Tình Hình Kinh Tế Xã Hội Tỉnh Hà Tĩnh Năm 2020

Năm 2020 là năm cuối của nhiệm kỳ, năm có ý nghĩa quan trọng quyết định kết quả thực hiện kế hoạch 5 năm 2016-2020 trong phát trển kinh tế xã mà Đại hội đảng các cấp đề ra; một năm diễn ra nhiều sự kiện chính trị, văn hoá lớn trong cả nước, tùng vùng và từng địa phương, đặc biệt là năm tổ chức Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.

Tuy nhiên nhìn lại trong năm vừa qua, việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh trên địa bàn Hà Tĩnh diễn ra trong điều kiện còn nhiều khó khăn như nguồn lực đầu tư hạn chế, thời tiết mưa lũ kéo dài, dịch bệnh diễn biến phức tạp, đặc biệt là đại dịch Covid-19 xẩy ra trong quý I vừa qua đã ảnh hưởng rất lớn đến đời sống sinh hoạt của người dân, doanh thu các ngành dịch vụ bị ảnh hưởng; trong sản xuất nông nghiệp chịu sự tác động của thời tiết mưa lũ, dịch tả lợn Châu Phi..vv đã ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả thực hiện các chỉ tiêu kinh tế - xã hội cũng như đời sống nhân dân. Trong bối cảnh đó, tỉnh Hà Tĩnh đã triển khai kịp thời Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ, Nghị quyết của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh và Hội đồng nhân dân tỉnh về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội bảo đảm tính chủ động, kịp thời, linh hoạt, lựa chọn các nhiệm vụ trọng tâm để tập trung chỉ đạo, phù hợp với diễn biến tình hình và các vấn đề mới phát sinh, phấn đấu hoàn thành cao nhất mục tiêu, kế hoạch đề ra. Tuy vậy, quá trình thực hiện gặp nhiều khó khăn, đã ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả thực hiện các chỉ tiêu kinh tế - xã hội cụ thể như sau:

1. Tăng trưởng kinh tế

1.1. Quy mô và tốc độ tăng trưởng giá trị tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP)

- Giá trị tổng sản phẩm trong tỉnh theo giá hiện hành: Quy mô GRDP năm 2020 theo giá hiện hành ước đạt 81.818,42 tỷ đồng. Trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản ước đạt 12.940,29 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 15,81%; khu vực công nghiệp và xây dựng ước đạt 34.322,17 tỷ đồng chiếm 41,95%; khu vực dịch vụ ước đạt 27.612,81 tỷ đồng chiếm 33,75% và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm ước đạt 6.943,16 tỷ đồng chiếm 8,49% trong tổng chung

- Giá trị tổng sản phẩm trong tỉnh theo giá so sánh 2010: GRDP năm 2020 (theo giá so sánh năm 2010) ước đạt 47.740,93 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng kinh tế ước tăng 0,53% so với cùng kỳ năm 2019. Đây là năm có tốc độ tăng trưởng GRDP thấp nhất kể từ sau sự cố môi trường biển năm 2016. Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế thì khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,76% đóng góp 0,5 điểm % vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 0,48%, đóng góp 0,21 điểm %; khu vực dịch vụ tăng 0,69%, đóng góp 0,23 điểm % và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm giảm 4,57%, đóng góp -0,41 điểm %.

1.2. Đánh giá đối với một số ngành, lĩnh vực tác động đến tăng trưởng kinh tế.

- Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản: Năm 2020 đạt mức tăng trưởng khá. Trong đó, ngành nông nghiệp tăng 3,59% đóng góp 0,38 điểm phần trăm trong mức tăng chung; ngành lâm nghiệp tăng 2,81% đóng góp 0,03 điểm phần trăm. Điểm sáng của khu vực này là ngành thủy sản đạt kết quả khá với mức tăng 5,46%, nhưng do chiếm tỷ trọng nhỏ nên chỉ đóng góp 0,09 điểm phần trăm. Năm 2020 do diện tích gieo trồng vụ Hè Thu tăng so với năm trước. Bên cạnh đó đồng ruộng Hà Tĩnh được ghi nhận rất ít sâu bệnh, nông dân tuân thủ lịch thời vụ nên lúa sinh trưởng và phát triển tốt đem lại sản lượng cao (sản lượng lúa năm 2020 tăng 5,41% (tăng 27.389 tấn) so với năm 2019). Cùng với cây lúa các loại cây trồng cạn (ngô, rau, khoai lang đậu các loại) và cây ăn quả năng suất và sản lượng cao hơn năm 2019. Chăn nuôi từ đầu năm đã tập trung thực hiện đồng bộ, hiệu quả các biện pháp kiểm soát dịch và đạt được những kết quả bước đầu về tăng đàn, tái đàn và tăng sản lượng. Hoạt động sản xuất lâm nghiệp tăng so với cùng kỳ do một số diện tích rừng sản xuất đến kỳ thu hoạch nên sản lượng lâm sản khai thác tăng nhẹ. Đối với hoạt động sản xuất thủy năm 2020 vẫn duy trì được mức tăng khá, sản lượng thủy sản nuôi trồng và khai thác đều tăng so với năm 2019. Mặc dù duy trì được mức tăng khá nhưng ngành thủy sản chiếm tỷ trọng nhỏ nên đóng góp không nhiều vào tăng trưởng của ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản cũng như tăng trưởng chung.

- Khu vực Công nghiệp và xây dựng: Ngành công nghiệp năm 2020 tăng 1,13% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn nhiều so với mức tăng cùng kỳ các năm 2011-2020, đóng góp 0,4 điểm phần trăm vào mức tăng chung. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 2,5 %, đóng góp -0,64 điểm phần trăm; ngành khai khoáng giảm 5,08%, làm giảm 0,03 điểm phần trăm; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước là điểm sáng trong tăng trưởng của khu vực này với mức tăng 12,52%, đóng góp 1,10 điểm phần trăm. Cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 7,27% so với cùng kỳ đóng góp -0,03 điểm %. Ngành xây dựng năm 2020 giảm -2,24% đóng góp -0,19 điểm phần trăm. Năm 2020 sản lượng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm phôi thép, thép thành phẩm của Công ty Formosa giảm mạnh do hiện nay giá thép thành phẩm liên tục giảm, giá nguyên liệu tiếp tục tăng cao. Cùng với đó là ảnh hưởng của dịch Covid-19 và chiến tranh thương mại Mỹ-Trung kéo dài từ năm 2019 đến nay đồng thời Công ty Formosa ngừng hoạt động để bảo dưỡng sửa chữa máy móc dây chuyền cán nóng nên dự ước sản lượng phôi thép đạt 5,8 triệu tấn (giảm 4,06%) và sản lượng thép là 4,4 triệu tấn (giảm 9,17%) so với cùng kỳ năm 2019. Cùng với sự sụt giảm của Công ty Formosa thì các ngành công nghiệp chế biến chế tạo khác cũng đều sụt giảm do ảnh hưởng dịch Covid-19 và Nghị định 100 về cấm sử dụng rượu, bia khi tham gia giao thông.Tăng trưởng của ngành điện sản xuất được duy trì ổn định do có sự đóng góp của dự án điện mặt trời Cẩm Hòa, từ tháng 7/2019 đi vào hoạt động và Công ty Điện lực Dầu khí Hà Tĩnh vận hành ổn định các tổ máy, sản lượng tăng so với cùng kỳ (đầu năm 2019 có 2 tháng thiếu nhiên liệu và các tổ máy ngừng hoạt động để sửa chữa). Hoạt động xây dựng năm 2020 tiếp tục gặp khó khăn do dịch bệnh Covid-19 diễn ra trong thời gian dài các hoạt động xây dựng tạm ngừng hoặc giãn thi công, tháng 10 mưa lớn ngập úng trên diện rộng nên hoạt động xây dựng tiếp tục sụt giảm.

- Khu vực dịch vụ: Năm 2020 tăng 0,69%, đây là năm thứ hai tăng trưởng khu vực này đạt thấp kể từ khi xảy ra sự cố môi trường biển năm 2016. Trong khu vực dịch vụ, đóng góp của một số ngành có tỷ trọng lớn như: Bán buôn và bán lẻ tăng 3,22% so với năm 2019, đóng góp 0,19 điểm phần trăm vào mức tăng chung; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm có mức tăng khá 7,7%, đóng góp 0,2 điểm phần trăm; ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống giảm 23,39%, đóng góp -0,55 điểm phần trăm; ngành vận tải, kho bãi giảm 7,36%, đóng góp -0,27 điểm phần trăm. Do là ngành chịu tác động lớn của tình hình dịch bệnh Covid-19 và chính sách pháp luật với việc thực hiện Nghị định số 100/2019/NĐ-CP của Chính phủ, những tháng cuối năm lại chịu ảnh hưởng bởi thời tiết không thuận lợi, mưa bão xảy ra liên tiếp.

- Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm: Hiện nay, thực hiện tính chỉ tiêu GRDP theo giá cơ bản thì thuế sản phẩm trừ (-) trợ cấp sản phẩm được tính trực tiếp vào GRDP. Năm 2020, thuế sản phẩm trừ (-) trợ cấp sản phẩm theo giá so sánh giảm 4,57% so với năm 2019 đã làm giảm 0,41 điểm phần trăm trong tổng mức tăng trưởng chung. Nguyên nhân chính do số thu từ công ty TNHH Gang thép Hưng Nghiệp Formosa giảm và hoàn thuế VAT tăng cao so với cùng kỳ.

Nhìn chung, giai đoạn 5 năm từ 2016 đến 2020 Hà Tĩnh đã có nhiều thay đổi trong tăng trưởng kinh tế. Tốc độ tăng GRDP bình quân giai đoạn 2016-2020 chỉ đạt 4,42%/năm, trong đó: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt 1,53%/năm; khu vực công nghiệp-xây dựng đạt 8,8%/năm; khu vực dịch vụ đạt 3,46%/năm; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm đạt -3,91%/năm. Như vậy, hoạt động sản xuất ổn định của Công ty Fomosa đóng vai trò rất lớn cho sự phát triển của ngành sản xuất công nghiệp của địa phương cũng như của cả nước tạo tính bền vững trong tăng trưởng kinh tế cho những năm tiếp theo và tạo tiền đề cho bước đột phá mới.

1.2. Cơ cấu nền kinh tế

Cơ cấu kinh tế Hà Tĩnh trong những năm qua đã chuyển dịch theo hướng tích cực tăng dần tỷ trọng khu vực công nghiệp-xây dựng và dịch vụ, giảm khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản. Tuy nhiên năm 2020 do ảnh hưởng của dịch Covid-19; thiên tai, lũ lụt và chiến tranh thương mại Mỹ-Trung kéo dài từ năm 2019 đến nay đã làm thay đổi tỷ trọng trong cơ cấu các ngành kinh tế, cụ thể đến nay khu vực công nghiêp- xây dựng chiếm 41,95% giảm 1,03 điểm % so với năm 2019; khu vực dịch vụ chiếm 33,75%, giảm 0,83 điểm %; khu vực thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 8,49% giảm 0,23 điểm % so với năm 2019 và khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản chiếm 15,81%, tăng 2,09 điểm %.

