- Trang chủ
- Tin tức
- Tình hình Kinh tế - Xã hội
05-01-2022 Tình hình kinh tế - xã hội năm 2021 tỉnh Ninh Thuận 1. Tốc độ tăng Tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) năm 2021 Tổng sản phẩm trong Tỉnh (GRDP) năm 2021 ước tăng 9% so với năm 2020, mức tăng cao thứ 4 so các tỉnh, thành cả nước và xếp thứ 1 trong 14 tỉnh Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung; trong đó: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 5,98%, đóng góp 1,82 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 23,67%, đóng góp 6,98 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 0,02%, đóng góp 0,007 điểm phần trăm; thuế sản phẩm tăng 3,26%, đóng góp tăng 0,2 điểm phần trăm. Về cơ cấu kinh tế (GRDP) năm 2021, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 30,02%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 35,96%; khu vực dịch vụ chiếm 28,15%; thuế sản phẩm chiếm 5,87%. (Cơ cấu tương ứng của cùng kỳ năm 2020 là: 30,77%; 31,29%; 31,72%; 6,22%). GRDP bình quân đầu người năm 2021 đạt 68,4 triệu đồng, tăng 8,4 triệu so với năm 2020. 2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2021 nhìn chung phát triển thuận lợi. Dù một vài nơi khô hạn cục bộ, và dịch bệnh Covid-19, nhưng tỉnh đã có những chỉ đạo kịp thời, hiệu quả nên diện tích gieo trồng cả 3 vụ tăng cao so với cùng kỳ, cây lúa được mùa; sản lượng các loại cây lâu năm tăng khá; lượng thịt hơi gia súc, gia cầm xuất chuồng ổn định; khai thác biển khả quan. a. Nông nghiệp Diện tích lúa năm 2021 đạt 44,1 nghìn ha, tăng 16,1 nghìn ha so với năm trước; năng suất lúa ước tính đạt 62,4 tạ/ha, tăng 0,6 tạ/ha, điều kiện thời tiết thuận lợi và diện tích gieo trồng tăng nên sản lượng lúa ước tính đạt 275,48 nghìn tấn, tăng 74,5 nghìn tấn. Kết quả sản xuất hoa màu và một số cây hằng năm: Sản lượng ngô đạt 51,86 nghìn tấn, tăng 3,76 nghìn tấn so với năm 2020 do diện tích gieo trồng tăng 1,26 nghìn ha; khoai lang đạt 3,1 nghìn tấn, tăng 0,7 nghìn tấn (diện tích tăng 41,5 ha); mía đạt 119,5 nghìn tấn, giảm 0,7 nghìn tấn (diện tích thu hoạch giảm 223,8 ha); sắn đạt 76,1 nghìn tấn, giảm 20,2 nghìn tấn (diện tích giảm 922,5 ha); lạc đạt 1,1 nghìn tấn, giảm 77 tấn (diện tích giảm 86,1 ha); sản lượng rau các loại đạt 161,4 nghìn tấn, tăng 2,6 nghìn tấn (diện tích tăng 667,4 ha); sản lượng đậu các loại đạt 2,7 nghìn tấn, giảm 69,6 tấn (diện tích giảm 107,5 ha). Diện tích trồng cây lâu năm năm 2021 ước tính đạt 12,3 nghìn ha, giảm 2,1% so với năm 2020, bao gồm nhóm cây ăn quả đạt hơn 6,3 nghìn ha, giảm 4,2%; nhóm cây công nghiệp đạt hơn 4,9 nghìn ha, giảm nhẹ 0,04%; nhóm cây lấy dầu đạt hơn 0,4 nghìn ha, tăng 14,9%; nhóm cây lâu năm còn lại đạt 0,6 nghìn ha, giảm 7,1%. Trong nhóm cây ăn quả, sản lượng nho đạt 26 nghìn tấn, giảm 3,6%; táo đạt 36,7 nghìn tấn, giảm 0,1%; xoài đạt 4,7 nghìn tấn, tăng 2,7%; chuối đạt 17,6 nghìn tấn, tăng 5,9%; sầu riêng 0,6 nghìn tấn, tăng 31,7%; bưởi 1,3 nghìn