Tội Giết Người Theo Quy định Bộ Luật Hình Sự Mới

Tội giết người Điều 123 BLHS

Mục lục bài viết

Toggle
  • Tội giết người Điều 123 BLHS
    • Tội giết người là gì?
      • Dấu hiệu nhận biết tội giết người:
      • Các yếu tố tăng nặng hình phạt đối với tội giết người:
      • Hậu quả pháp lý của tội giết người:
    • Điều 123 Tội giết người
    • Phân tích cấu thành tội phạm Tội giết người.
      • 1. Về phía người phạm tội
      • 2. Về phía nạn nhân
      • 1. Khách thể của tội phạm
      • 2. Mặt khách quan của tội phạm
      • 3. Mặt chủ quan của tội phạm
      • 4. Chủ thể của tội phạm
      • 5. Các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ
      • Hình phạt đối với tội giết người:
    • Dịch vụ luật sư bào chữa cho bị can, bị cáo
      • 1. Vai trò của luật sư bào chữa
      • 2. Quy trình dịch vụ luật sư bào chữa
      • 3. Lợi ích của việc thuê luật sư bào chữa
      • 4. Những trường hợp cần thiết có luật sư bào chữa
      • Bài liên quan:
toi giet nguoi dieu 123 blhs

Tội giết người là gì?

Tội giết người là hành vi cố ý tước đoạt mạng sống của người khác một cách trái pháp luật. Đây là một trong những tội phạm nghiêm trọng nhất, xâm phạm trực tiếp đến quyền sống – quyền cơ bản của con người.

Dấu hiệu nhận biết tội giết người:

  • Mục đích: Người phạm tội có ý định rõ ràng là muốn tước đoạt mạng sống của nạn nhân.
  • Hành vi: Các hành vi trực tiếp gây ra cái chết như đâm, chém, bắn, đánh, hoặc các hành vi gián tiếp gây ra cái chết như bỏ đói, bỏ rơi, gây tai nạn…
  • Hậu quả: Nạn nhân tử vong.

Các yếu tố tăng nặng hình phạt đối với tội giết người:

  • Giết nhiều người: Khi có nhiều nạn nhân bị sát hại.
  • Giết người có tính chất man rợ: Khi thủ đoạn giết người đặc biệt dã man, tàn bạo.
  • Giết người vì động cơ đê hèn: Khi động cơ giết người xuất phát từ lòng thù hận, ghen ghét, ích kỷ…
  • Giết người trong trường hợp đặc biệt: Giết người đối với người có công, người đang thi hành công vụ, người đang giúp đỡ người khác thoát khỏi tình trạng nguy hiểm…

Hậu quả pháp lý của tội giết người:

  • Hình phạt: Tùy thuộc vào tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi mà người phạm tội có thể bị phạt tù từ 12 năm đến chung thân hoặc tử hình.
  • Các hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù, người phạm tội còn có thể bị tước đoạt một số quyền chính trị, bồi thường thiệt hại cho gia đình nạn nhân…

Lưu ý: Đây là thông tin chung về tội giết người. Để biết rõ hơn về từng trường hợp cụ thể, bạn nên tham khảo ý kiến của luật sư.

Bạn có muốn biết thêm về các vấn đề pháp lý liên quan đến tội giết người không? Ví dụ như:

  • Phân biệt tội giết người và tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người
  • Các trường hợp được xem là tự vệ và không bị truy cứu trách nhiệm hình sự
  • Quy trình điều tra, xét xử vụ án giết người

Điều 123 Tội giết người

1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:

a) Giết 02 người trở lên;

b) Giết người dưới 16 tuổi;

c) Giết phụ nữ mà biết là có thai;

d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;

đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;

g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;

h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;

i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ;

k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;

l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;

m) Thuê giết người hoặc giết người thuê;

n) Có tính chất côn đồ;

o) Có tổ chức;

p) Tái phạm nguy hiểm;

q) Vì động cơ đê hèn.

2. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.

