Tội Cung Cấp Tài Liệu Sai Sự Thật Hoặc Tội Khai Báo Gian Dối Bị Xử Lý ...

Tội khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật được thực hiện lỗi cố ý, xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan tư pháp.

MỤC LỤC

  • A. Các dấu hiệu pháp lý của tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc tội khai báo gian dối
    • 1) Khách thể của tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc tội khai báo gian dối
    • 2) Mặt khách quan của tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc tội khai báo gian dối
    • 3) Chủ thể của tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc tội khai báo gian dối
    • 4) Mặt chủ quan của tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc tội khai báo gian dối
  • B. Khung hình phạt đối với tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối
  • C. Một số bản án về tội khai báo gian dối

A. Các dấu hiệu pháp lý của tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc tội khai báo gian dối

1) Khách thể của tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc tội khai báo gian dối

Tội khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan tư pháp.

2) Mặt khách quan của tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc tội khai báo gian dối

Mặt khách quan của tội phạm được thể hiện ở những hành vi sau đây:

Người giám định kết luận gian dối, tức là đưa ra những kết luận sai sự thật, trái ngược hoàn toàn với kết quả nghiên cứu giám định làm thay đổi hẳn bản chất của vấn đề được trưng cầu giám định, hoặc tuy không làm thay đổi bản chất của mọi vấn đề được trưng cầu giám định nhưng đã làm thay đổi một phần kết quả giám định làm cho việc giải quyết vụ án bị sai lệch (ví dụ : bị can, bị cáo có trạng thái tâm thần bình thường nhưng lại bị kết luận là mắc bệnh tâm thần, kết luận về tổn hại đến sức khoẻ của người bị hại quá cao hoặc quá thấp so với tình trạng sức khoẻ thực tế của họ).

Người phiên dịch đã cố ý dịch sai sự thật như xuyên tạc nội dung, tài liệu mà người đó có trách nhiệm phải dịch. Tài liệu có thể là tiếng nước ngoài hoặc tiếng dân tộc; hoặc dịch xuyên tạc các câu hỏi, câu trả lời mà người phiên dịch có trách nhiệm phải dịch trong quá trình tố tụng đối với vụ án (ví dụ : bỏ qua không phiên dịch những tình tiết có ý nghĩa tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo).

Người làm chứng khai báo gian dối hoặc cũng có liệu sai sự thật như bịa đặt ra những tin tức về sự việc phạm tôi, về nhân thân người phạm tội hoặc các tình tiết khác vụ án; cung cấp những tài liệu, chứng cứ cho các cơ quan thu hành tố tụng mà biết rõ sai sự thật; phủ nhận những tài liệu, chứng cứ mà biết rõ là đúng sự thật.

Tội xâm phạm hoàn thành từ thời điểm sau đây:

– Đối với hành vi kết luận gian dối, tội phạm được coi là hoàn thành khi bản kết luận giám định được chuyển đến cơ quan trưng cầu giám định hoặc khi người giám định trình bày kết luận giám định trước phiên toà (nếu giai đoạn điều tra không trưng cầu giám định đối với vụ án).

– Đối với hành vi giám định gian dối, tội phạm được coi là hoàn thành khi người dịch trao bản dịch cho cơ quan tiến hành tố tụng hoặc dịch miệng đã xong và người dịch ký tên vào biên bản do mình dịch trong quá trình điều tra, xét xử.

– Đối với hành vi khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật của người làm chứng, tội phạm được coi là hoàn thành từ thời điểm người làm chứng đã đọc lại biên bản lấy lời khai hoặc trình bày lời khai gian dối tại phiên toà và ký vào biên bản đó.

3) Chủ thể của tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc tội khai báo gian dối

Chủ thể của tội phạm là người giám định, người phiên dịch và người làm chứng.

4) Mặt chủ quan của tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc tội khai báo gian dối

Tội phạm được quy định tại Điều 382 Bộ luật Hình sự được thực hiện lỗi cố ý. Động cơ phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc để định tội. Riêng trường hợp người giám định, người phiên dịch do thiếu trách nhiệm mà dẫn đến kết luận giám định sai, dịch sai tuỳ theo tính chất, mức độ của hậu quả gây ra mà có thể bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

B. Khung hình phạt đối với tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối

Điều 382. Tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối

1. Người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật, người bào chữa nào mà kết luận, dịch, khai gian dối hoặc cung cấp những tài liệu mà mình biết rõ là sai sự thật, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:

a) Có tổ chức;

b) Dẫn đến việc giải quyết vụ án, vụ việc bị sai lệch.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:

a) Phạm tội 02 lần trở lên;

b) Dẫn đến việc kết án oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm hoặc người phạm tội.