tấn, tăng 30,5%. Trong nhóm cây công nghiệp, điều diện tích đạt 4,7 nghìn ha, giảm 0,3% so với năm trước, sản lượng đạt 1,2 nghìn tấn, tăng 3,5%. Chăn nuôi gia súc có sừng có xu hướng giảm do đồng cỏ tự nhiên ngày càng thu hẹp để phát triển các dự án năng lượng mặt trời, cộng thêm hàng năm tình hình khô hạn thường xảy ra. Dịch bệnh Viêm da nổi cục trên bò xảy ra với 4.762 con bệnh; chết tiêu hủy 350 con, ước thiệt hại trên 5,4 tỷ đồng. Ước tính cuối năm 2021, tổng số trâu tăng 1,3% so với cùng thời điểm năm 2020; tổng số bò giảm 0,7%; tổng số dê, cừu giảm 5,3%. Đàn heo tăng tái lập đàn trở lại để chuẩn bị xuất chuồng trong tháng cận Tết Nguyên đán. Ước tính tổng số heo cuối năm 2021 tăng 21,7% so với cùng thời điểm năm 2020. Đàn gia cầm trong năm nhìn chung ổn định, dịch bệnh trên đàn gia cầm được kiểm soát tốt, nhu cầu và giá tiêu thụ không biến động nhiều. Ước tính tổng số gia cầm cuối năm 2021 tăng 12,5%. b. Lâm nghiệp Tính chung cả năm 2021, diện tích rừng trồng mới tập trung cả tỉnh ước tính đạt 298,6 ha, giảm 55,5% so với năm trước do không còn trồng theo Dự án bảo vệ và phát triển lâm nghiệp. Số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 201,6 nghìn cây, giảm 63,2%; sản lượng gỗ khai thác đạt 2 nghìn m3, tăng 85% do có một phần lớn diện tích gỗ rừng trồng được khai thác trắng từ Trường Đại học Nông Lâm TPHCM Phân hiệu Ninh Thuận; sản lượng củi khai thác đạt 17,7 nghìn ste, tăng 7,3%. Diện tích rừng bị thiệt hại năm 2021 (tính đến 15/12/2021) là 28,5 ha, tăng 79,6% so với năm trước, toàn bộ là diện tích rừng bị chặt phá. c. Thuỷ sản Tính chung cả năm 2021, tổng sản lượng thủy sản năm 2021 ước đạt 133,8 nghìn tấn, tăng 4,1% so với năm 2020. Bao gồm cá đạt 121,3 nghìn tấn, tăng 6,4%; tôm đạt 6,3 nghìn tấn, giảm 11,4%; thủy sản khác đạt 6,2 nghìn tấn, giảm 17,4%. Đây là năm thứ hai liên tiếp tăng về sản lượng khai thác và giảm nuôi trồng. Sản lượng thủy sản nuôi trồng cả tỉnh ước đạt 9,7 nghìn tấn, giảm 5,5% so với năm trước, trong đó cá đạt 0,9 nghìn tấn, tăng 5,3%; tôm đạt 5,9 nghìn tấn, giảm 8,4%; thủy sản khác đạt 2,9 nghìn tấn, giảm 2,3%. Trong năm, do ảnh hưởng dịch Covid-19 nên diện tích thả nuôi ít hơn, sản lượng tôm thẻ thu hoạch thấp, ước nămkhoảng5.800 tấn, giảm 8,7% so năm 2020. Sản lượng thủy sản khai thác ước tính đạt 124,1 nghìn tấn, tăng 4,9% so với năm trước; trong đó cá đạt 120,3 nghìn tấn, tăng 6,4%; tôm đạt 0,4 nghìn tấn, giảm 39,5%; thủy sản khác đạt 3,3 nghìn tấn, giảm 27,2%.Thời tiết biển trong năm nhìn chung thuận lợi, lượng cá xuất hiện nhiều, nhất là cá cơm, cá nục phù hợp với nghề khai thác truyền thống pha xúc, lưới vây của tỉnh. 3. Sản xuất công nghiệp Do ảnh hưởng của thời tiết mưa nhiều làm lượng điện sản xuất đạt thấp nên tốc độ tăng chỉ số sản xuất Công nghiệp (IIP) quý IV/2021 đạt 6,33%, thấp nhất trong bốn quý (quý I đạt 50,63%; quý II đạt 29,77%, quý III đạt 16,53%). Tính chung cả năm, chỉ số IIP tăng 24,64% so với năm