3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

4. Người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm.

So với Tội giết người được quy định tại Điều 93 BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 thì:

    1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình: a) Giết nhiều người; b) Giết phụ nữ mà biết là có thai; c) Giết trẻ em; d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân; đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình; e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng; g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ; k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp; l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người; m) Thuê giết người hoặc giết người thuê; n) Có tính chất côn đồ; o) Có tổ chức; p) Tái phạm nguy hiểm; q) Vì động cơ đê hèn.
    2. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.
    3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm.

Như vậy, về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

  • Tình tiết giết trẻ em được thay bằng giết người dưới 16 tuổi. Cũng giống như trên, tình tiết này chỉ để lồng ghép những nội dung được hướng dẫn trước đây.
  • Các tình tiết khác không có gì thay đổi.
  • Về bổ sung trường hợp chuẩn bị phạm tội, trước đây BLHS quy định người chuẩn bị phạm đối với khung hình phạt có hình phạt tối đa là chung thân hoặc tử hình thì mức hình phạt cao nhất là 20 năm tù thì nay đã thay bằng quy định mới cụ thể hơn là từ 1-5 năm tù. Quy định này là hợp lý bởi lẽ người chuẩn bị phạm tội chưa gây hậu quả, thiệt hại gì, mặc dù ý thức của họ là đã có ý định phạm tội đặc biệt nghiêm trọng nhưng hình phạt 20 năm tù đối với những người này là quá năng
Công ty luật chuyên về Hình sự

Phân tích cấu thành tội phạm Tội giết người.

dich vu luat su tu van phap luat hinh su tphcm
  • Giết người là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp luật. Điều luật chỉ quy định giết người mà không quy định cố ý giết người, vì từ “giết” đã bao hàm cả sự cố ý. Do đó, nếu có trường hợp nào tước đoạt tính mạng người khác không phải do cố ý thì không phải là giết người. Điều luật cũng không miêu tả các dấu hiệu của tội giết người, nhưng về lý luận cũng như thực tiễn xét xử chúng ta có thể xác định các dấu hiệu của tội giết người như sau:

1. Về phía người phạm tội

a) Hành vi khách quan của tội phạm bao gồm cả hành động và không hành động. dich vu thu no, dịch vụ thu nợ

  • Trường hợp hành động thường được biểu hiện như: đâm, chém, bắn, đấm đá, đốt cháy, đầu độc, bóp cổ, treo cổ, trói ném xuống vực, xuống sông, chôn sống v.v… dich vu doi no, dịch vụ đòi nợ
  • Trường hợp không hành động ít gặp nhưng vẫn có thể xảy ra. Ví dụ: Một Y tá cố tình không cho người bệnh uống thuốc theo chỉ định của bác sỹ để người bệnh chết mặc dù người Y tá này phải có nghĩa vụ cho người bệnh uống thuốc. luat su gioi

b) Hành vi tước đoạt tính mạng của người khác phải là hành vi trái pháp luật, tức là luật cấm mà cứ làm, luật bắt làm mà không làm. luat su hinh su

