Tỏ Lòng (Thuật Hoài) - Củng Cố Kiến Thức

I. Tiểu dẫn

- Phạm Ngũ Lão (1255 – 1320), người làng Phù Đổng, huyện Đường Hào (nay là huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên).

- Ông là người có công lớn trong cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên. Tuy là võ tướng nhưng ông thích đọc sách, ngâm thơ và được ngợi ca là người văn võ song toàn.

- Sáng tác của Phạm Ngũ Lão hiện chỉ còn hai bài thơ Tỏ lòng (Thuật Hoài) và Viếng Thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương.

II. Văn bản (SGK)

Bài thơ miêu tả khí phách và hoài bão của vị tướng đời Trần trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên. Là vẻ đẹp của con người thời Trần với tầm vóc, tư thế, lý tưởng và tinh thần chiến đấu qua hình ảnh kỳ vĩ, ngôn ngữ hàm súc, giàu tính biểu cảm.

1. Điểm khác nhau giữa câu thơ đầu trong nguyên tác chữ Hán (qua phần dịch nghĩa) với câu thơ dịch?

- Câu thơ đầu trong nguyên tác là "hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu" (Cầm ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu), dịch thơ là "Múa giáo non sông đã mấy thu".

- Nội dung bản dịch nghĩa (gần với nguyên tác) thể hiện tư thế, khí phách của người tráng sĩ anh hùng: Không gian rộng lớn (giang sơn), thời gian dài lâu (kháp kỉ thu), tư thế người tráng sĩ hiên ngang, có tầm vóc của một vị anh hùng.

- Trong câu thơ dịch, tuy sát nghĩa nhưng chưa thể hiện được hết vẻ đẹp của người tráng sĩ với tư thế hiên ngang, khí thế anh hùng, sẵn sàng chiến đấu lập công.

2. Cảm nhận về sức mạnh của quân đội nhà Trần qua câu thơ "Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu”?

- Câu thơ "Tam quân tì hổ khí thôn ngưu” (Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu) cho thấy sức mạnh của đội quân nhà Trần. "Khí thôn ngưu" còn được dịch là "nuốt sao Ngưu", ý nói khí thế rất mạnh, có thể át cả sao Ngưu, sao Đẩu.

- Đây là đội quân hùng mạnh, sẵn sàng chiến đấu lập công, hào khí thời nhà Trần, giai đoạn chiến đấu chống quân Nguyên - Mông còn được gọi là "Hào khí Đông A". Câu thơ trên phản ánh hào khí của thời đại ấy.

3. Có thể hiểu ”nợ công danh'' mà tác giả nói tới theo nghĩa nào?

- Theo Nho giáo, kẻ làm trai sinh ra trên đời phải lập được công danh.

- Lí tưởng công danh ở đây mang nội dung của chủ nghĩa yêu nước: Lập công vì nước, đồng nghĩa với trả nợ công danh.

- Đáp án đúng là ý thứ ba (cả hai nghĩa trên) thể hiện chí làm trai theo tinh thần Nho giáo... và chưa hoàn thành nghĩa vụ đối với dân, với nước....

4. Phân tích chữ "thẹn" trong câu thơ cuối.

- Chưa hoàn thành nghĩa vụ với dân, với nước, hai chữ "vương nợ' khắc sâu trong lòng nhà thơ, đã là trang nam nhi phải xác định công danh là món nợ lớn với đời phải trả. Ông cho rằng mình chưa trả được món nợ ấy, chưa lập được công danh nên ông dùng chữ "thẹn”.

- "Thẹn" là biểu hiện cao nhất về ý thức tự giác của người nam tử, thể hiện lí tưởng, hoài bão lớn trong lòng kẻ làm trai nhưng còn chưa thành.

- Tác giả nhắc đến Vũ Hầu (Gia Cát Lượng) là người đã lập công danh để tiếng thơm ngàn thu. Kẻ sĩ nào cũng phải coi ông là tấm gương. Cho nên "thẹn" với Vũ Hầu nghĩa là thẹn chuyện trả được nợ công danh.

5. Hình ảnh trang nam nhi thời Trần mang vẻ đẹp như thế nào? Điều đó có ý nghĩa gì đối với tuổi trẻ hôm nay và ngày mai?

- Hình ảnh nam nhi đời Trần mang vẻ đẹp của những tâm hồn lí tưởng. Người đọc thấy được sức mạnh phi thường và vẻ đẹp cao cả của ngọn giáo tung hoàng vì non sông đất nước, thấy hùng khí của ba quân dũng mãnh sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng. Đó cũng chính là vẻ đẹp của tâm hồn vị tướng đang nóng lòng lập công danh đền nợ nước, thỏa chí tang bồng.

- Tuổi trẻ hôm nay cần được giáo dục lí tưởng, hoài bão đẹp đẽ như thanh niên thời Trần, vẻ đẹp của một tâm hồn có hoài bão lớn trong bài thơ Tỏ lòng rất có ý nghĩa trong việc giáo dục lí tưởng cho thanh niên ngày nay.

Từ khóa » Khí Thế Nuốt Trâu