trước, trong đó sản xuất và phân phối điện tăng 43,11%, tiếp tục giữ vai trò chủ chốt dẫn dắt mức tăng trưởng chung của ngành công nghiệp và toàn nền kinh tế. Chỉ số IIP toàn ngành công nghiệp năm 2021 ước tính tăng 24,64% so với năm 2020 (năm 2020 tăng 39,43%). Trong đó, ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện tiếp tục là điểm sáng của toàn ngành với mức tăng 43,11%; ngành chế biến, chế tạo tăng 1,53%, mức tăng thấp do ảnh hưởng dịch Covid-19 và không có năng lực mới tăng trong ngành; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 5,15%; ngành khai khoáng giảm 31,57%, chủ yếu ngành khai thác muối biển giảm45,85% so cùng kỳ năm trước do giá cả và số lượng muối biển tiêu thụ rất thấp, muối tồn kho nhiều,chỉ số sản xuất ngành khai khoáng tác động làm giảm -2,29 điểm % vào chỉ số chung toàn ngành CN. Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu năm 2021 tăng cao so với năm trước: Sản xuất đường đạt 7,3 nghìn tấn, tăng 58,8% so với năm trước, nguồn mía nguyên liệu đáp ứng đủ theo nhu cầu sản xuất của doanh nghiệp (6 tháng đầu năm). Điện sản xuất ước đạt 6,4 tỷ kwh, tăng 38%; trong đó, điện năng lượng tái tạo đã cung cấp sản lượng ước đạt 4,9 tỷ kwh, tăng 48,8%. Tôm đông lạnh là sản phẩm chiếm tỷ trọng cao trong giá trị ngành công nghiệp chế biến chế tạo, tình hình tiêu thụ thuận lợi giúp cho sản xuất ước đạt 8,8 nghìn tấn, tăng 24,7%. Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu giảm hoặc tăng thấp so với cùng kỳ: Khai thác muối biển: mặc dù tình hình thời tiết có thuận lợi, nhưng lượng tiêu thụ chậm và giá tiêu thụ giảm nhiều so với cùng kỳ, nên sản lượng khai thác ước chỉ đạt 254,1 nghìn tấn, giảm 45,8% so năm trước (lượng muối sản xuất, tồn kho tương đương). Xi măng các loại: ước đạt 200,5 nghìn tấn, giảm 12,4%, các công trình xây dựng tạm ngừng thi công do giãn cách đã ảnh hưởng đến tiêu thụ sản phẩm. Hạt điều khô: do tác động bởi tình hình dịch bệnh tại các thị trường tiêu thụ chính, dự kiến sản xuất ước đạt 4 nghìn tấn, giảm 12,9%. Bia các loại: dự kiến sản xuất đạt hơn 39,1 triệu lít, giảm 0,9% (do dịch vụ ăn uống, du lịch ngưng trệ bởi đợt bùng phát dịch Covid lần thứ 4); đây là sản phẩm đóng góp nhiều trong cơ cấu ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và toàn ngành công nghiệp của địa phương. Sản xuất tinh bột mỳ sản xuất 10,6 nghìn tấn, tăng 9,3%. 4. Tình hình đăng ký doanh nghiệp Khu vực doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong năm 2021 do chịu ảnh hưởng trực tiếp từ dịch Covid-19. Tính đến ngày 15/12/2021, cả tỉnh có 368 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, giảm 43,2% so với năm trước; số vốn đăng ký mới cũng giảm 54,5%; số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động tăng 52,1%. Điểm sáng là có 99 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 28,6%; số doanh nghiệp giải thể giảm 8,2%. Tính đến ngày 15/12/2021, có 368 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với