  • Như vậy, sẽ có trường hợp tước đoạt tính mạng người khác được pháp luật cho phép như: hành vi tước đoạt tính mạng của người khác trong trường hợp phòng vệ chính đáng, trong tình thế cấp thiết hoặc thi hành một mệnh lệnh hợp pháp của nhà chức trách. Ví dụ: người cảnh sát thi hành bản án tử hình đối với người phạm tội. luat su bao chua
  • Hành vi trái pháp luật phải là nguyên nhân gây ra hậu quả chết người, tức là có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Thực tiễn xét xử không phải bao giờ cũng dễ dàng xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả chết người. Vì vậy, khi xác định mối quan hệ nhân qủa giữa hành vi và hậu quả phải xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả với những đặc điểm sau:
  • – Hành vi là nguyên nhân gây ra chết người phải là hành vi xảy ra trước hậu quả về mặt thời gian. Ví dụ: sau khi bị bắn, nạn nhân chết. Tuy nhiên không phải bất cứ hành vi nào xảy ra trước hậu quả chết người đều là nguyên nhân mà chỉ những hành vi có mối quan hệ nội tại, tất yếu với hậu quả thì mới là nguyên nhân. Mối quan hệ nội tại tất yếu đó thể hiện ở chỗ: khi cái chết của nạn nhân có cơ sở ngay trong hành vi cả người phạm tội ; hành vi của người phạm tội  đã mang trong nó mầm mống sinh ra hậu quả chết người; hành vi của người phạm tội  trong những điều kiện nhất định phải dẫn đến hậu quả chết người chứ không thể khác được. Ví dụ: một người dùng súng bắn vào đầu của người khác, tất yếu sẽ dẫn đến cái chết cho người này. Nếu một hành vi đã mang trong đó mầm mống dẫn đến cái chết cho nạn nhân, nhưng hành vi đó lại được thực hiện trong hoàn cảnh không có những điều kiện cần thiết để hậu quả chết người xảy ra và thực tế hậu quả đó chưa xảy ra, thì người có hành vi vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người nhưng ở giai đoạn phạm tội chưa đạt. Ví dụ: A có ý định bắn vào đầu B nhằm tước đoạt tính mạng của B, nhưng đạn không trúng đầu của B mà chỉ trúng tay nên B không chết.
  • – Hậu quả chết người có trường hợp không phải do một nguyên nhân gây ra mà do nhiều nguyên nhân cùng gây ra, thì cần phải phân biệt nguyên nhân nào là nguyên nhân chủ yếu, nguyên nhân nào là thứ yếu. nguyên nhân chủ yếu là nguyên nhân mà nếu không có nó thì hậu quả không xuất hiện, nó quyết định những đặc trưng tất yếu chung của hậu quả ấy, còn nguyên nhân thứ yếu là nguyên nhân chỉ quyết định những đặc điểm nhất thời cá biệt không ổn định của hậu quả; khi nó tác dụng vào kết quả thì chỉ có tính chất hạn chế và phục tùng nguyên nhân chủ yếu. Ví dụ: có nhiều người cùng đánh một người, người bị đánh chết là do đòn tập thể, nhưng trong đó có hành vi của một người là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến cái chết cho nạn nhân, còn hành vi của những người khác chỉ là nguyên nhân thứ yếu. Dù là chủ yếu hay thứ yếu thì tất cả những người có hành vi đều phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người, nhưng mức độ có khác nhau.
  • – Trong thực tế chúng ta còn thấy hậu quả chết người xảy ra có cả nguyên nhân trực tiếp và nguyên nhân gián tiếp. Nguyên nhân  trực tiếp là nguyên nhân tự nó sinh ra kết quả, nó có tính chất quyết định rõ rệt đối với hậu quả, còn nguyên nhân gián tiếp là nguyên nhân chỉ góp phần gây ra hậu quả. Thông thường, hành vi là nguyên nhân trực tiếp mới phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả, còn đối với hành vi là nguyên nhân gián tiếp thì không phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả. Ví dụ: A cho B mượn súng để đi săn, nhưng B đã dùng súng đó để bắn chết người. Tuy nhiên, trong vụ án có đồng phạm thì hành vi của tất cả những người đồng phạm là nguyên nhân trực tiếp.
  • – Khi xem xét mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả cần phân biệt nguyên nhân với điều kiện. Điều kiện là những hiện tượng khách quan hoặc chủ quan, nó không trực tiếp gây ra hậu quả, nhưng nó đi với nguyên nhân trong không gian và thời gian, ảnh hưởng đến nguyên nhân và bảo đảm cho nguyên nhân có sự phát triển cần thiết để sinh ra hậu quả. Nếu một người có hành vi không liên quan đến việc giết người và người đó không biết hành vi của mình đã tạo điều kiện cho người khác giết người, thì không phải chịu trách nhiệm về tội giết người. Ví dụ: A cho B đi nhờ xe Honda, nhưng A không biết B đi nhờ xe của mình để đuổi kịp C và giết C.

c) Hành vi tước đoạt tính mạng người khác là hành vi được thực hiện do cố ý.

