Tội Lợi Dụng Các Quyền Tự Do Dân Chủ Xâm Phạm ... - Luật Hoàng Anh

Căn cứ pháp lý dựa theo điều 331 bộ luật hình sự

Điều 331 Chương XXII Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27/11/2015 ngày 27/11/2015 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 12/2017/QH14 ngày 26/06/2017 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự) quy định tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân như sau:

Điều 331. Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân

1. Người nào lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

2. Phạm tội gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.”

Dấu hiệu pháp lý của tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân

Khách thể của tội phạm

Khách thể của tội phạm này là lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Các lợi ích này có thể là lợi ích vật chất hoặc phi vật chất.

>>> XEM NGAY: Dịch vụ luật hình sự uy tín số 1

Hiến pháp năm 2013 quy định tại Điều 24 và Điều 30 như sau:

“Điều 24.

1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật.

2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật.”

“Điều 30.

...

3. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác.”

Mặt khách quan của tội phạm

Người thực hiện hành vi lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân có thể thực hiện một trong các hành vi như: lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.

- Lợi dụng quyền tự do ngôn luận xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.

Tự do ngôn luận là quyền do Hiến pháp quy định, cho phép mọi công dân được phát biểu, bày tỏ ý kiến về những vấn đề của đất nước trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội... một cách công khai, rộng rãi theo quan điểm cá nhân mình, nhưng không được lợi dụng việc phát biểu, bày tỏ ý kiến để xâm phạm đến xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.

- Lợi dụng quyền tự do báo chí xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.

Tự do báo chí cũng là quyền do Hiến pháp quy định và Luật báo chí quy định. Hành vi lợi dụng quyền tự do báo chí có thể là của những người hoạt động trong các cơ quan báo chí, nhưng cũng có thể là người khác. Tuy nhiên, người khác muốn lợi dụng quyền tự do báo chí thì phải thông đồng, móc ngoặc với người trong cơ quan báo chí mới thực hiện được ý đồ của mình.

Hành vi xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân cũng rất đa dạng, có thể là viết sai, vu khống, xuyên tạc sự thật hướng dư luận hiểu và làm theo nội dung bài viết, bài nói của mình. Thực tiễn cho thấy nhiều trường hợp chỉ vì một bài báo mà đã gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng cho Nhà nước, tổ chức hoặc công dân.

Việc xác định hành vi lợi dụng quyền tự do báo chí đã xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân hay chưa, cần phải xem xét một cách toàn diện, căn cứ vào tình hình chính trị, kinh tế, xã hội và yêu cầu bảo vệ các lợi ích đó, vì những lợi ích này chủ yếu là lợi ích phi vật chất.

- Lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.

Tự do tín ngưỡng, tôn giáo cũng là quyền được Hiến pháp quy định. Quyền này cho phép Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước.

Người có hành vi lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo thường là người theo một tôn giáo nhất định như: Công giáo (Thiên chúa giáo), Tin Lành, Đạo phật, Đạo Cao Đài, Đạo Hoà Hảo... Tuy nhiên, những người không theo một tôn giáo nào cũng có thể lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.

Lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là hành vi của người theo hoặc không một tôn giáo đã lợi dụng quyền mà pháp luật quy định để có những hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.

Lợi dụng cũng là hành vi, nhưng hành vi này được biểu hiện như là một thủ đoạn phạm tội và thủ đoạn này được thể hiện ở những hành vi xâm phạm, thông qua hành vi xâm phạm mà xác định người phạm tội có lợi dụng. Ví dụ: Một linh mục khi làm lễ tại nhà thờ đã lợi dụng việc làm lễ để vận động các giáo dân không đi bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp và do việc vận động của vị Linh mục này nên nhiều giáo dân đã không đi bỏ phiếu bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp.

- Lợi dụng quyền tự do hội họp xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.

Quyền tự do hội họp cũng là quyền được quy định tại Hiến pháp năm 2013.Quyền tự do hội họp của công dân được biểu hiện ở việc tổ chức hoặc tham gia các cuộc mít tinh, biểu tình; các cuộc họp do các cơ quan, tổ chức chủ trì hoặc do một nhóm người tụ tập để bàn hoặc giải quyết một công việc nào đó như: Họp đồng hương, họp lớp, họp tổ sản xuất, họp tổ dân phố.v.v...