4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

C. Một số bản án về tội khai báo gian dối

Vụ án ĐQS cùng đồng phạm (07 bị cáo) bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh khởi tố, điều tra. Quá trình điều tra, đã xác định ĐQS thực hiện hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy”, từ lời khai ban đầu của Nguyễn Trần T (là chủ khách sạn TPH), bản tường trình xác nhận ĐQS ngoài thuê phòng 505, Sắc còn thuê phòng 508 khách sạn TPH.

Trên cơ sở đó, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành khám xét phòng 508 đã phát hiện thu giữ 1.952,4579 gam ma túy, loại MDMA, Methamphetamine và Ketamine dưới sự chứng kiến của Nguyễn Trần T và LTHL, cùng ký tên xác nhận vào biên bản khám xét.

Nguyễn Trần T và LTHL (nhân viên lễ tân của khách sạn TPH) đều khai nhận từ cuối tháng 9/2016 đến ngày 05/10/2016, phòng 508 do ĐQS thuê ở và do Sắc thanh toán tiền thuê 02 phòng. Việc ghi lời khai, bản nhận dạng ĐQS đều có chữ ký (ký chốt) xác nhận và độc lại biên bản của Nguyễn Trần T và LTHL.

Tuy nhiên, tại phiên tòa ngày 25/8/2017, Nguyễn Trần T thay đổi lời khai cho rằng phòng 508 khách sạn Thiên Phúc do ông NVT thuê ở từ ngày 28/9/2016 đến ngày 05/10/2016.

Khi tiến hành lấy lời khai ông NVT cho biết chưa bao giờ thuê và ở tại khách sạn TPH, vào tháng 7/2014, ông mất giấy chứng minh nhân dân khi làm việc tại Thành phố Hồ Chí Minh, sau đó có làm đơn cớ mất tại Công an xã Lộc Hiệp, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước để yêu cầu được cấp lại.

Qua kiểm tra sổ đăng ký lưu trú của khách sạn TPH thì từ cuối tháng 9/2016 đến ngày 05/10/2016 không có tên NVT thuê phòng 508. Đến ngày 08/11/2017 (sau khi ĐQS bị bắt), trong sổ đăng ký lưu trú khách sạn TPH có ghi phòng 508 do NVT thuê từ ngày 01/8/2016 đến ngày 02/8/2016, từ ngày 20/9/2016 đến ngày 21/9/2016 và thuê từ ngày 28/9/2016 đến ngày 29/9/2016. Nguyễn Trần T khai từ sau ngày 29/9/2016, ông Thích không báo trả phòng 508 và không thanh toán tiền phòng.

Tại phiên tòa ngày 17/5/2018, Nguyễn Trần T tiếp tục khẳng định phòng 508 do ông Thích thuê ở trong thời gian từ ngày 05/10/2016 chứ không phải ĐQS thuê như lời khai ban đầu của bản thân. Mặc dù vậy, hồ sơ vụ án cho thấy lời khai ban đầu của Nguyễn Trần T là phù hợp với những chứng cứ khác được thu thập, từ đó chứng minh số ma túy thu giữ tại phòng 508 là của ĐQS.

Do đó, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên buộc ĐQS phải chịu trách nhiệm hình sự đối với số ma túy bị thu giữ tại phòng 508 đồng thời kiến nghị khởi tố đối với Nguyễn Trần T về “Tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối” (Bản án số 164/2018/HS-ST ngày 17/5/2018 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh).

Căn cứ vào khoản 1 Điều 382; Điều 36; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trần T phạm “Tội khai báo gian dối”. Xử phạt Nguyễn Trần T 01 (một) năm cải tạo không giam giữ. Thời hạn thi hành tính từ ngày ra quyết định thi hành án.

Xem thêm : Tội che giấu tội phạm bị xử lý như thế nào ?

Liên hệ luật sư tư vấn hình sự : 0913 597 479  ; 0904 902 429 

Từ khóa » Tội Cung Cấp Tài Liệu Sai Sự Thật