  • Cố ý giết người là trường hợp trước khi có hành vi tước đoạt tính mạng người khác, người phạm tội  nhận thức rõ hành động của mình tất yếu hoặc có thể gây cho nạn nhân chết và mong muốn hoặc bỏ mặc cho nạn nhân chết.
  • Sự hình thành ý thức của người có hành vi giết người  được biểu hiện khác nhau:
  • – Dạng biểu hiện thứ nhất là trước khi thực hiện hành vi nguy hiểm đến tính mạng người khác, người phạm tội  thấy trước được hậu quả chết người tát yếu xảy ra và mong muốn cho hậu quả đó phát sinh. Loại biểu hiện này rõ nét. Biểu hiện ý thức này ra bên ngoài thường được biểu hiện bằng những hành vi như: chuẩn bị hung khí (phương tiện), điều tra theo dõi mọi hoạt động của người định giết, chuẩn bị những điều kiện, thủ đoạn  để che giấu tội phạm v.v… còn gọi là cố ý có dự mưu. Tuy nhiên, cũng có trường hợp trước khi hành động, người phạm tội  không có thời gian chuẩn bị nhưng họ vẫn thấy trước được hậu quả tất yếu xảy ra và cũng mong muốn cho hậu quả phát sinh. Ví dụ: A và B cãi nhau, sẵn có dao trong tay (vì A đang thái thịt lợn) A dùng dao chém liên tiếp nhiều nhát vào đầu B làm B chết ngay tại chỗ. Trường hợp này gọi là cố ý đột xuất.
  • – Dạng biểu hiện thứ hai là trước khi có hành vi nguy hiểm đến tính mạng người khác, người phạm tội  chỉ nhận thức được hậu quả chết người có thể xảy ra chứ không chắc chắn nhất định xảy ra vì người phạm tội  chưa tin vào hành vi của mình nhất định sẽ gây ra hậu quả chết người. Bản thân người phạm tội  cũng rất mong muốn cho hậu quả xảy ra, nhưng họ lại không tin một cách chắc chắn rằng hậu quả ắt xảy ra. Ví dụ: A gài lựu đạn nhằm giết B vì A đã theo dõi hàng ngày B thường đi qua đoạn đường này, nhưng A không tin vào khả năng gây nổ của lựu đạn hoặc chưa chắc B nhất định đi qua và có đi qua chưa chắc B đã vấp phải lưu đạn do A gài.
  • – Dạng biểu hiện thứ ba là trước khi thực hiện hành vi nguy hiểm đến tính mạng của người khác, người phạm tội  cũng chỉ thấy trước hậu quả chết người có thể xảy ra tuy không mong muốn, nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Ví dụ: A mắc điện trần vào cửa chuồng gà với ý thức để kẻ nào vào trộm gà sẽ bị điện giật chết, nhưng lại làm chết người nhà của A vào chuồng gà nhặt trứng gà đẻ.

Người phạm tội giết người đều có chung một mục đích là tước đoạt tính mạng con người, nhưng động cơ thì khác nhau. Động cơ không phải là yếu tố định tội giết người, nhưng trong một số trường hợp nó là yếu tố định khung hình phạt.

Những dấu hiệu khác như: thời gian. địa điểm, hoàn cảnh v.v… chỉ có ý nghĩa xác định mức độ nguy hiểm đối với hành vi giết người, chứ không có ý nghĩa định tội.

Chủ thể của tội giết người là bất kỳ, nhưng phải là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và phải là người đủ 14 tuổi trở lên, vì tội giết người là tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng.

Luật sư bào chữa hiệu quả án hình sự

2. Về phía nạn nhân

  • Người bị giết, phải là người còn sống, vì tội giết người là tội xâm phạm đến tính mạng con người. Nếu một người đã chết, thì mọi hành vi xâm phạm đến xác chết đó không phải là hành vi giết người, nhưng giết một người sắp chết vẫn là giết người.

Giết một đứa trẻ mới ra đời cũng là giết người, nhưng phá thai, dù cái thai đó ở tháng thứ mấy cũng không gọi là giết người, vì vậy giết một phụ nữ đang có thai không phải là giết nhiều người.