số vốn 2.981 tỷ đồng, giảm 43,2% số doanh nghiệp và giảm 54,5% số vốn đăng ký so cùng kỳ. Số lao động đăng ký trong các doanh nghiệp mới 2.329 lao động, chỉ bằng 58,4% so cùng kỳ. Tổng số doanh nghiệp đang hoạt động đến ngày 15/12/2021, có 3.823 doanh nghiệp/74.890 tỷ đồng. Số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động tăng 28,6% so cùng kỳ. Đến ngày 15/12/2021, có 78 doanh nghiệp giải thể, giảm 8,2% so cùng kỳ; 178 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động, tăng 52,1% so cùng kỳ . 5. Hoạt động dịch vụ a. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng Hoạt động thương mại dịch vụ trong năm 2021 gặp nhiều khó khăn do đợt bùng phát dịch Covid-19 lần thứ tư vào 6 tháng cuối năm. Nguy cơ nhiễm bệnh cao làm cho nhu cầu tiêu dùng, du lịch, vui chơi giải trí của người dân giảm, cùng với nhiều văn bản chỉ đạo tạm dừng một số dịch vụ không thực sự cần thiết đã ảnh hướng đến mức tăng tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ. Tuy vậy, việc kiểm soát dịch tốt trong 6 tháng đầu năm góp phần làmTổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2021 tăng nhẹ 1,2% so với năm trước. Năm 2021, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 24.179,7 tỷ đồng, tăng 1,2% so với năm 2020, mức tăng thấp nhất trong các năm 2016-2021 (các năm giai đoạn 2016-2021 lần lượt là: tăng 11,9%; tăng 13,3%; tăng 15,1%; tăng 12,7%; tăng 4,8%; tăng 1,2%). Xét theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa năm nay ước đạt 20.028,1 tỷ đồng, chiếm 82,8% tổng mức và tăng 6% so với năm trước, đây là mức tăng thấp nhất trong 6 năm gần đây (năm 2016, 2017, 2018, 2019, 2020 có mức tăng so với năm trước lần lượt là 9,3%, 12,9%, 15,4%, 12,3%, 8,3%). Trong đó: ngành hàng vật phẩm văn hóa, giáo dục tăng 10,1%; lương thực, thực phẩm tăng 5,2%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình giảm 3,6%; may mặc giảm 13,3%; phương tiện đi lại giảm 26,7%. Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 2.579,8 tỷ đồng, chiếm 10,7% và giảm 17,6%. Doanh thu du lịch lữ hành đạt 1,3 tỷ đồng, chiếm 0,006% và giảm 42,2%, do tình hình dịch bệnh Covid-19 trong nước và thế giới diễn biến phức tạp làm nhu cầu du lịch của người dân giảm do lo ngại dịch bệnh lây lan. Doanh thu dịch vụ khác đạt 1.570,4 tỷ đồng, chiếm 6,5% và giảm 15,5%. b. Vận tải hành khách và hàng hóa Diễn biến dịch bệnh Covid-19 phức tạp trong những tháng cuối năm làm lượng hành khách vận chuyển quý IV giảm 0,9% so với quý trước và giảm 80,2% so với cùng kỳ năm trước; nhưng hoạt động vận tải hàng hóa vẫn thông suốt với mức tăng 76,5% và 3,3%. Tính chung cả năm 2021, vận chuyển hành khách giảm 48% và vận chuyển hàng hóa giảm 2,6% so với năm trước. Tính chung cả năm 2021, vận tải hành khách đạt 2,6 triệu lượt khách, giảm 48% so với năm trước và 196,7 triệu lượt khách.km, giảm 49,9%; vận tải hàng hóa đạt 7,3 triệu tấn, giảm 2,6% so với năm trước và 530,3 triệu tấn.km, giảm 3,5%. 