Chuyển đổi cơ cấu kinh tế không chỉ diễn ra ở các khu vực kinh tế mà xu hướng chuyển đổi trong nội ngành cũng diễn ra tích cực trong những năm gần đây. Giá trị tăng thêm ngành nông nghiệp chiếm tỷ trọng rất lớn trong cơ cấu nội ngành, năm 2020 chiếm 80,77%; trong khi đó ngành thủy sản chỉ chiếm 6,92%; ngành lâm nghiệp chiếm 12,31%. Trong sản xuất nông nghiệp cơ cấu cây trồng, vật nuôi chuyển đổi theo hướng sản xuất hàng hóa, áp dụng nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật, đặc biệt là giống, biện pháp thâm canh mới…góp phần tăng năng suất, chất lượng và giá trị sản phẩm.

Đối với khu vực công nghiệp và xây dựng, cơ cấu ngành và cơ cấu sản phẩm đang có sự thay đổi để phù hợp hơn với nhu cầu thị trường. Trong những năm gần đây tỷ trong của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và ngành sản xuất và phân phối điện có xu hướng tăng, năm 2020 chiêm 97,5% trong cơ cấu nội ngành (tăng 0,2 điểm % so với năm 2019); tỷ trọng của ngành khai khoáng chiếm 1,39% (giảm 0,12 điểm % so với năm 2019). Điều này cho thấy chính sách phát triển kinh tế đã hướng vào tăng trưởng bền vững, giảm phụ thuộc vào khai thác tài nguyên thiên nhiên.

Khu vực dịch vụ được cơ cấu lại theo hướng nâng cao chất lượng dịch vụ, tập trung đầu tư cơ sở vật chất phù hợp với sự tiến bộ nhanh chóng của khoa học công nghệ. Tuy nhiên hiện nay tỷ trọng giá trị dịch vụ trong cơ cấu ngành kinh tế tăng với tốc độ chậm. Điểm yếu của khu vực dịch vụ chính là tỷ trọng các phân ngành còn có sự chênh lệch lớn. Năm 2020 tỷ trọng ngành khách sạn, nhà hàng trong cơ cấu nội ngành nhiều năm vẫn giữ ở mức thấp 5,07% (giảm 1,67 điểm %) so với năm 2019, ngành tài chính-ngân hàng và bảo hiểm chiếm 6,92% (tăng 0,24 điểm %); Ngành vận tải và thông tin truyền thông là hai ngành tác động trực tiếp và không thể thiếu đối với các ngành sản xuất cũng chỉ chiếm tỷ lệ 16,92% (giảm 1,1 điểm %); trong khi đó phân ngành bán buôn bán lẻ chiếm tỷ trọng 22,44% (tăng 0,85 điểm %).

2. Tài chính, ngân hàng

2.1. Thu - Chi ngân sách

Tổng thu NSNN trên địa bàn tính đến ngày 15/12/2020 đạt 10.126 tỷ đồng, bằng 80% so với cùng kỳ năm 2019. Trong đó: thu nội địa chiếm 69,81%; thu cân đối hoạt động xuất nhập khẩu chiếm 20,66% và thu khác chiếm 9,53%, tăng 27,75%. Trong điều kiện khó khăn chung do ảnh hưởng nghiêm trọng của đại dịch Covid-19, bên cạnh đó hậu quả do lũ lụt, cháy rừng và dịch bệnh trong sản xuất đã ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh, sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn nhưng với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị thu nội địa tăng 13,20% so với cùng kỳ năm trước góp phần ổn định cân đối ngân sách địa phương trong điều kiện khó khăn chung. Tuy nhiên, do sản lượng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm phôi thép, thép thành phẩm giảm mạnh do giá thép thành phẩm giảm, giá nguyên liệu tiếp tục tăng cao, cùng với ảnh hưởng của dịch Covid-19 và Formosa phải bảo dưỡng sửa chữa lớn đã ảnh hưởng đến hoạt động xuất, nhập khẩu nên tổng thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu chỉ bằng 73,88% so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó, việc hoàn thuế VAT tăng 3,92 lần so với cùng kỳ dẫn đến thu cân đối hoạt động xuất, nhập khẩu giảm 63,02% so với cùng kỳ năm 2019.

Với các giải pháp điều hành linh hoạt, bố trí sắp xếp hợp lý các nhiệm vụ chi nên chi ngân sách địa phương cơ bản đảm bảo tiến độ theo dự toán đầu năm và triển khai kịp thời các nhiệm vụ phát sinh cũng như các nhiệm vụ bổ sung từ nguồn ngân sách Trung ương. Tổng chi NSNN trên địa bàn tính đến ngày 15/12/202 đạt 18.917,1 tỷ đồng bằng 111,36% so với cùng kỳ năm 2019. Trong cơ cấu nguồn chi thì chi đầu tư phát triển chiếm 44,32% tổng chi, tăng 20,66% so với cùng kỳ; chi thường xuyên chiếm 55,60% tổng chi, tăng 5,22% so với cùng kỳ năm 2019.

2.2. Hoạt động ngân hàng

Năm 2020, Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Hà Tĩnh tiếp tục chỉ đạo các TCTD tập trung vào các văn bản chỉ đạo điều hành của Chính phủ, của Ngành và UBND tỉnh có liên quan đến hoạt động ngân hàng năm 2020 và các văn bản chỉ đạo liên quan đến phòng chống, khắc phục hậu quả dịch Covid -19 và lũ lụt năm 2020. Vì vậy, trong thời gian qua hoạt động ngân hàng trên địa bàn vẫn tiếp tục duy trì ổn định và có bước phát triển. Các TCTD trên địa bàn nghiêm túc chấp hành các quy định về điều hành lãi suất, không có hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh, vượt trần. Nhìn chung mặt bằng lãi suất huy động và cho vay trên địa bàn khá ổn định. Nguồn vốn huy động tăng trưởng tốt ước đến cuối năm 2020 đạt 69,7 nghìn tỷ đồng, tăng 23% so với cuối năm 2019, đạt 143,75% so với kế hoạch. Nguồn vốn trung, dài hạn tăng cao và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn (tăng 26,28% so với đầu năm, chiếm 52,09% trong tổng nguồn vốn) đã tạo điều kiện cho các TCTD chủ động nguồn vốn để cho vay tạo điều kiện cho khách hàng tháo gỡ khó khăn và mở rộng sản xuất kinh doanh trong điều kiện phòng chống dịch Covid-19, lũ lụt.. . Dư nợ cho vay ước đến cuối năm 2020 đạt 59,3 nghìn tỷ, tăng 14,25% so với cuối năm. Cơ cấu tín dụng diễn biến tích cực theo hướng mở rộng tín dụng đi đôi với an toàn, chất lượng. Dư nợ tín dụng bằng đồng Việt Nam tăng 16,45% trong khi tín dụng ngoại tệ giảm 50,57% phù hợp với chủ trương chống đô la hóa của nhà nước. Chất lượng tín dụng được cải thiện rõ rệt. Tín dụng chủ yếu tập trung vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên như nông nghiệp, nông thôn; Nghị định 67/NĐ-CP.... Nợ xấu được kiểm soát và dưới mức cho phép (1,17%). Các dịch vụ ngân quỹ, thanh toán tiếp tục được đẩy mạnh, đảm bảo độ chính xác cao và an toàn. Công tác quản lý ngoại hối, vàng của NHNN được triển khai thực hiện nghiêm túc tại địa bàn. Công tác thanh tra, kiểm tra giám sát hoạt động của các TCTD được đẩy mạnh, phát hiện và chỉnh sửa kịp thời các sai sót trong hoạt động nghiệp vụ.

Để tháo gỡ khó khăn cho khách hàng bị thiệt hại do dịch Covid-19, NHNN đã tập trung chỉ đạo thực hiện các hoạt động ứng phó và khắc phục khó khăn liên quan đến dịch. Cụ thể, tính đến ngày 30/11/2020 dư nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ theo Thông tư 01/2020/TT-NHNN là 442,05 tỷ đồng, với 548 khách hàng được cơ cấu. Dư nợ miễn giảm lãi theo Thông tư 01 là 127,87 tỷ đồng cho 234 khách hàng với số lãi giảm 564 triệu đồng; hạ lãi suất dư nợ hiện hữu với dư nợ 8.369 tỷ đồng cho 3.760 khách hàng với số lãi được hạ 18.286 triệu đồng (giảm từ 0,05% đến 3,2%/năm). Các TCTD đã cho vay mới nhằm hỗ trợ khách hàng phục hồi sản xuất kinh doanh với doanh số cho vay là 24.561 tỷ đồng, đối với 7.174 khách hàng (với lãi suất thấp hơn so với trước khi có dịch từ 0.05-0.3%/năm).

Bên cạnh những kết quả đạt được, thì hoạt động ngân hàng trong thời gian qua vẫn còn những tồn tại đó là mặc dù nợ xấu đã giảm so với cuối năm 2019 (nợ xấu cuối năm 2019 chiếm 1,42% tổng dư nợ), tuy nhiên nguồn nợ này chủ yếu tập trung vào các khách hàng có dư nợ lớn, khó xử lý và chưa tìm ra hướng giải quyết.

3. Sản xuất Nông, Lâm nghiệp, Thủy sản

Thực hiện Kế hoạch sản xuất nông nghiệp năm 2020 gặp rất nhiều khó khăn, thách thức đó là: đại dịch Covid-19 tác động sâu rộng đến mọi mặt kinh tế xã hội, trong đó có xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm, thủy sản; dịch tả lợn Châu Phi vẫn còn ảnh hưởng đến tái đàn, tăng đàn; mưa lớn gây ngập lụt trên diện rộng, lốc xoáy, hạn hán kéo dài đã ảnh hưởng đến diện tích, năng suất, sản lượng một số loại cây trồng…Mặc dù vậy, phát huy thuận lợi, vượt qua khó khăn, kết quả sản xuất nông nghiệp năm 2020 vẫn đạt được kết quả khá cao, đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội chung của tỉnh.

3.1. Sản xuất nông nghiệp

a. Cây hàng năm

Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm toàn tỉnh năm 2020 sơ bộ đạt 155.714 ha, bằng 99,28% (giảm 1.130 ha) so với năm 2019. Tổng sản lượng lương thực có hạt cả năm sơ bộ đạt 580.398 tấn, bằng 105,32% (tăng 29.363 tấn) so với năm 2019.

- Cây lúa: Sản xuất vụ Đông Xuân, vụ Hè Thu 2020 nhìn chung đều được mùa, được giá. Tổng diện tích gieo trồng lúa cả năm 2020 sơ bộ tăng 0,31% (tăng 322 ha) so với năm 2019. Vụ lúa Hè Thu diện tích gieo trồng tăng 1,1% (tăng 481 ha). Nguyên nhân tăng diện tích gieo trồng vụ Hè Thu là do sự vào cuộc quyết liệt của các cấp ủy Đảng, chính quyền trong việc vận động, tuyên truyền người dân hạn chế tình trạng bỏ hoang ruộng đất. Vụ lúa Đông Xuân diện tích gieo trồng giảm 0,22% (giảm 133 ha) do chuyển đổi mục đích sử dụng và vụ Mùa diện tích gieo trồng giảm 4,82% (giảm 26 ha) do năng suất thấp nên người dân bỏ ruộng nhiều.