  • Trường hợp người phạm tội  tưởng nhầm xác chết là người đang còn sống mà có những hành vi như bắn, đâm, chém… với ý thức giết thì vẫn phạm tội giết người. Khoa học luật hình gọi là sai lầm về đối tượng.

Tội giết người là một trong những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được quy định tại Điều 123 của Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Để cấu thành tội giết người, cần xem xét những yếu tố sau đây:

dich vu luat su bao chua hinh su tphcm

1. Khách thể của tội phạm

Tội giết người xâm phạm đến quyền sống – quyền cơ bản nhất của con người. Đây là quyền được Hiến pháp bảo vệ và mọi hành vi tước đoạt mạng sống của người khác đều bị coi là vi phạm nghiêm trọng quyền này.

2. Mặt khách quan của tội phạm

  • Hành vi: Người phạm tội thực hiện hành vi tước đoạt mạng sống của người khác. Hành vi có thể được thực hiện bằng nhiều phương thức khác nhau như đâm, bắn, đánh, đầu độc, hoặc các hành vi khác dẫn đến cái chết của nạn nhân.
  • Hậu quả: Nạn nhân bị chết hoặc bị thương tích nghiêm trọng, tùy theo mức độ nguy hiểm của hành vi.
  • Mối quan hệ nhân quả: Hành vi của người phạm tội phải là nguyên nhân trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra cái chết của nạn nhân.

3. Mặt chủ quan của tội phạm

  • Lỗi: Người phạm tội giết người thường có lỗi cố ý. Có hai loại cố ý trong tội giết người:
    • Cố ý trực tiếp: Người phạm tội mong muốn và biết rõ hành vi của mình sẽ gây ra cái chết cho nạn nhân và vẫn thực hiện hành vi.
    • Cố ý gián tiếp: Người phạm tội nhận thức được hành vi của mình có thể gây chết người nhưng không ngăn chặn và chấp nhận hậu quả xảy ra.

4. Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội phạm này là bất kỳ người nào có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Theo quy định, người từ 14 tuổi trở lên đã có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người, nếu có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự.

Luật sư bào chữa cho bị cáo

5. Các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ

Tội giết người có nhiều tình tiết định khung, tăng nặng hoặc giảm nhẹ khác nhau. Một số tình tiết tăng nặng như:

  • Giết hai người trở lên.
  • Giết phụ nữ có thai, trẻ em, người già, hoặc người không có khả năng tự vệ.
  • Giết người vì động cơ đê hèn (ví dụ, vì thù hận cá nhân, hoặc để trốn tránh pháp luật).
  • Giết người bằng cách dã man, có tính chất man rợ.

Tình tiết giảm nhẹ có thể bao gồm:

  • Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.
  • Người phạm tội thực hiện hành vi trong tình trạng bị kích động mạnh về tinh thần.
  • Người phạm tội có các tình tiết nhân đạo như gia cảnh khó khăn, nạn nhân có lỗi trước.

Hình phạt đối với tội giết người:

Hình phạt cho tội giết người rất nghiêm khắc, thường là tù có thời hạn, tù chung thân hoặc tử hình, tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của hành vi và hậu quả gây ra.

Dịch vụ luật sư bào chữa cho bị can, bị cáo

Dịch vụ luật sư bào chữa cho bị can, bị cáo là một dịch vụ pháp lý quan trọng nhằm đảm bảo quyền lợi của những người bị buộc tội trong các vụ án hình sự. Luật sư bào chữa đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bị can, bị cáo, giúp họ có được sự bảo vệ công bằng và hợp lý trước pháp luật.

1. Vai trò của luật sư bào chữa

  • Bảo vệ quyền lợi hợp pháp: Luật sư giúp bị can, bị cáo hiểu rõ các quyền và nghĩa vụ của mình, đảm bảo rằng họ không bị xâm phạm quyền lợi trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử.
  • Tư vấn pháp lý: Luật sư sẽ giải thích cho bị can, bị cáo về các quy định pháp luật liên quan đến vụ án, giúp họ hiểu rõ về quá trình tố tụng hình sự, từ điều tra đến xét xử.
  • Bào chữa trước tòa: Luật sư đại diện cho bị cáo đưa ra các lập luận, bằng chứng để bảo vệ bị cáo trước cơ quan tố tụng, nhằm đảm bảo bị cáo được xét xử công bằng.
  • Tham gia vào quá trình điều tra: Luật sư có thể tham gia từ giai đoạn điều tra, đảm bảo rằng các chứng cứ thu thập được là hợp pháp, tránh các vi phạm quyền của bị can.