6. Xuất nhập, khẩu hàng hóa Dịch bệnh Covid-19 bùng phát đợt thứ tư trên địa bàn tỉnh trong 6 tháng cuối năm 2021 đã gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động xuất khẩu. Ước tính, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 600 triệu USD, giảm 4,5%, trong đó xuất khẩu đạt 113 triệu USD, tăng25,6%; nhập khẩu đạt 487 triệu USD, giảm 9,5%. Cán cân thương mại năm 2021 của tỉnh tiếp tục nhập siêu, đạt mức 374 triệu USD, giảm 16,6% so với năm trước. a. Xuất khẩu hàng hóa Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu năm 2021 ước tính đạt 113 triệu USD, tăng 25,6% so với năm trước và đạt 113% so kế hoạch (100 triệu USD). Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu: thủysản ước đạt 58 triệu USD, tăng 65,7%; hạt điều nhân ước đạt 30 triệu USD, không tăng không giảm; mặt hàng khác ước đạt 25 triệu USD, không tăng không giảm. Thị trường tiêu thụ chủ yếu là Mỹ, Nhật, Canada, Đức, Pháp, Trung Quốc, Hà Lan, Anh, Singapore,.... b. Nhập khẩu hàng hóa Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu ước đạt 487 triệu USD, giảm9,5% so với năm trước, đạt 141,1% so với kế hoạch (345 triệu USD). 7. Chỉ số giá Giá nhiều mặt hàng lương thực, thực phẩm tiếp tục tăng do thời tiết không thuận lợi, sản lượng cung ứng giảm, chi phí vận chuyển tăng là những yếu tố làm cho chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12/2021 tăng 0,11% so với tháng trước và tăng 1,98% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân năm 2021, chỉ số giá tiêu dùng tăng 2,78% so với năm 2020. CPI bình quân năm 2021 tăng 2,78% so với bình quân năm 2020; CPI tháng 12/2021 tăng 1,98% so với tháng 12/2020. CPI bình quân năm 2021 tăng do một số nguyên nhân chủ yếu sau: (1) Giá gạo trong nước tăng theo giá gạo xuất khẩu; (2) Dịch bệnh Covid-19 làm nguồn cung một số mặt hàng thực phẩm bị hạn chế, giá nguyên vật liệu đầu vào sản xuất nhiều mặt hàng tăng; (3) Giá gas trong nước tăng, biến động theo giá gas thế giới; (4) Giá hầu hết các vật liệu xây dựng đều tăng, đặc biệt là giá thép tăng cao do giá phôi théptăng mạnh; (5) Giá xăng dầu trong nước được điều chỉnh nhiều đợt, bình quân năm tăng 29,71%. Bên cạnh đó, có một số yếu tố góp phần kiềm chế tốc độ tăng CPI năm 2021: (1) Giá thịt gia súc giảm 7,72%, thịt gia cầm giảm 3,30% do nguồn cung đảm bảo, giá heo hơi giảm đã làm cho giá thịt heo và các sản phẩm chế biến từ thịt heo giảm so với năm trước; (2) Giá dịch vụ du lịch trọn gói giảm, (3) Giá các loại hoa và cây cảnh giảm; (4) Giá vé máy bay giảm do tình hình dịch Covid-19 trong nước bùng phát trở lại nên cũng góp phần kiềm chế mức tăng CPI trong năm 2021. Do ảnh hưởng chung của giá vàng, đô la Mỹ trong nước và thế giới; So với năm 2020, chỉ số giá vàng năm 2021 tăng 7,33%, chỉ số giá đô la Mỹ tăng 0,51%. Giá vàng 9999 hiện ở mức 5.210.000 đồng/chỉ; giá đô la Mỹ ở mức 23.680 đồng/USD. 8. Đầu tư, xây dựng Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2021 giảm 3,9% so với năm 2020, trong đó khu vực kinh tế ngoài Nhà nước giảm 3,5% với tỷ trọng trong tổng vốn đầu tư lớn nhất 79,3%. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 27,7% do giải ngân các dự án năng lượng. Riêng vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước chưa cao, đạt 95,3% kế hoạch năm, giảm 12,7% so với năm trước. Huy động vốn đầu tư toàn xã hội năm 2021 ước đạt 28.270 tỷ đồng, giảm 3,9% so với năm 2020; trong đó: nguồn vốn ngân sách nhà nước ước đạt 2.741 tỷ đồng, chiếm 9,7% trong tổng số vốn đầu tư toàn xã hội và giảm 26,7%; khu vực ngoài nhà nước 22.423 tỷ đồng, chiếm 79,3% và giảm 3,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 3.106 tỷ đồng chiếm 11% và tăng 27,7%. Nguyên nhân giảm chủ yếu do ảnh hưởng của dịch Covid-19 làm đầu tư từ khu vực Nhà nước và ngoài Nhà nước giảm. 9. Tài chính Tổng thu ngân sách tỉnh năm 2021 ước đạt 3.907 tỷ đồng và đạt 100,2% dự toán HĐND tỉnh giao. Trong đó: Thu nội địa 3.000 tỷ đồng, đạt 111,1% dự toán được HĐND tỉnh giao, tăng 1% so với năm 2020; Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 907 tỷ đồng, đạt 75,6% dự toán HĐND tỉnh giao. Tổng chi ngân sách địa phương 6.591 /5.606 tỷ đồng (không tính chi từ nguồn vốn trái phiếu Chính phủ), đạt 118% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao. 10. Một số vấn đề xã hội a. Dân số, lao động, việc làm Dân số trung bình năm 2021 là 596 nghìn người. Chất lượng dân số được cải thiện, mức sinh cơ bản duy trì mức sinh thay thế. Tỷ lệ tử vong vẫn duy trì ở mức thấp, tuổi thọ trung bình ngày càng tăng do những thành tựu phát triển của y học và công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân được cải thiện. Ước tính dân số trung bình năm 2021 đạt 596 nghìn người, tăng 0,41% so với năm 2020; tỷ lệ tăng tự nhiên 9,79%o; tỷ suất sinh thô 15,84%o; tỷ suất chết thô 6,05%o. Về cơ cấu nữ: 295 nghìn người, chiếm 49,5% số dân; nam 301 nghìn người, chiếm 50,5%. Về dân số theo khu vực thành thị đạt 211 nghìn người, chiếm 35,4%; nông thôn đạt 385 nghìn, chiếm 64,6%. Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động ước tính 326,5 nghìn người, giảm 1,8 nghìn người so với năm trước. Trong đó: lao động nam 178,8 nghìn người, chiếm 54,8% tổng số và lao động nữ 147,7 nghìn người, chiếm 45,2%; khu vực thành thị 112,4 nghìn người, chiếm 34,4% và khu vực nông thôn 214,1 nghìn người, chiếm 65,6%. Trong năm 2021, công tác giải quyết việc làm mới được quan tâm triển khai đồng bộ và gắn liền với phát triển kinh tế- xã hội của từng địa phương. Kết quả giải quyết việc làm mới năm 2021: đã giải quyết việc làm mới cho 11.237 lao động, đạt 70,2% kế hoạch giao, trong đó: Lao động đi làm việc trong tỉnh là 6.217 lao động, chiếm 54,5%; Lao động đi làm việc ngoài tỉnh là 4.992 lao động, chiếm 44,4%; Lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài 28 lao động, đạt 18,7% kế hoạch giao (28/150), chiếm 0,2%. b. Đời