- Năng suất thu hoạch lúa cả năm 2020 sơ bộ tăng 3,12% (tăng 1,56 tạ/ha) so với năm 2019. Vụ Hè Thu năng suất tăng do ít sâu bệnh, nông dân tuân thủ lịch thời vụ nên lúa sinh trưởng và phát triển tốt. Năng suất lúa vụ Đông Xuân và vụ Mùa giảm do một số diện tích thời kỳ lúa trổ gặp điều kiện thời tiết không thuận lợi. Đặc biệt, vụ Đông Xuân do ảnh hưởng một một số loại sâu bệnh đạo ôn lá, bệnh rầy nâu, rầy lưng trắng, bệnh bạc lá đã làm cho năng suất giảm. Tổng sản lượng lúa năm 2020 sơ bộ tăng 5,41% (tăng 27.389 tấn) so với năm 2019. Trong đó: sản lượng lúa Đông Xuân chiếm tỷ trọng 60,92%, giảm 1,75% (giảm 5.793 tấn); sản lượng lúa vụ Hè Thu chiếm tỷ trọng 38,92%, tăng 19,27% (tăng 33.588 tấn) và sản lượng lúa Mùa chiếm tỷ trọng 0,16% tổng sản lượng lúa cả năm, giảm 32,97% (giảm 406 tấn) so với cùng kỳ năm 2019.

Diện tích gieo trỉa các loại cây hàng năm chủ lực khác như ngô, khoai lang, sắn, lạc đều giảm, chỉ có diện tích rau tăng hơn so với năm 2019. Nguyên nhân do đầu vụ Đông mưa kéo dài làm cho đất ướt khó sản xuất đối với một số loại cây, nhiều diện tích chậm tiến độ so với lịch thời vụ nên phải chuyển sang trồng các loại rau và một số cây trồng khác. Mặc dù diện tích gieo trồng giảm nhưng với việc ít sâu bệnh và điều kiện thời tiết thuận lợi thì năng suất các loại cây trồng chủ lực khác năm 2020 như ngô, khoai lang, sắn, rau đều tăng hơn so với năm 2019.

- Tình hình sâu bệnh, thiệt hại: năm nay các đối tượng sâu bệnh vẫn phát sinh gây hại đối với các loại cây trồng nhưng mức độ thiệt hại là không lớn. Đối với lúa vụ Đông Xuân có 796 ha nhiễm bệnh đạo ôn lá, phân bố ở các địa phương như Nghi Xuân, Đức Thọ, thị xã Hồng Lĩnh; có 1.580 ha nhiễm bệnh rầy nâu, rầy lưng trắng (nhiễm nặng 122 ha), tập trung chủ yếu ở huyện Cẩm Xuyên và có 347 ha nhiễm bệnh bạc lá, phân bố tại các địa phương như Lộc Hà, Thạch Hà, Can Lộc, Cẩm Xuyên...Vụ Hè Thu năm nay có phát sinh một số loại sâu bệnh nhưng với mật độ thấp và không gây ảnh hưởng đến năng suất lúa. Đối với các loại cây trồng khác tuy sâu bệnh có phát sinh gây hại nhưng không ảnh hưởng đến năng suất và sản lượng.

- Tiến độ sản xuất vụ Đông 2020: với quan điểm chỉ đạo là bố trí cơ cấu giống cây trồng và thời vụ hợp lý, né tránh thiên tai nhằm tăng năng suất, sản lượng. Tiến độ gieo trồng các loại cây trồng vụ Đông năm 2020 tính đến ngày 15/12/2020 đạt được như sau: Ngô lấy hạt 3.310 ha/3.036 ha, đạt 109,03% kế hoạch; Ngô sinh khối 2.056 ha/2.046 ha, đạt 100,5% kế hoạch; Rau các loại 3.361 ha/4.328, đạt 77,7% kế hoạch; Khoai lang 821 ha/1.422, đạt 57,7% kế hoạch. Hiện nay bà con nông dân đang tích cực chăm sóc các loại cây trồng vụ Đông, tuy nhiên do điều kiện thời tiết diễn biến bất thường, nhất là đợt lũ lụt xẩy ra vào trung tuần tháng 10 nên sản xuất vụ Đông gặp nhiều khó khăn.

- Kế hoạch sản xuất vụ Xuân 2021: mục tiêu sản xuất phấn đấu tổng sản lượng lương thực có hạt đạt trên 35 vạn tấn và diện tích gieo trỉa một số loại cây trồng như sau: diện tích lúa 59.050 ha; Diện tích cây rau đậu thực phẩm 5.277 ha; Diện tích lạc 11.111 ha; Diện tích ngô 4.210 ha; Diện tích khoai lang 1.651 ha; Diện tích đậu các loại 419 ha. Cơ cấu giống lúa chú trọng tăng tỷ lệ các giống năng suất, chất lượng để tăng giá trị hàng hóa góp phần nâng cao chỉ số tăng trưởng, không cơ cấu 01 giống quá 30% diện tích gieo, cấy.

- Về lịch thời vụ: bắc mạ lúa từ 20/12/2020-5/02/2021, thời gian gieo cấy lúa từ 20/01/2021-25/02/2021. Cây lạc phấn đấu kết thúc trong tháng 2/2021; Cây ngô kết thúc trước 20/2/2021; Cây đậu trồng thuần hoặc trồng xen lạc, thời vụ sau 25/2 và kết thúc trước 10/3/2021; Rau các loại phải tranh thủ tối đa thời tiết thuận lợi để triển khai gieo trồng, khuyến khích trồng xen, luân canh, gối vụ để tăng hiệu quả sản xuất trên đơn vị diện tích.

b. Cây lâu năm

Bên cạnh sản xuất cây hàng năm thì việc chăm sóc và trồng mới các loại cây lâu năm cũng đã được quan tâm thực hiện, tổng diện tích cây lâu năm sơ bộ đạt 31.449 ha, bằng 101,28%, tăng 396 ha so với năm 2019. Diện tích trồng mới trong năm đạt 973 ha, chiếm tỷ trọng 3,1% tổng diện tích cây lâu năm hiện có.

- Tổng diện tích cây ăn quả sơ bộ đạt 18.797 ha, chiếm 59,8% tổng diện tích cây lâu năm, bằng 105,37%, tăng 958 ha so với năm 2019. Trong đó, diện tích trồng mới đạt 854 ha, chiếm 4,5% tổng diện tích cây ăn quả hiện có. Sản lượng cây ăn quả sơ bộ đạt 127.588 tấn, bằng 102,02%, tăng 2.521 tấn so với năm 2019. Hiện nay cây cam, bưởi đang được coi là cây ăn quả chủ lực và đang được các địa phương phát động các hộ dân trồng, trong đó tập trung mở rộng diện tích các loại cam bù, cam chanh, cam xã đoài.

- Diện tích cây cao su sơ bộ đạt 8.739 ha, giảm 601 ha so với năm 2019. Do các Công ty cao su thanh lý diện tích kém hiệu quả, chuyển đổi một phần diện tích cao su, đất rừng trồng của các công ty sang cây trồng khác cho hiệu quả cao hơn và chuyển đổi mục đích sử dụng một số diện tích đất để phục vụ cho việc phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Sản lượng mũ cao su ước đạt 3.108 tấn, bằng 116,14%, tăng 432 tấn so với năm 2019. Chất lượng mủ cao su khá tốt, chất lượng đáp ứng theo yêu cầu kỹ thuật.

- Chè búp sơ bộ đạt 1.260 ha, tăng 57 ha so với năm 2019. Chè xanh sơ bộ đạt 1.811 ha, tăng 46 ha so với năm 2019. Năng suất chè búp sơ bộ đạt 82,28 tạ/ha, tăng 5,99 tạ/ha với sản lượng chè búp đạt 7.775 tấn, tăng 307 tấn, bằng 104,11%. Năng suất cây chè xanh sơ bộ đạt 106,47 tạ/ha, giảm 1,67 tạ/ha với sản lượng chè xanh đạt 18207 tấn, tăng 460 tấn. Mô hình trồng chè đã đạt những kết quả khả quan, hiệu quả cao hơn so với trồng các loại cây công nghiệp khác.

c. Chăn nuôi

Đối với chăn nuôi trâu nguồn con giống hạn chế, chi phí đầu tư ban đầu cao hơn các loại vật nuôi khác và điều kiện chăn thả cũng đang ngày càng bị thu hẹp. Chăn nuôi bò nhìn chung ổn định và tiếp tục có bước phát triển. Đã hình thành 846 mô hình chăn nuôi bò thâm canh với quy mô trên 10 con theo hướng hàng hóa; chất lượng đàn tiếp tục được cải thiện, tỷ lệ bò lai Zêbu, bò thịt chất lượng cao chiếm 53% tổng đàn.

Chăn nuôi lợn, từ đầu năm đã tập trung thực hiện đồng bộ, hiệu quả các biện pháp kiểm soát dịch và đạt được những kết quả bước đầu về tăng đàn, tái đàn và tăng sản lượng. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng năm 2020 ước đạt 72,39 nghìn tấn tăng 1,34% so với năm trước. Tuy vậy, những tháng cuối năm, đặc biệt là thời gian sau đợt lũ lụt tháng 10/2020, tình hình bệnh dịch tả lợn Châu Phi diễn biến phức tạp, bùng phát ở các địa phương trong tỉnh, gây rủi ro lớn đến chính sách hỗ trợ chăn nuôi lợn của tỉnh; vì vậy, trong giai đoạn hiện nay không khuyến khích tái đàn, đặc biệt tại các hộ chăn nuôi không đảm bảo tốt các điều kiện an toàn sinh học.

Trong khi chăn nuôi lợn gặp khó khăn thì người dân đã chuyển hướng đầu tư phát triển chăn nuôi gia cầm nên tổng đàn và sản lượng gia cầm trong thời gian qua phát triển tương đối khá.

Tình hình dịch bệnh, thiệt hại: tính từ đầu năm đến ngày 20/12/2020, dịch lở mồm long móng đã xảy ra tại 10 xã thuộc 7 huyện, thị xã (Can Lộc, Hương Sơn, huyện Kỳ Anh, thị xã Hồng Lĩnh, Đức Thọ, Nghi Xuân, Hương Khê), làm cho 132 con gia súc mắc bệnh, hiện còn ổ dịch tại các xã Gia Phố, Hương Vĩnh (huyện Hương Khê) chưa qua 21 ngày. Dịch tả lợn Châu Phi đã xảy ra tại 34 hộ/20 xã của 10 huyện, thành phố, thị xã, buộc phải tiêu hủy là 234 con với trọng lượng 13,5 tấn. Các loại dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm khác không xẩy ra trên đàn gia súc, gia cầm.