Hành vi lợi dụng quyền tự do hội họp là mượn cớ hội họp để bàn bạc, quyết định những vấn đề mà pháp luật cấm hoặc mượn cớ hội họp để có những hành động gây rối trật tự công cộng, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.

- Lợi dụng quyền tự do lập hội xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.

Quyền tự do lập hội thông thường đi liền với quyền tự do hội họp, lập hội là tiền đề của hội họp, còn hội họp là kết qủa của việc lập hội. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp hội họp và lập hội không có liên quan với nhau; có trường hợp hội họp không phải là kết quả của lập hội, ngược lại lập hội nhưng không hội họp vẫn có thể xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.

Hiện nay, trên đất nước ta có nhiều Hội như: Hội luật gia, Hội cựu chiến binh, Hội phụ nữ, Hội sinh viên, Hội chữ thập đỏ, Hội văn học nghệ thuật, Hội người mù, Hội làm vườn.v.v... Xã hội càng phát triển thì các tổ chức Hội càng được thành lập rộng khắp. Có nhiều tổ chức Hội, việc thành lập và hoạt động như là một thành viên, một tổ chức trong hệ thống chính trị, là thành viên của Mặt trận tổ quốc, nhưng cũng có nhiều Hội không phải là thành viên của mặt trận, tổ chức và hoạt động cũng không có điều lệ mà chỉ do tự phát như: Hội đồng hương, Hội đồng niên, Hội đồng môn... Tuy không được thành lập theo một quyết định của cơ quan có thẩm quyền, nhưng các hội này không bị coi là trái pháp luật.

- Lợi dụng quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.

Quyền tự do dân chủ khác ở đây được hiểu là ngoài các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội đã được liệt kê trong điều luật. Các quyền tự do dân chủ khác có thể được quy định trong Hiến pháp hoặc được quy định trong các Luật, Pháp lệnh, Nghị quyết của Quốc hội, Nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Nghị định của Chính phủ... Tuy nhiên, các quyền tự do dân chủ của công dân hầu hết đã dược quy định trong Hiến pháp, nếu các văn bản pháp luật khác có quy định cũng chỉ cụ thể hoá các quyền đã được Hiến pháp quy định.

Hậu quả của hành vi lợi dụng các quyền tự do dân chủ là những thiệt hại đã gây ra hoặc đe doạ gây ra những thiệt hại về vật chất và tinh thần cho Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.

Tội phạm hoàn thành kể từ thời điểm có hành vi khách quan nêu trên xảy ra.

Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của các tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân có thể là bất kì ai. Họ có thể là người Việt Nam, người nước ngoài hoặc người không quốc tịch. Người phạm tội có thể thực hiện tội phạm một mình hoặc có đồng phạm.

Người đồng phạm bao gồm người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức.

Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.

Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.

Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.

Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.

Ngoài ra, chủ thể của tội phạm phải thỏa mãn điều điện là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên.

Bộ luật Hình sự không quy định thế nào là năng lực trách nhiệm hình sự nhưng có quy định loại trừ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự tại Điều 21 Bộ luật Hình sự. Theo đó, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, người có năng lực trách nhiệm hình sự phải là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi có năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình.

Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự. Người từ đủ 16 tuổi sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi loại tội. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một số điều nhưng không có điều nào thuộc Chương XXII Bộ luật hình sự. Như vậy chủ thể của tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân là người từ đủ 16 tuổi trở lên.

Mặt chủ quan của tội phạm

Người phạm tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân thực hiện hành vi do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi của mình xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra hoặc thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.

Người phạm tội có thể vì động cơ, mục đích cũng khác nhau tuỳ thuộc vào hành vi lợi dụng quyền cụ thể và ý thức của người phạm tội xâm phạm đến lợi ích nào. Việc xác định động cơ, mục đích đối với tội phạm này là rất quan trọng vì nó là dấu hiệu để phân biệt với các hành vi tương tự nhưng nhằm mục đích chống chính quyền nhân dân quy định tại Chương XIII- Các tội xâm phạm an ninh quốc gia.

Hình phạt đối với người phạm tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân

Điều 331 Bộ luật Hình sự quy định 02 Khung hình phạt đối với người phạm tội như sau:

- Người nào lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

- Phạm tội gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

>>>Xem thêm: Tổng hợp các bài viết về Bộ luật Hình sự

Luật Hoàng Anh

Từ khóa » Tội 331