sống dân cư và công tác an sinh xã hội Dịch bệnh Covid-19 trên địa bàn tỉnh, đợt dịch thứ tư bùng phát từ ngày 03/7/2021 đến nay làm cho đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Mức lương cơ sở của cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang vẫn đang được thực hiện theo Nghị định 38/2019/NĐ-CP ban hành ngày 09/5/2019 của Chính Phủ là 1,49 triệu đồng/tháng. Bên cạnh dịch bệnh Covid-19 đã tác động không thuận lợi đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp làm giảm việc làm, giảm thu nhập của người lao động hưởng tiền lương, tiền công. Đời sống nông dân cũng ảnh hưởng khi giá cả nhiều loại nông sản bị giảm, hàng hóa khó lưu thông, khó tiêu thụ. Tính đến ngày 29/11/2021, có 12 chính sách đã hỗ trợ dịch bệnh Covid-19 cho doanh nghiệp và người lao động với 67.211 lượt lao động, kinh phí hơn 100 tỷ đồng. Các ngành chức năng của tỉnh đã phối hợp triển khai thực hiện tốt việc cấp phát gạo hỗ trợ của Chính phủ nhân dịp Tết Nguyên đán Tân Sửu năm 2021 là 530,205 tấn gạo cho 8.913 hộ/35.347 khẩu; cho người dân có khả năng thiếu đói do ảnh hưởng dịch bệnh Covid - 19 trên địa bàn tỉnh là 577,2 tấn gạo với 9.752 hộ/38.480 khẩu. c. Giáo dục, đào tạo Chất lượng giáo dục năm học 2020-2021: Tỷ lệ học sinh ra lớp các cấp học khá cao, số trẻ mẫu giáo 5 tuổi đến trượng đạt tỷ lệ 100,6%; tỷ lệ học sinh lớp 1, lớp 6 tuyển mới đúng độ tuổi đạt 99,9%. Học sinh cấp Tiểu học xếp loại Năng lực và Phẩm chất đánh giá là Đạt cuối năm học trở lên có tỷ lệ duy trì trên 99,8%; tỷ lệ HS hoàn thành chương trình giáo dục Tiểu học cuối năm đạt 99,93%. Tỷ lệ xếp loại Học lực từ Trung bình trở lên cấp THCS đạt 95,2%, cấp THPT đạt 92,55%; tỷ lệ tốt nghiệp cấp THCS toàn tỉnh đạt 99,88%; tỷ lệ HS tốt nghiệp cấp THPT toàn tỉnh đạt 95,31%. Trong kỳ thi chọn HS giỏi cấp quốc gia năm học 2020-2021 tỉnh Ninh Thuận đạt 15 giải gồm 01 giái Nhất, 02 giải Nhì, 04 giải Ba và 08 giải Khuyến khích. Tình hình năm học 2021-2022: toàn tỉnh có 310 cơ sở giáo dục, đào tạo (trong đó có 28 trường ngoài công lập); bao gồm 90 trường cấp Mầm non (trong đó có 26 trường ngoài công lập), 133 trường Tiểu học, 47 trường THCS, 15 trường THPT, 11 trường liên cấp TH-THCS, 04 trường liên cấp THCS-THPT, 02 trường liên cấp TH-THCS-THPT (ngoài công lập), 05 trường Dân tộc nội trú, 01 trường chuyên, 02 Trung tâm. Tổng số học sinh toàn tỉnh đầu năm học 2021-2022 là 146.817 HS (trong đó: cấp Mầm non 27.951 trẻ; Tiểu học 62.151 HS; THCS 38.826 HS: THPT 17.889 HS). d. Chăm sóc sức khỏe cộng đồng Dịch bệnh Covid-19 tiếp tục diễn biến phức tạp, liên tục có các ca bệnh trong cộng đồng trên địa bàn tỉnh. Tính từ đầu năm đến 18h00 ngày 20/12/2021, toàn tỉnh có 5.213 người mắc bệnh Covid-19, tăng cao so với năm 2020 (năm 2020 có 03 người mắc bệnh). Riêng đợt dịch thứ 4 tính từ ngày 03/7/2021, phát hiện 5.204 người mắc bệnh; có 4.560 người được điều trị khỏi xuất viện; 52 người tử vong. Tính đến ngày 