Công tác tiêm phòng cho đàn gia súc, gia cầm đã được các địa phương triển khai thực hiện nhưng kết quả đạt được vẫn còn thấp so với kế hoạch, cụ thể: tiêm phòng lở mồm long móng cho đàn trâu, bò 253.524 liều, đạt 81,2% kế hoạch; Bệnh tụ huyết trùng trâu, bò đạt 243.868 liều, đạt 79,6% kế hoạch; Dịch tả lợn 300.263 liều, đạt 79,4% kế hoạch; tụ huyết trùng lợn 300.186 liều, đạt 80,9% kế hoạch; tiêm phòng dại cho chó 120.847 liều, đạt 75,9% kế hoạch và tiêm phòng dịch cúm gia cầm 1,97 triệu liều, đạt 39,8% kế hoạch.

3.2. Lâm nghiệp

- Trồng rừng, chăm sóc và bảo vệ rừng: diện tích trồng rừng tập trung sơ bộ năm 2020 tăng 3,43% (tăng 295 ha) do điều kiện thời tiết thuận lợi cho việc trồng rừng, diện tích rừng được chăm sóc sơ bộ đạt 33.236 ha, bằng 84,81% (giảm 5.952 ha); diện tích rừng được khoanh nuôi tái sinh năm sơ bộ đạt 2.013 ha, bằng 109,7% (tăng 178 ha), diện tích rừng được giao khoán bảo vệ sơ bộ đạt 169.020 ha, bằng 108,55% (tăng 13.310 ha) so với năm trước. Công tác trồng, chăm sóc, nuôi dư­ỡng rừng tiếp tục đư­ợc chú trọng và đầu tư hợp lý, nhằm khôi phục diện tích rừng bị nghèo kiệt. Tuy nhiên, một số diện tích rừng hết thời hạn cần được chăm sóc nên diện tích giảm.

- Trồng cây phân tán: số lượng cây trồng phân tán sơ bộ 2020 giảm 19,46% (giảm 795 ngàn cây) so với năm trước. Trồng cây phân tán chủ yếu được trồng vào các dịp lễ tết và thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới. Tuy nhiên, do quỹ đất ngày càng giảm nên lượng cây trồng phân tán cũng ngày càng có xu hướng giảm.

- Ươm giống cây lâm nghiệp: sơ bộ năm 2020 số lượng cây giống ươm đạt 4.638 ngàn cây, bằng 102,63% (tăng 119 ngàn cây) so với năm 2019. Năm 2020, thời tiết thuận lợi cho công tác ươm giống, cây giống chủ yếu là keo, tràm...Hiện nay, người dân đang tập trung ươm, chăm sóc cây giống để trồng vụ Xuân năm 2021.

- Khai thác, thu nhặt gỗ và lâm sản khác: sản lư­ợng gỗ khai thác sơ bộ tăng 6,71% (tăng 22.805 m3) so với năm trước. Sản lượng gỗ tăng so với năm trước do một số huyện không bị ảnh hưởng nhiều bởi cơn bão số 10 năm 2017, đến nay đã đủ tuổi để khai thác, tập trung chủ yếu ở các huyện như: huyện Kỳ Anh sơ bộ đạt 115.138 m3, Hương Khê sản lượng gỗ sơ bộ đạt 80.500 m3, Vũ Quang sản lượng gỗ sơ bộ đạt 55.686 m3, Hương Sơn sản lượng gỗ sơ bộ đạt 80.940 m3..

Sản lượng củi khai thác sơ bộ đạt 427.798 Ste, bằng 82,41% (giảm 91.282 Ste) so với năm trước do nhu cầu tiêu dùng giảm. Một số huyện có sản lượng khai thác củi lớn như: huyện Thạch Hà sơ bộ đạt 85.230 ste, huyện Kỳ Anh sơ bộ đạt 105.452 ste, Can Lộc sơ bộ đạt 30.000 ste, Nghi Xuân sơ bộ đạt 18.000 ste...

- Thiệt hại rừng: công tác tuần tra, quản lý bảo vệ rừng được tăng cường, từ đầu năm đến nay đã phát hiện và xử lý 189 vụ vi phạm Luật Lâm nghiệp, tịch thu tang vật 164,287 m3 gỗ các loại, 164,4 kg động vật rừng, 3752,7kg lâm sản khác và 24 phương tiện. Năm 2020, toàn tỉnh xảy ra 51 điểm phát lửa, trong đó có 14 điểm gây cháy rừng, diện tích rừng bị cháy 85,67ha, diện tích rừng thiệt hại không có khả năng phục hồi ước tính khoảng 59,7ha (so với năm 2019 giảm 49 điểm phát lửa, giảm 7 vụ cháy, diện tích rừng bị cháy giảm 377,23 ha, diện tích rừng thiệt hại không có khả năng phục hồi giảm 243,25 ha).

3.3. Thủy sản

Kết quả sản xuất thủy sản năm 2020 vẫn ổn định và tiếp tục có bước phát triển khá với sản lượng thủy hải sản khai thác và nuôi trồng sơ bộ tăng 2,7%, tăng 1.440 tấn so với năm 2019, trong đó:

- Sản phẩm thủy sản khai thác: sơ bộ đạt tăng 2,93%, tăng 1.125 tấn so với năm 2019, chiếm 72,07% tổng sản lượng thủy hải sản năm 2020. Sản lượng khai thác cá tăng 1.008 tấn; tôm giảm 93 tấn; thủy sản khác tăng 210 tấn. Ngư dân mạnh dạn đầu tư nâng cấp, cải hoán tàu thuyền, phát triển đội tàu đánh bắt xa bờ, góp phần mở rộng ngư trường khai thác. Các loài cá nổi xuất hiện nhiều ở vùng biển gần bờ nên sản lượng khai thác tăng. Những tháng cuối năm do mưa bão nên ngư trường khai thác gặp khó khăn hơn

- Sản phẩm thủy sản nuôi trồng: sơ bộ tăng 2,1%, tăng 315 tấn so với năm 2019, chiếm 27,93% tổng sản lượng thủy hải sản năm 2020. Trong đó, sản lượng cá giảm 128 tấn; tôm tăng 173 tấn; thuỷ sản khác tăng 270 tấn. Đợt lũ lụt vào trung tuần tháng 10 cũng đã gây thiệt hại đối với hoạt động nuôi trồng.

- Số lượng giống thủy sản: sơ bộ đạt 759 triệu con, giảm 31 triệu con so với năm 2019. Trong đó, số lượng cá giống giảm 11 triệu con; tôm giống giảm 20 triệu con. Tuy con giống chưa đáp ứng hết nhu cầu người nuôi nên phải nhập từ tỉnh khác về Thanh Hóa; Nam Định; Thái Bình; Bến Tre...

- Tình hình dịch bệnh: bệnh đốm trắng và hoại tử gan tụy trên tôm với diện tích 73,1 ha/16 xã/5 huyện. Trong đó: bệnh đốm trắng diện tích 62,25 ha/13 xã/5 huyện; hoại tử gan tụy cấp tính diện tích 10,85 ha/7 xã/3 huyện. Nguyên nhân là do thời tiết thay đổi thất thường, nắng nóng làm cho nhiệt độ chênh lệch, gây biến động các yếu tố môi trường, giảm sức đề kháng của tôm, sinh ra dịch bệnh.

4. Sản xuất công nghiệp

Năm 2020, dịch bệnh Covid-19 bùng phát đã gây ra tác động xấu tới hoạt động sản xuất kinh doanh của tất cả các ngành, các doanh nghiệp, cơ sơ sản xuất kinh doanh cá thể trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh đều gặp phải khó khăn, nhiều ngành, nhiều doanh nghiệp phải giảm sản xuất do không tiêu thụ được sản phẩm. Đặc biệt, Công ty Formosa do giá nguyên liệu vẫn tăng cao, giá thép thành phẩm thấp và nhiều ngày phải ngừng sữa chữa lớn dây chuyền cán nóng nên đã tác động lớn tới hoạt động công nghiệp toàn tỉnh. Cụ thể:

- Ngành công nghiệp năm 2020 có tốc độ tăng giá trị tăng thêm so với cùng kỳ năm trước đạt 1,13% thấp nhất trong vòng 5 năm trở lại đây, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo giữ vai trò chủ chốt trong tăng trưởng kinh tế giảm 2,5%

- Chỉ số sản xuất công nghiệp: Tính chung 12 tháng năm 2020, chỉ số sản xuất ngành công nghiệp tỉnh Hà Tĩnh ước tính giảm 4,83% so với năm 2019. Ngành khai khoáng giảm 6,49%, làm giảm 0,06 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 7,62%, làm giảm 6,06 điểm phần trăm (là ngành đóng góp chủ yếu vào mức tăng giảm toàn ngành công nghiệp); sản xuất và phân phối điện tăng 8,43%, đóng góp 1,42 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải giảm 4,63%, làm giảm 0,13 điểm phần trăm vào mức tăng chung toàn ngành.

- Chỉ số tiêu thụ: Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo dự tính giảm 9,3%, trong đó chỉ có 2 ngành có chỉ số tiêu thụ cộng dồn 12 tháng tăng: sản xuất trang phục tăng 134,32%; in, sao chép các bản ghi tăng 6,39%. Còn lại 12 ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có chỉ số tiêu thụ giảm. Sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 46,54%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic giảm 40,07%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế giảm 39,6%; …

- Chỉ số tồn kho: Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 12 ước tính tăng 37,37% so với tháng trước và tăng 25,76% so cùng kỳ năm trước, trong đó 5 ngành có chỉ số tồn kho tăng, 7 ngành giảm so cùng kỳ năm trước, cụ thể: ngành dệt giảm 86,69%; ngành chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ giảm 63,03%; ngành sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn giảm 61,91%;...

- Về Một số sản phẩm chủ yếu: Sản phẩm công nghiệp chủ yếu năm 2020 chỉ có 7 sản phẩm tăng so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, tăng cao nhất là Quặng Zircon và tinh quặng Zircon tăng 43,79%; thu gom rác thải tăng 15,27%; điện sản xuất tăng 8,18%; Nước uống được tăng 5,22%; song song với việc một số sản phẩm công nghiệp tăng thì trong năm vừa qua đã có đến 14 sản phẩm chủ yếu ngành công nghiệp giảm so với cùng kỳ năm trước. Trong đó một số sản phẩm cộng dồn giảm mạnh như: bê tông trộn sẵn (bê tông tươi) giảm 61,05%; quặng inmenit và tinh quặng inmenit giảm 43,2%; gạch xây dựng bằng đất sét nung (trừ gốm, sứ) giảm 39,83%.

5. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp

- Phát triển doanh nghiệp, hợp tác xã: Đã tập trung chỉ đạo, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc liên quan đến hồ sơ, thủ tục; triển khai các giải pháp đẩy mạnh phát triển doanh nghiệp, kịp thời thông tin, tháo gỡ các khó khăn cho các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh. Ước đến 20/12/2020 toàn tỉnh thành lập mới 943 doanh nghiệp (giảm 7,73% ) và 38 hợp tác xã (tăng 15,15%) so với cùng kỳ năm trước, với tổng số vốn đăng ký đạt 7.393 tỷ đồng, giảm 39,02% so với cùng kỳ năm trước; bình quân doanh nghiệp đăng ký vốn đạt 7,84 tỷ đồng/doanh nghiệp, giảm 6,16 tỷ đồng/doanh nghiệp so với năm 2019.

Song song với số lượng Doanh nghiệp thành lập mới, trong năm qua do tình hình dịch bệnh hết sức phức tạp, ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, cụ thể đã có 401 doanh nghiệp phải giải thể và tạm ngừng kinh doanh, tăng 18,28% so với cùng kỳ, thể hiện các doanh nghiệp vẫn gặp nhiều khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, khó khăn nhất đối với các doanh nghiệp vẫn là thị trường tiêu thụ sản phẩm và giá cả đầu ra trong khi chi phí đầu vào tiếp tục tăng.

- Thu hút đầu tư: Chấp thuận chủ trương 62 dự án, trong đó 61 dự án trong nước với tổng vốn đầu tư đăng ký trên 10.500 tỷ đồng và 01 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư đăng ký 1,5 triệu USD; ngoài ra, điều chỉnh vốn đầu tư 01 dự án FDI từ 1,2 triệu USD lên 32 triệu USD. Mặc dù tổng số dự án chấp thuận chủ trương đầu tư giảm mạnh so với năm 2019 nhưng số vốn đăng ký tăng cao hơn; vốn đầu tư trong nước tăng 2,7%, vốn đầu tư FDI tăng gấp 2,6 lần. Đối với các dự án đã được chấp thuận chủ trương đầu tư, trong điều kiện dịch covid 19 diễn biến phức tạp, gặp nhiều khó khăn, nhưng một số dự án lớn vẫn có tiến độ triển khai tốt như bệnh viện TTH Hà Tĩnh, nhà máy chế biến gỗ An Việt Phát, nhà máy điện mặt trời Cẩm Hưng, nhà máy may Hanvina, nhà máy may Apatech Đức Thọ.

Nhìn chung, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn trong năm 2020 tuy còn gặp nhiều khó khăn nhưng vẫn là thành phần chủ lực đóng góp vào tăng trưởng kinh tế chung của tỉnh.

- Dự báo xu hướng sản xuất kinh doanh năm 2021: Năm 2021, các doanh nghiệp nhận định sản xuất kinh doanh có xu hướng tăng lên. Trong đó:

+ Về khối lượng sản xuất ngành chế biến, chế tạo năm tiếp theo có xu hướng tăng lên chiếm tỷ trọng lớn (75% doanh nghiệp). Tỷ lệ doanh nghiệp dự báo vẫn giữ nguyên là 18,18% và chỉ có 6,82% doanh nghiệp cho rằng năm tiếp theo khối lượng sản xuất ngành chế biến, chế tạo sẽ giảm đi so với hiện tại.

+ Về số lượng đơn đặt hàng mới ngành chế biến chế tạo năm tiếp theo tăng lên chiếm tỷ trọng lớn nhất (65,91%), trong khi đó dự báo xu hướng giảm đi chỉ chiếm 6,82%. Tuy nhiên, số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới sẽ chững lại và giữ nguyên trong năm tiếp theo. Các doanh nghiệp dự báo giữ nguyên số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu chiếm tỷ lệ cao (58,33%). Điều này cho thấy trước tình hình dịch bệnh đang diễn ra trên thế giới, số lượng hàng hóa sản xuất cho tiêu thụ trong nước tăng nhưng xuất khẩu ra nước ngoài giảm do các nước vẫn đang chịu ảnh hưởng của dịch bệnh nên hạn chế số lượng đặt hàng xuất khẩu mới ngành công nghiệp chế biến, chế tạo.

+ Về dự báo số lượng lao động năm tiếp theo vẫn tiếp tục giữ nguyên nhằm ổn định sản xuất của doanh nghiệp. Tỷ lệ doanh nghiệp dự báo giữ nguyên số lao động trong năm tiếp theo chiếm đến 68,18% doanh nghiệp, trong khi đó tỷ lệ doanh nghiệp dự báo sẽ tăng lao động chiếm 25% và chỉ có 6,82% tỷ lệ doanh nghiệp cho rằng sẽ giảm số lượng lao động.

6. Đầu tư và xây dựng

6.1. Đầu tư phát triển

Dự ước tổng vốn đầu tư thực hiện năm 2020 trên địa bàn toàn tỉnh đạt 26.075,4 tỷ đồng, bằng 100,5% so với năm 2019. Trong đó: vốn Nhà nước trên địa bàn ước đạt 7.867,4 tỷ đồng, tăng 32,72% so với năm trước, chiếm 30,17% tổng vốn; vốn ngoài Nhà nước ước đạt 14.664,7 tỷ đồng, bằng 99,03% so với cùng kỳ năm trước, chiếm 56,24% tổng vốn; vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài ước đạt 3.543,3 tỷ đồng, bằng 68,01% so với năm trước, chiếm 13,59% tổng vốn. Mặc dù nguồn vốn nhà nước trên địa bàn có tăng mạnh trên (32,72%) so với năm trước, song do cơ cấu nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn và dòng nguồn vốn này tiếp tục giảm trong năm 2020 khi các dự án lớn giai đoạn II tại Formosa chưa được triển khai do đó ảnh hưởng rất lớn đến việc tăng tổng vốn nguồn vốn đầu tư toàn xã hội.

Về thực hiện vốn đầu tư công, tổng giá trị giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công dự ước tăng 32,72% so với năm trước. Để thực hiện giải ngân vốn đầu tư công, UBND tỉnh đã ban hành Chương trình hành động số 296/CTr-UBND ngày 31/7/2020 về đẩy nhanh tiến độ thực hiện, giải ngân vốn đầu tư công năm 2020. Bên cạnh đó nguồn vốn ngân sách cũng như các chương trình mục tiêu của Chính phủ tăng mạnh so với năm trước (tăng 46%).

Đối với các dự án ngoài Nhà nước đã được chấp thuận chủ trương đầu tư, trong điều kiện dịch Covid 19 diễn biến phức tạp, gặp nhiều khó khăn nhưng một số dự án lớn vẫn có tiến độ triển khai tốt như: Bệnh viện TTH Hà Tĩnh; nhà máy chế biến gỗ An Việt Phát; nhà máy điện mặt trời Cẩm Hưng; nhà máy may Hanvina; nhà máy may Apatech Đức Thọ. Tuy nhiên, cũng do dịch bệnh ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế toàn xã hội, các doanh nghiệp đầu tư sửa chữa cũng như mua sắm cơ sở vật chất giảm mạnh. Do đó, nguồn vốn khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước giảm 15,29% so với năm 2019.

Nguồn vốn khu vực hộ dân cư dự ước đạt 10.312,5 tỷ đồng, tăng 6,93% so với năm trước. Nguyên nhân do nguồn vốn đầu tư hộ dân cư chủ yếu là xây dựng nhà cửa, năm nay lực lượng lao động cá thể tăng mạnh do đó khối lượng thi công đạt cao.

6.2. Xây dựng

Năm 2020, mặc dù nguồn vốn ngân sách tỉnh đầu tư trên địa bàn tăng 46% so với năm trước. Một số dự án lớn do doanh nghiệp ngoài nhà nước, nước ngoài đầu tư trên địa bàn như Dự án Nhà máy bia Hồng Lĩnh (gần 1.200 tỷ), dự án nhà máy sản xuất lâm sản An Việt Phát (380 tỷ); Dự án nhà máy gỗ Thanh Thành Đạt tăng nguồn vốn từ 1.485 tỷ lên 1.785 tỷ; Dự án nhà máy điện mặt trời Cẩm Xuyên (550 tỷ)... Tuy nhiên, hoạt động xây dựng trên địa bàn gặp khó khăn do dịch bệnh Covid-19 diễn ra trong thời gian dài. Tháng 4, các hoạt động xây dựng tạm ngừng hoặc giãn thi công do giãn cách xã hội, tháng 10 mưa lớn ngập úng trên diện rộng. Do vậy Giá trị tăng thêm theo giá so sánh của ngành xây dựng năm 2020 ước đạt 3.895,6 tỷ đồng, giảm 2,24% so với năm 2019, đóng góp -0,19 điểm phần trăm trong mức tăng chung của toàn ngành.

7. Bán lẻ hàng hóa, hoạt động của các ngành dịch vụ

- Tổng mức bán lẻ hàng hoá tháng 12/2020 tăng khá so với tháng trước (tăng 4,57%) và so với cùng kỳ năm trước (tăng 5,44%). Ước cả năm 2020 tăng 3,7% so năm trước, nhưng thấp hơn mức tăng 9% của năm 2019. Nhìn chung, thị trường cung cầu hàng hóa trên địa bàn tỉnh vẫn duy trì mức tăng trưởng ổn định, không có sự đột biến xẩy ra. Hiện nay, dịch tả lợn Châu Phi đang diễn biến phức tạp, ảnh hưởng lớn đến sản xuất và tiêu dùng, nguy cơ tăng giá rất cao. Để góp phần đảm bảo cung cầu trong dịp cuối năm 2020 và Tết Nguyên Đán, Sở Công thương đã yêu cầu các doanh nghiệp, địa phương báo cáo tình hình dự trữ hàng hóa; nắm bắt nhu cầu tiêu dùng của người dân để triển khai kế hoạch cụ thể dự trữ hàng hóa thiết yếu, phục vụ người dân trong dịp Tết; kiểm soát chặt chẽ về chất lượng hàng hóa, bình ổn giá cả thị trường, tránh tình trạng khan hàng, sốt giá, nhất là nhóm mặt hàng thực phẩm tươi sống (thịt bò, thịt lợn và thịt gà).

- Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống: Năm 2020 dự tính đạt 4.284,13 tỷ đồng, giảm 20,9% so năm trước. Trong đó: Dịch vụ Lưu trú dự tính đạt 201,76 tỷ đồng (chiếm 4,71%) tổng doanh thu, giảm 37,72%; Dịch vụ ăn uống dự tính 4.082,37 tỷ đồng (chiếm 95,29%) tổng doanh thu, giảm 19,86% so với năm trước.

- Doanh thu Dịch vụ Lữ hành và hoạt động hỗ trợ du lịch dự tính đạt 11,56 tỷ đồng, (chiếm 0,27%) tổng doanh thu, giảm 55,33% so với năm trước. Mặc dù trong năm vừa số doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh cá thể tham gia trong linh vực dịch vụ này có tăng về số lượng, quy mô, chất lượng dịch vụ ngày càng được nâng lên, song do dịch Covid-19 diễn biến phức tạp làm hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các ngành, nhất là ngành dịch vụ du lịch, lưu trú đã làm giảm sâu so với năm trước.

