nặn" gốm là người thợ có trình độ kĩ thuật và mĩ thuật cao.Có khi họ đắp nặn một sản phẩm gốm hoàn chỉnh, nhưng cũng có khi họ đắpnặn từng bộ phận riêng rẽ của một sản phẩm và sau đó tiến hành chắp ghép lại.Hiện nay theo yêu cầu sản xuất gốm công nghiệp hay mĩ nghệ, nghệ nhân gốmcó thể đắp nặn một sản phẩm mẫu để đổ khuôn thạch cao phục vụ cho việc sảnxuất hàng loạt.Việc tạo hình sản phẩm gốm theo khuôn in (khuôn thạch cao hay khuôn gỗ)được tiến hành như sau: đặt khuôn giữa bàn xoay, ghim chặt lại, láng lòng khuônrồi ném mạnh đất in sản phẩm giữa lòng khuôn cho bám chắc chân, vét đất lênlợi vành, quay bàn xoay và kéo cán tới mức cần thiết đề tạo sản phẩm. Ngày nayngười làng gốm Bát Tràng sử dụng phổ biến kĩ thuật "đúc" hiện vật. Muốn cóhiện vật gốm theo kĩ thuật đúc trước hết phải chế tạo khuôn bằng thạch cao.Khuôn có cấu tạo từ đơn giản đến phức tạp. Loại đơn giản là khuôn hai mang,loại phức tạp thì thường cớ nhiều mang, tuỳ theo hình dáng của sản phẩm định17tạo. Cách tạo dáng này trong cùng một lúc có thể tạo ra hàng loạt sản phẩmgiống nhau, rất nhanh và giản tiện. Ngoài ra người ta còn dùng phương pháp đổrót: đổ "hồ thừa" hay "hồ đầy" để tạo dáng sản phẩm2.3.1.4. Phơi sấy và sửa hàng mộcTiến hành phơi sản phẩm mộc sao cho khô, không bị nứt nẻ, không làm thayđổi hình dáng của sản phẩm. Biện pháp tối ưu mà xưa nay người Bát Tràng vẫnthường sử dụng là hong khô hiện vật trên giá và để nơi thoáng mát. Ngày nayphần nhiều các gia đình sử dụng biện pháp sấy hiện vật trong lò sấy, tăng nhiệtđộ từ từ để cho nước bốc hơi dần dần.Sản phẩm mộc đã định hình cần đem "ủ vóc" và sửa lại cho hoàn chỉnh.Người thợ gốm đặt sản phẩm vào mà trên bàn xoay nhẹ đà rồi vừa xoay bànxoay vừa đẩy nhẹ vào chân vóc cho cân, dùng dùi vỗ nhẹ vào chân "vóc" chođất ở chân "vóc" chặt lại và sản phẩm tròn trở lại (gọi là "lùa"). Người thợ gốmtiến hành các động tác cắt, gọt chỗ thừa, bồi đắp chỗ khuyết, chắp các bộ phậncủa sản phẩm (như vòi ấm, quai tách...), khoan lỗ trên các sản phẩm, tỉa lạiđường nét hoa văn và thuật nước cho mịn mặt sản phẩm. Những sản phẩm sửalại mà không dùng bàn xoay thì gọi là "làm hàng bộ", phải dùng bàn xoay thì gọilà "làm hàng bàn".Theo yêu cầu trang trí, có thể đắp thêm đất vào một vài vùng nào đó trên sảnphẩm rồi cắt tỉa để tạo hình (đắp phù điêu), có khi phải khắc sâu các hoạ tiếttrang trí trên mặt sản phẩm...2.3.2. Quá trình trang trí hoa văn và phủ men2.3.2.1. Kỹ thuật vẽThợ gốm Bát Tràng dùng bút lông vẽ trực tiếp trên nền mộc các hoa văn hoạtiết. Thợ vẽ gốm phải có tay nghề cao, hoa văn họa tiết phải hài hoà với dánggốm, các trang trí hoạ tiết này đã nâng nghề gốm lên mức nghệ thuật, mỗi cái làmột tác phẩm[Phụ lục; ảnh 4]. Thợ gốm Bát Tràng cũng đã dùng rất nhiều hình thứctrang trí khác, có hiệu quả nghệ thuật như đánh chỉ, bôi men chảy màu, vẽ menmàu...18Gần đây, Bát Tràng xuất hiện kĩ thuật vẽ trên nền xương gốm đã nung sơ lần1 hoặc kĩ thuật hấp hoa, một lối trang trí hình in sẵn trên giấy decal, nhập từnước ngoài. Hai kiểu này tuy đẹp nhưng không phải là truyền thống của BátTràng. Những loại này không được coi là nghệ thuật và sáng tạo trong di sảngốm Bát Tràng, cũng như gốm Việt Nam nói chung.2.3.2.2. Chế tạo menMen tro là men đặc sắc của gốm Bát Tràng, ngoài ra còn có men màu nâu,thành phần loại men này