Tĩnh Mạch Của Cơ Thể: Bạn đã Biết Về Nó? - YouMed

Nội dung bài viết

  • Cấu tạo 
  • Hệ thống tĩnh mạch
  • Chức năng tĩnh mạch
  • Các bệnh lý liên quan đến tĩnh mạch

Tĩnh mạch là những mạch máu đưa máu về tim. Hầu hết các tĩnh mạch mang máu đã khử oxy từ các mô trở về tim. Các trường hợp ngoại lệ là những tĩnh mạch phổi và rốn, cả hai đều mang máu có oxy đến tim. Ngược lại với tĩnh mạch, động mạch mang máu ra khỏi tim. Sau đây, mời bạn cùng Bác sĩ Hoàng Thị Việt Trinh tìm hiểu thêm những thông tin thú vị về tĩnh mạch của cơ thể nhé!

Cấu tạo 

Tĩnh mạch ít cơ hơn động mạch và thường nằm gần da hơn. Có van ở hầu hết các tĩnh mạch để ngăn dòng chảy ngược.

Các thành của tĩnh mạch được tạo thành từ ba lớp:

Lớp ngoài cùng

Đây là lớp dày nhất. Nó chủ yếu được tạo thành từ mô liên kết. Nó cũng chứa các mạch máu nhỏ cung cấp máu cho các thành của nó.

Lớp giữa

Nó mỏng và chứa một lượng lớn collagen. Collagen là một trong những thành phần chính của mô liên kết.

Lớp trong cùng

Đó là một lớp tế bào nội mô đơn lẻ và một số mô liên kết. Lớp này đôi khi chứa các van một chiều. Đặc biệt là trong các mạch máu của cánh tay và chân của bạn. Các van này ngăn máu chảy ngược trở lại.

Tĩnh mạch hiện diện khắp cơ thể như những ống dẫn máu trở về tim. Các tĩnh mạch được phân loại theo một số cách. Bao gồm nằm bề ngoài so với sâu, tĩnh mạch phổi so với hệ thống và lớn so với nhỏ.

  • Tĩnh mạch bề ngoài là những mạch máu gần bề mặt cơ thể hơn và không có động mạch tương ứng.
  • Các tĩnh mạch sâu nằm sâu hơn trong cơ thể và có các động mạch tương ứng.
  • Tĩnh mạch phổi là một tập hợp các mạch máu cung cấp máu có oxy từ phổi đến tim. Khi phổi thực hiện trao đổi khí cung cấp oxy cho máu, tĩnh mạch phổi sẽ đưa máu trở lại tim của bạn. Có bốn tĩnh mạch phổi. Chúng là duy nhất vì mang máu được cung cấp oxy. Tất cả các tĩnh mạch khác chỉ mang máu khử oxy.
  • Tĩnh mạch hệ thống dẫn lưu máu từ các mô của cơ thể và cung cấp máu đã khử oxy đến tim.

Hầu hết các tĩnh mạch đều được trang bị van một chiều để ngăn máu chảy theo hướng ngược lại.

Màu sắc của tĩnh mạch xuất hiện từ bên ngoài của một sinh vật phần lớn được xác định bởi màu của máu tĩnh mạch, thường là màu đỏ sẫm do hàm lượng oxy thấp. Nó có màu xanh lam vì lớp mỡ dưới da hấp thụ ánh sáng tần số thấp, chỉ cho phép các bước sóng màu xanh lam có năng lượng cao xuyên qua đến tĩnh mạch tối và phản xạ lại cho người xem. Màu sắc của nó có thể bị ảnh hưởng bởi đặc điểm da của một người, lượng oxy được vận chuyển trong máu, độ lớn và sâu của mạch.

Màu sắc tĩnh mạch ở từng người sẽ khác nhau
Màu sắc tĩnh mạch ở từng người sẽ khác nhau

Hệ thống tĩnh mạch

Các tĩnh mạch lớn nhất trên cơ thể con người là tĩnh mạch chủ trên và chủ dưới. Đây là hai mạch máu lớn đi vào tâm nhĩ phải của tim. Tĩnh mạch chủ trên mang máu từ cánh tay và đầu đến tâm nhĩ phải của tim, trong khi tĩnh mạch chủ dưới mang máu từ chân và bụng về tim. Tĩnh mạch chủ dưới nằm sau phúc mạc và chạy về bên phải; và gần song song với động mạch chủ bụng dọc theo cột sống.

Trong khi các mạch máu chính giữ một vị trí tương đối cố định thì vị trí của các tĩnh mạch nhỏ khác có thể hiển thị khá nhiều thay đổi từ người này sang người khác.

Chức năng tĩnh mạch

Chúng chức năng đưa máu từ các cơ quan trở về tim.

Trong tuần hoàn toàn thân

Trong tuần hoàn toàn thân, máu có oxy được tâm thất trái bơm qua các động mạch đến các cơ và các cơ quan của cơ thể, nơi các chất dinh dưỡng và khí oxy được trao đổi tại các mao mạch. Sau khi hấp thụ chất thải tế bào và khí carbon dioxide trong các mao mạch, máu được dẫn qua các mạch hội tụ với nhau tạo thành các tiểu tĩnh mạch. Các tiểu tĩnh mạch này tiếp tục hội tụ và tạo thành các tĩnh mạch lớn hơn. Máu đã khử oxy được các tĩnh mạch đưa đến tâm nhĩ phải của tim và đến tâm thất phải. Sau đó, nó được bơm qua động mạch phổi đến phổi để trao đổi khí.