- Hoạt động dịch vụ khác: Ước cả năm 2020, doanh thu hoạt động dịch vụ khác đạt 1.501,16 tỷ đồng, giảm 9,06% so với năm 2019, đây là năm giảm lớn nhất trong nhiều năm trở lại đây. Trong đó: doanh thu dịch vụ kinh doanh bất động sản ước đạt 197,96 tỷ đồng (giảm 3,51%); hành chính và dịch vụ hỗ trợ ước đạt 345,84 tỷ đồng (giảm 5,54%); giáo dục đào tạo ước đạt 31,15 tỷ đồng (giảm 3,83%); Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội ước đạt 177,36 tỷ đồng (tăng 4,11%); nghệ thuật, vui chơi và giải trí ước đạt 155,02 tỷ đồng (giảm 27,16%); sửa chữa máy vi tính, đồ dùng cá nhân và gia đình ước đạt 174,33 tỷ đồng (giảm 4,05%); dịch vụ khác ước đạt 419,50 tỷ đồng (giảm 10,71%) so với năm trước.

- Hoạt động dịch vụ Vận tải, kho bãi năm 2020 ước đạt 5.169,07 tỷ đồng, giảm 7,7% so với năm trước. Trong đó:

+ Doanh thu vận tải hành khách ước đạt 1.698,84 tỷ đồng, giảm 13,69% so với năm trước. Sản lượng vận chuyển hành khách ước đạt 21.174,2 nghìn HK, giảm 15,85% so với năm trước; luân chuyển ước đạt 3.799.661,5 nghìn HK.km, giảm 14,55% so với năm trước.

+ Doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 2.872,19 tỷ đồng, giảm 8,22% so với năm trước. Khối lượng hàng hóa vận tải dự tính đạt 32.710,6 nghìn tấn, giảm 8,8% so với năm trước; luân chuyển ước đạt 874.663,7 nghìn tấn.km, giảm 6,99% so với năm trước.

+ Doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 598,04 tỷ đồng, tăng 19,01% so với năm trước.

Nhìn chung, kết quả hoạt động bán lẽ, kinh doanh các ngành dịch vụ, dịch vụ khác trong năm 2020 giảm mạnh so với năm 2019. Nguyên nhân do từ đầu năm 2020 đến nay, sự bùng phát của đại dịch Covid -19 đã ảnh hưởng toàn diện, sâu rộng và tiếp tục có diễn biến phức tạp, khó lường, tình hình kinh tế - xã hội gặp nhiều khó khăn. Cùng với đó, sự biến đổi khí hậu, thiên tai lũ lụt, mưa bão, ngập úng diễn ra liên tiếp trong thời gian qua, làm cho các hoạt động sản xuất phát triển kinh tế đều bị ngừng trệ, các thành phần kinh tế gặp vô vàn khó khăn, lực lượng lao động mất việc làm tăng, nguyên liệu sản xuất đầu vào thiếu, một số doanh nghiệp phải cắt giảm lao động, nhu cầu tiêu dùng hàng hóa giảm mạnh, đời sống của Nhân dân gặp rất nhiều khó khăn. Trước tình hình đó, Chính phủ cũng đã đưa ra các phương án, giải pháp, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp. Thực hiện các chính sách, giải pháp phát triển bền vững, tạo cơ sở phát triển mô hình, tổ chức sản xuất kinh doanh mới. Triển khai thực hiện các định hướng, nhiệm vụ, giải pháp mà tỉnh đưa ra, tập trung khắc phục những khó khăn do đại dịch Covid -19 và mưa bão, lũ lụt gây ra, nhằm thực hiện được mục tiêu kép là vừa phòng chống được dịch bệnh Covid-19 vừa phát triển kinh tế - xã hội.

8. Chỉ số giá tiêu dùng

Năm 2020 do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, chiến tranh thương mại Mỹ - Trung kéo dài, cùng với đó là tình hình thiên tai diễn biến phức tạp. Giá các loại lương thực, thực phẩm tăng cao đã ảnh hưởng đến đời sống người dân. Tháng 12 năm 2020, chỉ số CPI chung tăng nhẹ 0,02% so với tháng trước, tăng 0,11% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: khu vực thành thị tăng 0,01% so với tháng trước và so với cùng kỳ năm trước tăng 1,07%; Khu vực nông thôn tăng 0,03% so với tháng trước và giảm 0,34% so với cùng kỳ năm trước. Trong 8 nhóm hàng hóa và dịch vụ có 4 nhóm có chỉ số giá ổn định so với tháng trước gồm: Đồ dùng gia đình; May mặc, mũ nón, dày dép; Bưu chính viễn thông và nhóm hàng hóa dịch vụ khác. Có 02 nhóm hàng giảm so với tháng trước đó là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống (giảm 1,32%) và Chỉ số giá vàng (giảm 0,49%). Còn lại 2 nhóm hàng hóa có chỉ số giá tăng so với tháng trước là: Nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng (tăng 1,25%); Giao thông tăng 1,82%

*Một số yếu tố chính tác động đến thị trường tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ trong tháng 12/2020.

- Giá thịt lợn hơi tiếp tục giảm do ảnh hưởng bởi dịch bệnh tả châu Phi bùng phát trở lại trên địa bàn, ảnh hưởng đến tâm lý người chăn nuôi và người tiêu dùng.

- Do yếu tố thời tiết chuyển rét đậm, tác động đến nhu cầu và giá cả nhóm hàng may mặc, đồ dùng gia đình, điện và nước sinh hoạt.

- Giá gas, xăng, dầu các loại được điều chỉnh theo xu hướng biến động thị trường thế giới.

- Ảnh hưởng của thị trường thế giới cùng với nhu cầu sử dụng vật liệu xây dựng tăng nhằm để sửa chữa, khắc phục những thiệt hại sau các đợt mưa lũ đầu quý 4 cũng như các công trình được đẩy nhanh tiến độ thi công vào dịp cuối năm nên đã tác động làm cho giá cả các loại sắt, thép bán ra trên địa bàn tỉnh tăng.

*Tính chung CPI cả năm 2020, chỉ số giá bình quân năm 2020 bằng 103,45% (tăng 3,45%) so với bình quân năm 2019. Trong đó: khu vực thành thị tăng 4,18%; Nông thôn tăng 3,01%.

Phân theo nhóm ngành hàng: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 8,40%; Đồ uống và thuốc lá tăng 2,67%; May mặc, mũ nón, giày dép tăng 3,85%; Nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 4,19%; Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,9%; Thuốc và dịch vụ y tế tăng 1,51%; Giao thông giảm 11,28%; Bưu chính viễn thông giảm 0,95%; Giáo dục tăng 5,12%; Văn hoá, giải trí và du lịch giảm 0,01%; Hàng hóa và dịch vụ khác tăng 2,39% so với bình quân năm 2019.

*Dự kiến CPI tháng 01/2021

Chỉ số giá bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tháng 01/2021 dự kiến có khả năng tăng mạnh so tháng 12. Giá cả nhiều nhóm hàng hóa như lương thực, thực phẩm, đồ dùng gia đình, vật liệu xây dựng, hàng may mặc có thể tăng giá vào thời điểm cuối tháng, khi mà dịp Tết Nguyên đán đến gần. Giá thịt gia súc, gia cầm có thể tăng trở lại khi dịch bệnh được kiểm soát và nguồn cung bị ảnh hưởng do các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ hạn chế xuất bán, chờ dịp Tết Nguyên đán sắp tới. Trong khi đó, giá điện, nước sinh hoạt dự kiến giảm trong tháng tới khi nhu cầu tiêu dùng dự kiến giảm và chính sách giảm giá điện của Chính phủ được áp dụng.

Công tác kiểm tra quản lý giá, bình ổn thị trường thương mại trong những tháng cuối năm được các cấp các ngành quan tâm hơn. Để bảo đảm nguồn hàng hóa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân trong dịp Tết Nguyên đán, các siêu thị lớn, doanh nghiệp trên địa bàn Hà Tĩnh đang có sự chuẩn bị về nguồn hàng cũng như đưa ra nhiều chương trình kích cầu, bình ổn giá…Bên cạnh đó, các ngành chức năng tăng cường kiểm soát chất lượng hàng hóa, vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường, quản lý thị trường, chống đầu cơ, buôn lậu, gian lận thương mại; đảm bảo nhu cầu hàng hóa, nhất là đối với những mặt hàng thiết yếu, các dịch vụ công thông suốt để phục vụ đời sống cũng như sử dụng hợp lý quỹ bình ổn giá để bình ổn thị trường trong dịp Tết Nguyên đán sắp tới.

9. Các vấn đề xã hội

9.1. Dân số, lao động và việc làm

Dân số trung bình năm 2020 ước tính 1.296.622 người, tăng 0,49% so với năm 2019 (tăng 6.359 người). Trong đó: Dân số thành thị 287.766 người, chiếm 22,19%; dân số nông thôn 1.008.856 người, chiếm 77,81%; dân số nam 642.159 người, chiếm 49,53% và dân số nữ 654.463 người, chiếm 50,47%.

Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên năm 2020 ước khoảng 715.476 người, chiếm 55,18% dân số toàn tỉnh, tăng 1,17% so với năm 2019; trong đó lực lượng lao động nam 349.750 người (chiếm 48,88% trong tổng số lượng lao động từ 15 tuổi trở lên); lực lượng lao động thuộc khu vực thành thị 158.262 người (chiếm 22,12% lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên).

Lao động 15 tuổi trở lên đang làm việc năm 2020 ước tính 694.050 người, chiếm 97,01% trong tổng số lực lượng lao động 15 tuổi trở lên, trong đó: lao động làm việc trong lĩnh vực Nông, lâm nghiệp, thủy sản chiếm 50,63% trong tổng số (tương ứng 351.376 người), giảm 0,44 điểm phần trăm so năm trước; Công nghiệp - Xây dựng chiếm 18,77% (tương ứng 130.246 người), tăng 0,62 điểm phần trăm; Thương mại - Dịch vụ chiếm 30,61% (tương ứng 212.428 người), giảm 0,18 điểm phần trăm.

Ước tính năm 2020, Hà Tĩnh đã giải quyết việc làm cho 19.893 lao động, giảm 19,73% so với năm 2019, trong đó: Lao động được giải quyết việc làm thông qua các chương trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh 12.240 người, tăng 3,2%; xuất khẩu lao động 4.803 người, giảm 49,89%; lao động đi làm việc ngoại tỉnh 2.850 người, giảm 14,67%.

9.2. Đời sống dân cư và bảo đảm an sinh xã hội

- Đời sống dân cư: Thời gian qua, tuy ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, nhưng nhờ sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, sự nỗ lực phấn đấu của Nhân dân trong phòng chống dịch, cũng như công tác hỗ trợ người dân, nên đời sống dân cư năm 2020 vẫn giữ vững ổn định so với năm trước. Ngoài ra, tính đến 15/12/2020 Hà Tĩnh đã thực hiện chi trả tiền hỗ trợ theo Nghị quyết 42 của Chính phủ cho 177.349 đối tượng với kinh phí 238,43 tỷ đồng (đối tượng người có công với cách mạng, bảo trợ xã hội, hộ nghèo, cận nghèo; đối tượng là hộ kinh doanh và lao động bị mất việc làm). Vì vậy, tính từ đầu năm đến ngày 15/12/2020, trên địa bàn Hà Tĩnh không xảy ra thiếu đói và dự kiến trong tháng tới tình hình thiếu đói cũng không xảy ra.

