Tội Khủng Bố Là Gì? - Luật Hoàng Anh

1. Căn cứ pháp lý

Điều 299 Chương XXI Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27/11/2015 ngày 27/11/2015 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 12/2017/QH14 ngày 26/06/2017 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự) quy định tội khủng bố như sau:

Điều 299. Tội khủng bố

1. Người nào nhằm gây ra tình trạng hoảng sợ trong công chúng mà xâm phạm tính mạng của người khác hoặc phá hủy tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 15 năm:

a) Thành lập, tham gia tổ chức khủng bố, tổ chức tài trợ khủng bố;

b) Cưỡng ép, lôi kéo, tuyển mộ, đào tạo, huấn luyện phần tử khủng bố; chế tạo, cung cấp vũ khí cho phần tử khủng bố;

c) Xâm phạm tự do thân thể, sức khỏe hoặc chiếm giữ, làm hư hại tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

d) Tấn công, xâm hại, cản trở, gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

3. Phạm tội trong trường hợp đe dọa thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều này hoặc có những hành vi khác uy hiếp tinh thần, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

4. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

5. Người phạm tội còn có thể bị tước một số quyền công dân, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”

2. Dấu hiệu pháp lý của tội khủng bố

2.1. Khách thể của tội phạm

Khách thể của tội phạm là trật tự, an toàn công cộng; tính mạng, sức khỏe của người khác và tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Hiến pháp 2013 ghi nhận “Mọi người có quyền sống; quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.”

2.2. Mặt khách quan của tội phạm

Hành vi khách quan của tội phạm là hành vi nhằm gây ra tình trạng hoảng sợ trong công chúng mà xâm phạm tính mạng của người khác hoặc phá hủy tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Hành khủng bố được hướng dẫn bởi Khoản 1, 2, 3, 4 Điều 3, Điều 4, Điều 5 Nghị quyết 07/2019/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 299 và 300 của Bộ luật Hình sự.

Trong đó,

“Tình trạng hoảng sợ trong công chúng” là trạng thái tâm lý lo lắng, sợ hãi, hoang mang của người dân về an toàn tính mạng, sức khỏe, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của họ (ví dụ: hành vi gây nổ ở khu vực bến xe làm cho người dân lo lắng về sự an toàn tính mạng, sức khỏe, tài sản của họ khi tham gia giao thông).

Để gây ra tình trạng hoảng sợ trong công chúng, các hành vi khủng bố có thể được thực hiện ở nơi công cộng, nơi tập trung đông người (ví dụ: quảng trường, trung tâm thương mại, nơi giao cắt đường giao thông, tại nhà ga các phương tiện giao thông, trên các phương tiện giao thông, tại các nơi vui chơi, giải trí, du lịch, trường học, bệnh viện, khu dân cư, tại các tòa nhà,...).

Hành vi được thực hiện ở những địa điểm có tính biệt lập, không phải nơi công cộng (ví dụ: tại nhà riêng hoặc trong trụ sở cơ quan...) nhưng nhằm gây ra tình trạng hoảng sợ trong công chúng thì cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội khủng bố theo Điều 299 của Bộ luật Hình sự nếu thỏa mãn các dấu hiệu khác của cấu thành tội phạm này.

“Phá hủy tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân” là hành vi làm cho tài sản mất giá trị sử dụng, không thể khôi phục lại được.

Ngoài ra, xâm phạm tính mạng người khác là hành vi dùng vũ lực gây làm cho người bị hại chết hoặc bị tổn hại nghiêm trọng đến sức khỏe của họ.

Điều 299 Bộ luật hình sự còn quy định thêm ba hành vi phạm tội khủng bố là hành vi chuẩn bị phạm tội (Khoản 4), hành vi đe dọa thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều này và hành vi khác uy hiếp tinh thần (Khoản 3).

Theo quy định tại Điều 14 Bộ luật Hình sự, Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm hoặc thành lập, tham gia nhóm tội phạm.

“Hành vi đe dọa thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều này” có thể được thực hiện bằng lời nói, gửi tin nhắn, hình ảnh hoặc bằng các hành vi khác làm cho cơ quan, tổ chức, cá nhân biết được và lo sợ về sự an toàn tính mạng, sức khỏe, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của họ.

“Hành vi khác uy hiếp tinh thần” là hành vi lôi kéo, kích động, cổ vũ, khuyến khích, tạo điều kiện đe dọa xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tự do thân thể, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người bị uy hiếp hoặc đe dọa xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tự do thân thể, tài sản, danh dự, nhân phẩm của thân nhân người bị uy hiếp hoặc các hành vi khác nhằm làm cho người bị uy hiếp lo sợ, cản trở khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của họ một cách bình thường.

Hậu quả không phải dấu hiệu bắt buộc của tội phạm. Tội phạm được coi là hoàn thành kể từ thời điểm hành vi khách quan quy định tại Khoản 1 Điều 299 Bộ luật Hình sự xảy ra.

2.3. Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội phạm phải là người từ đủ 14 tuổi trở lên và có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự.

Bộ luật Hình sự không quy định thế nào là năng lực trách nhiệm hình sự nhưng có quy định loại trừ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự tại Điều 21 Bộ luật Hình sự. Theo đó, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, người có năng lực trách nhiệm hình sự phải là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi có năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình.

Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự. Người từ đủ 16 tuổi sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi loại tội. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một số điều 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 thuộc Chương XXI Bộ luật hình sự. Khoản 1 và Khoản 2 Điều 299 quy định tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Do khung hình phạt cao nhất theo Khoản 1 là tù chung thân, tử hình và Khung hình phạt cao nhất theo Khoản 2 là 15 năm tù. Còn Khoản 3 Điều này quy định trường hợp đe dọa thực hiện tội phạm, có khung hình phạt cao nhất là 7 năm tù và trường hợp chuẩn bị phạm thội theo Khoản 4 có khung hình phạt cao nhất là 5 năm tù đều thuộc loại tội nghiêm trọng. Vì vậy, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự với tội phạm tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều 299 còn người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự với mọi loại tội.

2.4. Mặt chủ quan của tội phạm

Tội khủng bố được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức được hành vi khách quan là hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn mong muốn thực hiện để hậu quả của nó xảy ra.

Người phạm tội có thể có nhiều mục đích khách nhau nhưng không phải mục đích chống chính quyền nhân dân. Nếu người thực hiện hành vi khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân thì không bị xét xử về tội này, người phạm tội sẽ bị xét xử về tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân tại Điều 113 Bộ luật hình sự.

3. Hình phạt đối với người phạm tội khủng bố

Điều 299 Bộ luật Hình sự quy định 05 Khung hình phạt đối cá nhân phạm tội như sau:

- Người nào nhằm gây ra tình trạng hoảng sợ trong công chúng mà xâm phạm tính mạng của người khác hoặc phá hủy tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.

- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 15 năm:

a) Thành lập, tham gia tổ chức khủng bố, tổ chức tài trợ khủng bố;

b) Cưỡng ép, lôi kéo, tuyển mộ, đào tạo, huấn luyện phần tử khủng bố; chế tạo, cung cấp vũ khí cho phần tử khủng bố;

c) Xâm phạm tự do thân thể, sức khỏe hoặc chiếm giữ, làm hư hại tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

d) Tấn công, xâm hại, cản trở, gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

- Phạm tội trong trường hợp đe dọa thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều này hoặc có những hành vi khác uy hiếp tinh thần, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

- Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

- Khung hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị tước một số quyền công dân, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Xem thêm: Tổng hợp các bài viết về Bộ luật Hình sự

Luật Hoàng Anh

Từ khóa » To Khủng Bố Là Gì