bao gồm men tro cộng thêm 5% đá thối (hỗn hợp ôxítsắt và ôxít mangan lấy ở Phù Lãng, Hà Bắc). Từ thế kỉ 15 thợ gốm Bát Tràng đãtừng chế tạo ra loại men lam nổi tiếng. Loại men này được chế từ đá đỏ (cóchứa ôxít côban) đá thối (chứa ôxít mangan) nghiền nhỏ rồi trộn với men áo.Men lam phát màu ở nhiệt độ 1250 °C. Đầu thế kỉ 17 người Bát Tràngdùng vôi sống, tro trấu và cao lanh chùa Hội (thuộc Bích Nhôi, Kinh Môn, HảiDương) có màu hồng nhạt điều chế thành một loại men mới là men rạn.Thợ gốm Bát Tràng thường quen sử dụng cách chế tạo men theo phươngpháp ướt bằng cách cho nguyên liệu đã nghiền lọc kĩ trộn đều với nhau rồikhuấy tan trong nước đợi đến khi lắng xuống thì bỏ phần nước trong ở trên và bãđọng ở dưới đáy mà chỉ lấy các "dị" lơ lửng ở giữa, đó chính là lớp men bóng đểphủ bên ngoài đồ vật. Trong quá trình chế tạo men người thợ gốm Bát Tràngnhận thấy để cho men dễ chảy hơn thì phải chế biến bột tro nhỏ hơn nhiều so vớibột đất, vì thế mà có câu "nhỏ tro to đàn".2.3.2.3. Tráng menKhi sản phẩm mộc đã hoàn chỉnh, người thợ gốm có thể nung sơ bộ sảnphẩm ở nhiệt độ thấp rồi sau đó mới đem tráng men hoặc dùng ngay sản phẩmmộc hoàn chỉnh đó trực tiếp tráng men lên trên rồi mới nung. Người thợ gốmBát Tràng thường chọn phương pháp tráng men trực tiếp lên trên sản phẩm mộchoàn chỉnh. Sản phẩm mộc trước khi đem tráng men phải được làm sạch bụibằng chổi lông. Những sản phẩm mà xương gốm có màu trước khi tráng menphải có một lớp men lót để che bớt màu của xương gốm, đồng thời cũng phải19tính toán tính năng của mỗi loại men định tráng lên từng loại xương gốm, nồngđộ men, thời tiết và mức độ khó của xương gốm... Kĩ thuật tráng men có nhiềuhình thức như phun men, dội men lên bề mặt cốt gốm cỡ lớn, nhúng men đối vớiloại gốm nhỏ nhưng thông dụng nhất là hình thức láng men ngoài sản phẩm, gọilà "kìm men", và khó hơn cả là hình thức "quay men" và "đúc men". Quay menlà hình thức tráng men bên trong và bên ngoài sản phẩm cùng một lúc, còn đúcmen thì chỉ tráng men trong lòng sản phẩm. Đây là những thủ pháp tráng mencủa thợ gốm Bát Tràng, vừa là kĩ thuật vừa là nghệ thuật, được bảo tồn quanhiều thế hệ, thậm chí đã từng là bí quyết trong nghề nghiệp ở đây.2.3.2.4. Sửa hàng menNgười thợ gốm tiến hành tu chỉnh lại sản phẩm lần cuối trước khi đưa vào lònung. Trước hết phải xem kĩ từng sản phẩm một xem có chỗ nào khuyết men thìphải bôi quệt men vào các vị trí ấy. Sau đó họ tiến hành "cắt dò" tức cạo bỏnhững chỗ dư thừa men, công việc này gọi là "sửa hàng men"[3,2]..2.3.3. Quá trình nungKhi công việc chuẩn bị hoàn tất thì đốt lò trở thành khâu quyết định sự thànhcông hay thất bại của một mẻ gốm. Vì thế giờ phút nhóm lò trở nên thiêng liêngtrọng đại với người thợ gốm. Người thợ cả cao tuổi nhất thắp ba nén hương vàthành kính cầu mong trời đất và thần lửa phù giúp. Việc làm chủ ngọn lửa theonguyên tắc nâng dần nhiệt độ để lò đạt tới nhiệt độ cao nhất và khi gốm chín thìlại hạ nhiệt độ từ từ chính là bí quyết thành công của khâu đốt lò.Trước đây người thợ gốm Bát Tràng chuyên sử dụng các loại lò như lò ếch(hay lò cóc), lò đàn và lò bầu để nung gốm, sau này, xuất hiện thêm nhiều loại lònung khác, càng ngày càng hiện đại và đơn giản trong việc thao tác hơn.2.3.3.1. Lò nung[Phụ lục; ảnh 5]- Lò ếch- Lò đàn- Lò bầu, lò rồng- Lò hộp hay lò đứng20