- Công tác giảm nghèo: Với sự quyết tâm chính trị nhằm hướng đến mục tiêu giảm nghèo bền vững, đảm bản an sinh xã hội, Hà Tĩnh đã hạn chế thấp nhất tình trạng tái nghèo (tỷ lệ tái nghèo bình quân hàng năm xấp xỉ 1,5% so với tổng số hộ nghèo); tạo điều kiện hỗ trợ những hộ nghèo có khả năng vươn lên thoát nghèo bền vững; hỗ trợ về thu nhập cho cho hộ nghèo thuộc chính sách bảo trợ xã hội để họ có mức sống trên chuẩn nghèo. Theo kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo cuối năm 2020 của tỉnh, tỷ lệ giảm nghèo Hà Tĩnh đã đạt được kết quả đáng ghi nhận, đến nay tỷ lệ hộ nghèo là 3,51% (gồm 13.412 hộ, với 26.990 khẩu), giảm 1,02 điểm phần trăm so với năm 2019; tỷ lệ hộ cận nghèo là 4,31% (gồm 16.462 hộ, với 50.219 khẩu), giảm 0,75 điểm phần trăm.

- Công tác đảm bảo an sinh xã hội: đến nay, toàn tỉnh trao tặng khoảng 475.242 suất quà trị giá khoảng 144,42 tỷ đồng, trong đó: tặng quà cho người có công khoảng 287.580 suất trị giá 61,055 tỷ đồng; quà cho hộ nghèo 75.097 suất, kinh phí 34,766 tỷ đồng; quà cho người cao tuổi 54.767 suất, kinh phí 16,051 tỷ đồng; quà cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn 13.198 suất, kinh phí 6,299 tỷ đồng; quà đối tượng bảo trợ xã hội và các đối tượng khác 44.600 suất, kinh phí 26,249 tỷ đồng. Cấp khoảng 28.570 thẻ bảo hiểm y tế cho hộ nghèo, 49.048 thẻ bảo hiểm y tế cho hộ cận nghèo, 144.358 thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi và 59.798 thẻ bảo hiểm y tế cho người có công. Công tác đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn tỉnh triển khai kịp thời; các cấp, các ngành làm tốt công tác huy động nguồn lực, tổ chức thăm hỏi, tặng quà cho người có công, đối tượng bảo trợ xã hội và các đối tượng khác kịp thời, chu đáo.

9.3. Giáo dục, đào tạo

- Giáo dục phổ thông: Trên cơ sở những kết quả đạt được, năm học 2020-2021 ngành Giáo dục và Đào tạo Hà Tĩnh tập trung đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, hoàn thành các điều kiện để triển khai chương trình sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới. Năm học 2020-2021, toàn tỉnh có 667 trường, giảm 35 trường so với năm học 2019-2020 (gồm 254 trường mầm non, giảm 11 trường; 221 trường tiểu học, giảm 20 trường; 147 trường THCS, giảm 4 trường; 45 trường THPT, không thay đổi) với 10.400 lớp (mẫu giáo 2.804 lớp, tiểu học 4.030 lớp, THCS 2.366 lớp, THPT 1.200 lớp) và 18.005 giáo viên (mầm non 5.254 người, tiểu học 5.375 người, THCS 4.599 người, THPT 2.777 người) và 322.636 học sinh (nhà trẻ, mẫu giáo 79.237 em, tiểu học 121.205 em, THCS 78.464 em và THPT 43.730 em).

- Giáo dục đào tạo: Năm học 2020-2021, chỉ tiêu tuyển sinh vào các trường Đại học Hà Tĩnh hệ chính quy là 1.430 học sinh, trong đó: Hệ Đại học 1.380 chỉ tiêu, hệ Cao đẳng 50 chỉ tiêu. Cùng với sự phát triển của giáo dục chuyên nghiệp, chất lượng dạy nghề ngày càng được nâng cao. Các cơ sở đào tạo luôn quan tâm chú trọng công tác giới thiệu, giải quyết việc làm cho học sinh, sinh viên sau khi tốt nghiệp. Mở thêm các ngành nghề mới đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động, có định hướng, khảo sát tiềm năng và tính bền vững của nghề đào tạo. Năm 2020, Hà Tĩnh có 23 cơ sở giáo dục nghề nghiệp, trong đó có 4 trường cao đẳng, 1 phân hiệu của trường cao đẳng, 4 trường trung cấp, 10 trung tâm GDNN-GDTX cấp huyện, 4 cơ sở dạy nghề khác. Tính đến ngày 10/12/2020, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh đã tổ chức đào tạo nghề cho khoảng 4.313 người, trong đó: trình độ cao đẳng 35 người, trình độ trung cấp 806 người; trình độ sơ cấp và đào tạo thường xuyên 3.472 người.

9.4. Hoạt động Y tế

Năm 2020, ngành Y tế Hà Tĩnh đã thực hiện tốt công tác phòng, chống dịch bệnh, an toàn vệ sinh thực phẩm; bảo đảm công tác khám chữa bệnh, cấp cứu và điều trị ở bệnh viện các tuyến. Đồng thời, tăng cường và duy trì giám sát bệnh truyền nhiễm tại tất cả các tuyến nhằm phát hiện sớm trường hợp mắc mới để có biện pháp khống chế kịp thời, không để dịch lớn xảy ra, không có tử vong do dịch bệnh. Nhờ vậy, chất lượng phục vụ từng bước được cải thiện, ngày càng tạo được niềm tin và sự hài lòng của nhân dân.

- Tình hình dịch bệnh: Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh không có bệnh nhân bị nhiễm Covid-19, cộng dồn tổng số bệnh nhân nhiễm Covid -19 là 4 người, tất cả các ca trên đã điều trị khỏi, bệnh nhân cuối cùng được điều trị khỏi bệnh là ngày 7/5/2020. Ngoài ra, còn có 5 người cách ly tại cơ sở y tế (Bệnh viện đa khoa huyện Cẩm Xuyên và Bệnh viên đa khoa tỉnh Hà Tĩnh); 413 người cách ly tại địa điểm tập trung (392 người tại Khu ký túc xá Mitraco; 17 người tại Khu nhà F – Công ty FHS; 04 người tại Khu cách ly Khách sạn Hữu Tình, huyện Cẩm Xuyên), cộng dồn cách ly tập trung toàn tỉnh là 15.261 người; 105 người cách ly và theo dõi tại nhà, cộng dồn toàn tỉnh có 19.739 người.

Ngoài dịch bệnh Covid-19, năm 2020 trên địa bàn Hà Tĩnh đã ghi nhận 3 ổ dịch xuất huyết Dengue (gồm 25 ca) và 2 ổ dịch thủy đậu (gồm 17 ca); tất cả các ổ dịch đều không có bệnh nhân tử vong. Ngoài các ổ dịch trên còn có 64 trường hợp sốt xuất huyết, 266 trường hợp sốt rét, 175 trường hợp mắc lỵ trực trùng, 258 trường hợp mắc lỵ a míp, 126 trường hợp mắc quai bị, 636 trường hợp mắc thủy đậu, 108 trường hợp mắc bệnh chân tay miệng và 45 trường hợp mắc bệnh viêm gan siêu vi trùng. Tất cả đều là ca mắc đơn lẻ và không có trường hợp nào tử vong.

- Công tác phòng chống HIV/AIDS: Hà Tĩnh đã khống chế tỷ lệ lây nhiễm HIV/AIDS trong cộng đồng dân cư ở mức 0,14% (dưới 0,15% theo nghị quyết) và đạt mục tiêu 3 giảm: "Giảm số người nhiễm mới HIV, giảm số người chuyển sang giai đoạn AIDS và giảm số người tử vong do AIDS”, qua đó giảm tác động của HIV/AIDS đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, an ninh và trật tự an toàn xã hội. Nghị quyết đã cung cấp nguồn lực để đẩy mạnh và đa dạng hóa các hình thức truyền thông trong Nhân dân, nhất là những nhóm đối tượng có nguy cơ cao dễ lây nhiễm HIV. Hiện mỗi năm ngành y tế tổ chức tư vấn, xét nghiệm HIV từ 3.500 - 6.000 mẫu. Có 87% bệnh nhân được điều trị ARV. Năm 2020, Hà Tĩnh có 75 trường hợp nhiễm mới HIV (giảm 3 trường hợp so với năm trước), 70 trường hợp chuyển thành AIDS (giảm 2 trường hợp so với năm trước) và có 9 trường hợp chết vì AIDS (giảm 1 trường hợp so với năm trước).

- Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm: An toàn vệ sinh thực phẩm là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng trong sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân. Năm 2020, trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh xảy ra 3 vụ ngộ độc thực phẩm với 1.173 ca ngộ độc (24 ca ngộ độc tập thể, 1.149 ca đơn lẻ), không có người chết vì ngộ độc. 3 vụ ngộ độc tập thể đó là: 1 vụ xẩy ra xã Cẩm Dương, huyện Cẩm Xuyên làm 9 người bị ngộ độc, nghi ngờ do vi sinh vật; 1 vụ ở xã Kỳ Lạc, huyện Kỳ Anh làm 6 người bị ngộ độc do ăn canh nấm, 1 vụ ngộ độc xảy ra tại bếp ăn bán trú thuộc xã Trường Sơn, huyện Đức Thọ với 9 ca ngộ độc do nghi ngờ vi sinh vật. So với năm 2019 giảm 1 vụ ngộ độc, giảm 507 ca ngộ độc (giảm 62 ca ngộ độc tập thể, giảm 445 ca ngộ độc đơn lẻ).

9.5. Hoạt động văn hóa - thể thao

- Hoạt động văn hóa: do ảnh hưởng dịch bệnh Covid-19, nhiều hoạt động vui chơi, giải trí, hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh phải đóng cửa, tạm ngừng hoạt động, nên hoạt động văn hóa năm 2020 không sôi động và rất trầm lắng. Năm 2020, Hà Tĩnh chủ yếu tập trung chỉ đạo đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Hoạt động văn hóa ở Hà Tĩnh nổi bật với hoạt động như “ Mừng Đảng- mừng Xuân Kỷ Hợi” năm 2020, kỷ niệm ngày Giải phóng Miền Nam (30/4), ngày Quốc tế lao động, kỷ niệm 60 năm ngày mở đường Hồ Chí Minh, ngày truyền thống bộ đội Trường Sơn (19/5/1959 - 19/5/2020) hay lễ kỷ niệm 72 năm ngày Thương binh Liệt sỹ như lễ thắp nến, dâng hoa, tri ân các anh hùng liệt sỹ tại nghĩa trang và đài tưởng niệm tại tất cả các huyện, thị trong toàn tỉnh như tại nghĩa trang Liệt sỹ Núi Nài (thành phố Hà Tĩnh) với hơn 1.500 đoàn viên thanh niên, thân nhân gia đình liệt sỹ và người dân...