2. Quy trình dịch vụ luật sư bào chữa

  • Tiếp nhận thông tin vụ án: Khi tiếp nhận vụ án, luật sư sẽ tiến hành gặp gỡ, trao đổi với bị can, bị cáo để nắm bắt thông tin vụ việc và phân tích tình hình pháp lý.
  • Tư vấn cho thân chủ: Luật sư tư vấn về quyền lợi, nghĩa vụ của bị can, bị cáo, giải thích rõ về quy trình tố tụng, các bước tiếp theo trong vụ án.
  • Thu thập và nghiên cứu chứng cứ: Luật sư sẽ nghiên cứu hồ sơ vụ án, tìm kiếm các bằng chứng có lợi cho bị cáo, đồng thời kiểm tra tính hợp pháp của các chứng cứ buộc tội.
  • Tham gia phiên tòa bào chữa: Luật sư sẽ đại diện cho bị cáo trong các phiên tòa, đưa ra lập luận và bằng chứng để bảo vệ quyền lợi cho thân chủ, làm giảm mức độ trách nhiệm hình sự hoặc xin các tình tiết giảm nhẹ.
  • Tư vấn kháng cáo (nếu cần): Nếu bị cáo bị kết án, luật sư có thể tư vấn về việc kháng cáo và tiếp tục hỗ trợ trong giai đoạn kháng cáo.

3. Lợi ích của việc thuê luật sư bào chữa

  • Hiểu rõ quy trình pháp lý: Luật sư có kinh nghiệm và kiến thức sâu rộng về luật hình sự và các quy định liên quan, giúp bị can, bị cáo nắm bắt đúng các bước cần thiết trong vụ án.
  • Bảo vệ quyền lợi tối đa: Luật sư sẽ đại diện để đảm bảo rằng quyền lợi của thân chủ được bảo vệ trước cơ quan điều tra và tòa án.
  • Giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Qua quá trình bào chữa, luật sư có thể đưa ra các tình tiết giảm nhẹ hoặc lập luận để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
  • Tăng cơ hội xử lý công bằng: Việc có luật sư giúp cân bằng quyền lực giữa bị cáo và cơ quan tố tụng, đảm bảo vụ án được xử lý khách quan và công bằng hơn.

4. Những trường hợp cần thiết có luật sư bào chữa

  • Các vụ án hình sự nghiêm trọng, đặc biệt là các vụ án có khung hình phạt nặng như tử hình, chung thân.
  • Những vụ án có tình tiết phức tạp, đòi hỏi kiến thức chuyên sâu về pháp luật.
  • Bị can, bị cáo không tự bào chữa được do thiếu kiến thức pháp luật hoặc do các yếu tố khách quan khác.

Dịch vụ luật sư bào chữa là một phần quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của các bị can, bị cáo, giúp đảm bảo quy trình tố tụng được thực hiện đúng theo pháp luật, đồng thời giảm thiểu rủi ro về án oan hoặc xử lý không công bằng.

GIỚI THIỆU CHUYÊN TRANG LUẬT SƯ BÀO CHỮA TPHCM

TÌM THUÊ LUẬT SƯ GIỎI?

Luật sư Nguyễn Văn Phú

CEO of CÔNG TY LUẬT TNHH PHÚ & LUẬT SƯ

Điện thoại: 0922 822 466

Email: phuluatsu@gmail.com

luat su gioi tphcm

DỊCH VỤ LUẬT SƯ BÀO CHỮA HÌNH SỰ

Đánh giá post

Bài liên quan:

Tội cung cấp dịch vụ trái phép trên mạng máy tính, mạng viễn thôngTội gây rối trật tự công cộngTội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới

Từ khóa » Bọ Giết Người