Tài liệu liên quan

  • Làng gốm Bát Tràng Làng gốm Bát Tràng
    • 39
    • 798
    • 5
  • Thực trạng phát triển của làng gốm bát tràng Thực trạng phát triển của làng gốm bát tràng
    • 74
    • 834
    • 3
  • Thực trạng phát triển của làng gốm Bát Tràng Thực trạng phát triển của làng gốm Bát Tràng
    • 47
    • 1
    • 3
  • hình thành và đặc điểm của làng gốm bát tràng hình thành và đặc điểm của làng gốm bát tràng
    • 47
    • 998
    • 2
  • Bước đầu tìm hiểu về làng gỗ đồng kỵ trong phát triển du lịch ở đồng bằng bắc bộ Bước đầu tìm hiểu về làng gỗ đồng kỵ trong phát triển du lịch ở đồng bằng bắc bộ
    • 77
    • 523
    • 0
  • Làng gốm bát tràng và tiềm năng phát triển du lịch Làng gốm bát tràng và tiềm năng phát triển du lịch
    • 107
    • 627
    • 0
  • Báo cáo khoa học :Làng gốm Bát Tràng điểm du lịch hấp dẫn pptx Báo cáo khoa học :Làng gốm Bát Tràng điểm du lịch hấp dẫn pptx
    • 2
    • 431
    • 0
  • Đề tài: Hoạt động kinh doanh làng gốm Bát Tràng docx Đề tài: Hoạt động kinh doanh làng gốm Bát Tràng docx
    • 48
    • 773
    • 4
  • TIỂU LUẬN : LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA LÀNG GỐM BÁT TRÀNG pptx TIỂU LUẬN : LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA LÀNG GỐM BÁT TRÀNG pptx
    • 36
    • 873
    • 2
  • Tìm hiểu về làng nghề nuôi rắn ở xã Vĩnh Sơn, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc (1986 - 2008 Tìm hiểu về làng nghề nuôi rắn ở xã Vĩnh Sơn, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc (1986 - 2008
    • 94
    • 805
    • 0

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

(888.46 KB - 44 trang) - Tìm hiểu về làng gốm Bát Tràng Tải bản đầy đủ ngay ×

Từ khóa » Tìm Hiểu Về Làng Gốm Bát Tràng