- Công tác kiểm tra, thanh tra văn hóa: Năm 2020, Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thực hiện 06 cuộc thanh tra, kiểm tra, kiểm tra trên 100 cơ sở kinh doanh. Cấp 192 giấy phép, trong đó có 31 giấy phép thuộc lĩnh vực du lịch; 7 giấy phép thuộc lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn; 141 giấy phép thuộc lĩnh vực Văn hóa cơ sở; 07 giấy phép thuộc lĩnh vực thể dục thể thao, 06 cái thuộc lĩnh vực còn lại.

- Hoạt động thể thao: Hoạt động thể thao quần chúng ngày càng sôi nổi, với nhiều hình thức phong phú, đa dạng; đồng thời gắn với các phong trào thi đua yêu nước thường xuyên được duy trì và tạo sức lan tỏa trong các tầng lớp nhân dân. Cùng với đó, thể thao thành tích cao năm 2020, Hà Tĩnh Tham gia 31 giải thành tích cao, kết quả đạt: 147 HC (67V-32B-48Đ ), trong đó môn điên kinh tham gia 5 giả đạt 44 HC (24HCV, 8HCB, 12HCĐ), Muay tham gia 2 giải đạt 3 huy chương (1HCB, 2HCĐ), Đua Thuyền tham gia 4 giải đạt 21 huy chương (13V, 4B, 4Đ)…

9.6. Tình hình an toàn giao thông

Tính từ ngày 15/11/2020 đến ngày 14/12/2020, trên địa bàn Hà Tĩnh xảy ra 18 vụ tai nạn giao thông, làm chết 11 người, bị thương 18 người, trong đó có 17 vụ tai nạn giao thông đường bộ, 10 người chết, 18 người bị thương, 1 vụ tai nạn đường sắt, 1 người chết tại huyện Đức Thọ. Nguyên nhân xảy ra tai nạn là không làm chủ tốc độ và đi sai phần đường do lái xe sử dụng rượu bia quá mức quy định.

Như vậy, tính từ 15/12/2019 đến 14/12/2020 trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh đã xẩy ra 124 vụ tai nạn giao thông, 103 người chết, 64 người bị thương so với năm 2019 số vụ tai nạn giao thông đã giảm 2 vụ (giảm 1,58%), giảm 7 người chết (giảm 3,74%), giảm 15 người bị thương (giảm 18,98%), trong đó: tai nạn giao thông đường bộ 123 vụ, 102 người chết, 64 người bị thương; tai nạn đường sắt xảy ra 1 vụ ,1 người chết.

9.7. Tình hình thiên tai

Năm 2020, trên địa bàn Hà Tĩnh đã xảy ra 11 đợt thiên tai (đợt 1 vào ngày 11/5/2020; đợt 2 vào ngày 17/5/2020; đợt 3 vào ngày 13/6/2020; đợt 4 vào ngày 02/8/2020; đợt 5 vào ngày 26/8/2020; đợt 6 vào ngày 13/9/2020; đợt 7 vào ngày 17-19/9/2020; đợt 8 vào ngày 07-11/10/2020; đợt 9 vào ngày 16-20/10/2020; đợt 10 vào ngày 28-31/10/2020; đợt 11 vào ngày 14-16/11/2020). Thiên tai đã gây thiệt hại làm 7 người chết, 51 người bị thương; 8 nhà bị sập, 4.565 nhà bị hư hỏng; 1520,4 ha lúa, 4.598,4 ha hoa màu, 2.154 ha cây trồng hằng năm, 836,05 ha cây trồng hằng năm, 480,9 ha rừng, 2.304 ha cây ăn quả bị đổ gãy và hư hỏng; 826,6 nghìn con gia cầm, 339 con trâu, bò, 9.281 con lợn, 397 gia súc khác bị cuốn trôi và chết; 643 cột điện, 3 ăng ten bị gãy đổ; 970 nhà cơ quan và 141 trường học bị hư hại... Ngoài ra, còn có một cây cối bị đổ gãy và nhiều thiệt hại khác. Tổng thiệt hại ước tính là 5.456,07 tỷ đồng. Sau khi xảy ra thiên tai, các địa phương đã huy động lực lượng hỗ trợ tổ chức khắc phục kịp thời các thiệt hại đồng thời kêu gọi hỗ trợ 4079 tấn gạo và hàng ngàn suất quà có trị giá 246 tỷ đồng để đảm bảo cuộc sống và sinh hoạt cho người dân.

9.8. Môi trường

- Tình hình cháy, nổ: Trong tháng 12/2020, tình hình cháy, nổ không xẩy ra. Tính cả năm 2020, trên địa bàn xảy ra 67 vụ cháy, nổ (trong đó có 67 vụ cháy và 0 vụ nổ), làm chết 3 người, bị thương 4 người, thiệt hại ước tính 12.363,8 triệu đồng; so với cùng kỳ năm trước giảm 9 vụ cháy nổ (giảm 4 vụ cháy, 5 vụ nổ), tăng 1 người chết, tăng 4 người bị thương.

- Công tác bảo vệ môi trường: Trong tháng 12/2020, đã phát hiện 7 vụ vi phạm môi trường, đã xử lý 6 vụ với số tiền 71,9 triệu đồng, so với cùng kỳ năm trước giảm 3 vụ. Tính chung cả năm 2020, phát hiện 48 vụ vi phạm môi trường, đã xử lý 43 vụ với số tiền xử phạt là 329,4 triệu đồng. So với cùng kỳ năm trước: giảm 55 vụ (giảm 53,39%), số vụ xử lý giảm 47 vụ, số tiền nộp phạt tăng 27,9 triệu. Các vụ vi phạm chủ yếu là hoạt động khai thác đất, cái trái phép. Các cơ quan chức năng đã lập biên bản xử lý vi phạm hành chính.

10. Nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội năm 2021

Kỳ họp thứ 18 Hội đồng nhân dân tỉnh khóa XVII đã đề ra một số chỉ tiêu nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong năm 2021 như sau:

a. Các chỉ tiêu kinh tế

- Tốc độ tăng trưởng kinh tế trên 9%; GRDP bình quân đầu người trên 69 triệu đồng.

- Giá trị sản xuất trên đơn vị diện tích đạt trên 93 triệu đồng/ha.

- Tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt trên 31.000 tỷ đồng.- Kim ngạch xuất khẩu đạt 1,2 tỷ USD.

-Tổng thu ngân sách đạt trên 12.000 tỷ đồng, trong đó: thu nội địa 7.000 tỷ đồng; thu xuất nhập khẩu: 5.000 tỷ đồng.

- Giảm tỷ lệ hộ nghèo trên 1,5%.

- Tỷ lệ người tham gia bảo hiểm y tế đạt 91%.

- Tỷ lệ lao động qua đào tạo 72%.

- Tỷ lệ trường học đạt chuẩn quốc gia 88%.

- Giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng thể thấp còi xuống còn 14,7%.

- Duy trì độ che phủ rừng trên 52%.

- Tỷ lệ chất thải rắn đô thị được thu gom đạt 97%.

- Có thêm ít nhất 5 xã đạt chuẩn nông thôn mới, 8 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, 2 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu; 2 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn; ít nhất 120 Khu dân cư NTM kiểu mẫu đạt chuẩn, 1.200 vườn mẫu đạt chuẩn; có tối thiểu 50 sản phẩm được chứng nhận đạt chuẩn OCOP, trong đó có sản phẩm OCOP 4 sao, 5 sao.

- 100% đơn vị đạt tiêu chuẩn cơ sở vững mạnh toàn diện, an toàn làm chủ, 100% xã, phường ổn định chính trị.

b. Giải pháp

Để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2021 cần phải chú trọng thực hiện các giải pháp để tạo sự ổn định cũng như bước đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian tới, đó là:

- Tập trung xây dựng ban hành các đề án, chính sách phát triển Khu kinh tế Vũng Áng, cảng biển - logistics, công nghiệp hỗ trợ, huy động nguồn lực phát triển đô thị, triển khai đầu tư các trục giao thông chiến lược.

- Có các chính sách hỗ trợ để sớm khôi phục sản xuất, bảo đảm an sinh cho người dân; trước mắt tập trung thực hiện chính sách hỗ trợ giống cây trồng phục vụ sản xuất vụ Đông năm 2020. Rà soát, sửa chữa, nâng cấp, xây dựng mới kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thiết yếu.

- Triển khai phong trào xây dựng mô hình sản xuất cánh đồng mẫu ở các huyện, thị xã, thành phố; tiếp tục rà soát, chuyển đổi linh hoạt cơ cấu cây trồng, mùa vụ, phát triển các cây trồng cạn, rau màu có giá trị cao. Tập trung tháo gỡ khó khăn về đất đai, hỗ trợ, khuyến khích thu hút các doanh nghiệp đầu tư, phát triển bền vững các chuỗi, dự án chăn nuôi lợn, bò, hươu, gia cầm trang trại, gia trại quy mô lớn.

- Phát triển sản xuất công nghiệp theo chiều sâu; tập trung thực hiện tốt chính sách phát triển công nghiệp, đẩy mạnh xã hội hóa đầu tư hạ tầng khu, cụm công nghiệp đảm bảo đồng bộ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các Nhà đầu tư thứ cấp vào đầu tư; đặc biệt thu hút đầu tư lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ và ngành công nghiệp sau thép tại Khu kinh tế Vũng Áng; đồng thời tập trung phát triển công nghiệp nông thôn, tạo ra sản phẩm có thương hiệu và nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường.

- Tập trung hỗ trợ, khôi phục sản xuất tại các doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi thiên tai, dịch bệnh, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ; ban hành các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp để ổn định sản xuất sau thiên tai.

- Chủ động theo dõi, dự báo tình hình thị trường, biến động cung - cầu hàng hóa trên địa bàn. Xây dựng và thực hiện hiệu quả chính sách phát triển thương mại, dịch vụ, du lịch giai đoạn 2021 - 2025. Đẩy mạnh cuộc vận động người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam.

- Tập trung đẩy mạnh huy động vốn và tăng trưởng tín dụng đáp ứng tốt nhất các nhu cầu vốn vay. Triển khai quyết liệt các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng, ngăn chặn tình trạng nợ xấu gia tăng.

- Phát triển toàn diện lĩnh vực văn hóa - xã hội, bảo đảm an sinh xã hội. Quan tâm công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biên pháp luật. Đảm bảo quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội; nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại.

Để thực hiện mục tiêu nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2021, cần phải có sự chỉ đạo sát sao của các cấp ủy chính quyền và sự quyết tâm vào cuộc của cả hệ thống chính trị xã hội, nhằm tạo tiền đề vững chắc cho sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương./.

BBT Cổng TTĐT tỉnh

Từ khóa » Tốc độ Tăng Trưởng Kinh Tế Hà Tĩnh Năm 2020