15/12/2021, toàn tỉnh đã tiêm 898.480 mũi vắc xin (đạt tỷ lệ 94,92%), trong đó số người đã tiêm mũi 1 là 477.247; số người đã tiêm mũi 2 là 375.679. Trong năm 2021, phát hiện 235 trường hợp mắc bệnh Sốt xuất huyết, giảm 51,4% so với năm 2020; bệnh Tay chân miệng phát hiện 85 trường hợp, giảm 67,7%. Chưa có trường hợp tử vong. Các bệnh truyền nhiễm khác mắc tản phát như bệnh lỵ (trực tràng, Amibe) 140 trường hợp, tiêu chảy 1.118 trường hợp, thủy đậu 50 trường hợp, thương hàn 05 trường hợp, quai bị 08 trường hợp, cúm 4.776 trường hợp, tất cả đều giảm so với năm 2020. Không ghi nhận trường hợp mắc bệnh bạch hầu, tả, viêm não, các loại cúm A, bệnh do vi rút Zika trên địa bàn tỉnh. e. Hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch Do ảnh hưởng của dịch Covid-19 nên các hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch trong năm 2021 không sôi nổi như các năm trước, phần lớn các hoạt động đều bị tạm dừng hoặc thay đổi kế hoạch. g. Tai nạn giao thông Lũy kế năm 2021, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 137 vụ tai nạn giao thông, làm 50 người chết và 129 người bị thương. So với năm 2020, tai nạn giao thông giảm trên cả 3 tiêu chí. Số vụ tai nạn giao thông năm 2020 giảm 17 vụ (-11%); số người chết giảm 11 người (-18%); số người bị thương giảm 21 người (-14%). Toàn bộ 137 vụ tai nạn giao thông thuộc đường bộ. Bình quân 2,7 ngày xảy ra 01 vụ tai nạn giao thông. h. Tình hình cháy, nổ Lũy kế 12 tháng năm 2021, xảy ra 08 vụ cháy, giảm 07 vụ so với năm 2020; không có người chết và bị thương, không tăng không giảm so với năm 2020; tổng thiệt hại tài sản là 547,6 triệu đồng, giảm 11.152,4 triệu đồng (giảm 95,3%). i. Thiệt hại thiên tai Lũy kế năm 2021, trên địa bàn tỉnh xảy ra 06 vụ thiên tai, làm chết 02 người, giảm 04 người so với năm 2020; ước tổng giá trị thiệt hại hơn 92 tỷ đồng, giảm 38,7 tỷ đồng (giảm 29,6%)./. *Đính kèm file: “Báo cáo tình hình kinh tế-xã hội năm 2021” Nguyễn Hồng Thiện (Phòng thống kê Tổng hợp) Tin liên quan - Tình hình kinh tế - xã hội tháng 10 và 10 tháng đầu năm 2024 05/11/2024 (120 Lượt xem )
- Tình hình kinh tế - xã hội tháng 9 và 9 tháng đầu năm 2024 08/10/2024 (382 Lượt xem )
- Tình hình kinh tế - xã hội tháng 8 và 8 tháng đầu năm 2024 04/09/2024 (278 Lượt xem )
- Tình hình kinh tế - xã hội tháng 7 và 7 tháng đầu năm 2024 31/07/2024 (326 Lượt xem )
- Tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2024 tỉnh Ninh Thuận 03/07/2024 (885 Lượt xem )
- THÔNG CÁO BÁO CHÍ VỀ TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2024 TỈNH NINH THUẬN 03/07/2024 (349 Lượt xem )
- Tình hình kinh tế - xã hội tháng 5 năm 2024 tỉnh Ninh Thuận 30/05/2024 (702 Lượt xem )
- Tình hình kinh tế - xã hội tháng 4 năm 2024 tỉnh Ninh Thuận 04/05/2024 (592 Lượt xem )
- Tình hình kinh tế - xã hội quý I năm 2024 tỉnh Ninh Thuận 03/04/2024 (1878 Lượt xem )
- Tình hình kinh tế - xã hội tháng 02 năm 2024 tỉnh Ninh Thuận 29/02/2024 (551 Lượt xem )
|