Trong tuần hoàn phổi

Trong tuần hoàn phổi, các tĩnh mạch phổi đưa máu có oxy từ phổi trở lại tâm nhĩ trái, đổ vào tâm thất trái, hoàn thành chu kỳ tuần hoàn máu.

Sự mang máu về tim của tĩnh mạch được hỗ trợ bởi hoạt động bơm của cơ và hoạt động thở của lồng ngực trong quá trình hô hấp. Đứng hoặc ngồi trong một thời gian dài có thể gây ra tình trạng ứ máu tĩnh mạch.

Các động mạch mang máu đã được oxy hóa đến các mô, trong khi tĩnh mạch mang máu đã được khử oxy trở lại tim. Điều này đúng với tuần hoàn toàn thân. Tuy nhiên, trong tuần hoàn phổi, các động mạch phổi mang máu đã khử oxy từ tim đến phổi và các tĩnh mạch phổi đưa máu từ phổi về tim.

Sự khác biệt giữa tĩnh mạch và động mạch

Sự khác biệt giữa tĩnh mạch và động mạch là hướng dòng chảy của chúng (ra khỏi tim theo động mạch, trở về tim theo tĩnh mạch) chứ không phải hàm lượng oxy của chúng.

Ngoài ra, máu đã khử oxy được vận chuyển từ các mô trở lại tim để oxy hóa trong tuần hoàn hệ thống vẫn mang một số oxy. Mặc dù lượng oxy đó ít hơn đáng kể so với lượng oxy được vận chuyển bởi các động mạch hệ thống hoặc tĩnh mạch phổi.

Mặc dù hầu hết các tĩnh mạch đều đưa máu trở lại tim, nhưng vẫn có một ngoại lệ. Các tĩnh mạch cửa mang máu giữa các giường mao mạch. Ví dụ, tĩnh mạch cửa lấy máu từ các giường mao mạch trong đường tiêu hóa. Sau đó, vận chuyển đến các giường mao mạch trong gan.

Sau đó, máu được dẫn lưu trong đường tiêu hóa và lách và được các tĩnh mạch gan đưa máu trở về tim. Vì đây là một chức năng quan trọng ở động vật có vú. Nên tổn thương tĩnh mạch cửa có thể nguy hiểm. Sự ứ máu trong tĩnh mạch cửa có thể gây ra tăng áp lực tĩnh mạch cửa. Điều này dẫn đến giảm lượng máu đến gan.

Các bệnh lý liên quan đến tĩnh mạch

Suy van tĩnh mạch

Suy van tĩnh mạch là rối loạn phổ biến nhất của hệ thống tĩnh mạch. Nó thường được biểu hiện dưới dạng tĩnh mạch mạng nhện hoặc giãn tĩnh mạch. Một số phương pháp điều trị được sử dụng, tùy thuộc vào loại và kiểu tĩnh mạch cụ thể của bệnh nhân và mức độ nghiêm trọng của bệnh. Điều trị có thể bao gồm đốt laser, cắt bỏ tĩnh mạch…

Các bước tiến triển của suy giãn tĩnh mạch chân
Các bước tiến triển của suy giãn tĩnh mạch chân

Huyết khối tĩnh mạch sâu

Huyết khối tĩnh mạch sâu là tình trạng cục máu đông hình thành trong tĩnh mạch sâu. Đây thường là tĩnh mạch của chân, mặc dù nó cũng có thể xảy ra ở tĩnh mạch của cánh tay.

Các yếu tố nguy cơ gây huyết khối tĩnh mạch sâu, bao gồm:

  • Bất động lâu.
  • Ung thư.
  • Béo phì.
  • Tổn thương mạch máu do chấn thương.
  • Và các rối loạn bẩm sinh dễ gây ra cục máu đông.

Tình trạng này có thể khiến cho phần chi bị ảnh hưởng sưng lên, gây đau. Trong trường hợp xấu nhất, huyết khối tĩnh mạch sâu có thể vỡ ra và đi vào phổi, gây thuyên tắc phổi.

Quyết định điều trị huyết khối tĩnh mạch sâu phụ thuộc vào kích thước của cục huyết khối, các triệu chứng và các yếu tố nguy cơ của một người. Các biện pháp điều trị thường liên quan đến việc chống đông máu để ngăn ngừa cục máu đông, hoặc để giảm kích thước của cục máu đông.

Huyết khối tĩnh mạch sâu
Huyết khối tĩnh mạch sâu

Tăng áp cửa

Các tĩnh mạch cửa được tìm thấy trong bụng và đưa máu đến gan. Tăng áp lực tĩnh mạch cửa có liên quan đến xơ gan hoặc bệnh gan. Hoặc các tình trạng khác như cục máu đông gây tắc nghẽn (hội chứng Budd Chiari) hoặc chèn ép từ khối u hoặc tổn thương do lao. Khi áp lực tăng lên trong các tĩnh mạch cửa, một tuần hoàn bàng hệ phát triển, gây ra giãn các tĩnh mạch như giãn tĩnh mạch thực quản.

Viêm tắc tĩnh mạch

Viêm tắc tĩnh mạch là tình trạng viêm của tĩnh mạch liên quan đến cục máu đông.

Hy vọng bài viết trên của Bác sĩ Hoàng Thị Việt Trinh đã cung cấp cho bạn các kiến thức cần thiết về hệ thống tĩnh mạch của cơ thể.

Từ khóa » Tĩnh Mạch Phổi Là Mạch Máu