Tông Huấn Amoris Laetitia -CHƯƠNG VIII VIỆC ĐỒNG HÀNH ...

291. Các Nghị phụ Thượng Hội đồng đã khẳng định cho dẫu Hội thánh nói rằng mọi cắt đứt ràng buộc hôn phối đều “chống lại ý muốn của Thiên Chúa, nhưng cũng ý thức nhiều con cái mình đang sống trong hoàn cảnh chông chênh”[1]. Được soi sáng bởi cái nhìn của Đức Kitô, “Hội thánh thương yêu ghé mắt đến những anh chị em đang tham dự vào đời sống của Hội thánh một cách không trọn vẹn, trong khi nhìn nhận rằng ân sủng của Chúa cũng hoạt động trong cuộc đời của họ bằng cách ban cho họ sức mạnh để làm điều thiện, để chăm sóc cho nhau bằng tình yêu thương và phục vụ cộng đoàn nơi họ sinh sống và làm việc”[2]. Đàng khác, thái độ này được thúc đẩy thêm trong bối cảnh của Năm Thánh dành riêng cho lòng thương xót. Mặc dù Hội thánh luôn đề xướng sự hoàn thiện và mời gọi đáp lại Thiên Chúa cách trọn vẹn hơn, “Hội thánh cũng phải đồng hành bằng sự ân cần chăm sóc những đứa con yếu đuối nhất của mình, vốn ghi dấu bởi tình yêu bị tổn thương và lạc lối, bằng cách khôi phục lại cho họ niềm tin và hi vọng, như ánh sáng của một ngọn hải đăng hoặc một ngọn đuốc được đặt giữa mọi người hầu soi sáng cho những người đã lầm đường lạc lối hoặc đang ở giữa bão tố cuộc đời”[3]. Chúng ta đừng quên rằng thường công việc của Hội thánh giống như công việc của một bệnh viện dã chiến.

292. Hôn nhân Kitô giáo, phản ánh sự kết hợp giữa Đức Kitô và Hội thánh của Người, được thực hiện một cách trọn vẹn trong sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ, họ hiến thân cho nhau trong một tình yêu độc hữu và sự trung thành trong tự do, họ thuộc về nhau cho đến chết và mở ra cho việc truyền sinh, họ được thánh hiến bởi bí tích trao ban ân sủng để xây dựng một Hội thánh tại gia và men của sự sống mới cho xã hội. Các hình thức kết hợp khác đều hoàn toàn nghịch lại với lí tưởng này, trong khi một số người lại thực hiện lí tưởng này ít là một cách phiếm diện hay loại suy. Các Nghị phụ Thượng Hội đồng đã khẳng định rằng Hội thánh không xem nhẹ các yếu tố mang tính xây dựng trong những hoàn cảnh chưa phù hợp hoặc không còn phù hợp với giáo huấn của mình về hôn nhân[4].

Tiệm tiến trong mục vụ

293. Các Nghị phụ cũng xem xét hoàn cảnh đặc biệt của một cuộc hôn nhân thuần túy dân sự hoặc thậm chí, ở đây cần có sự phân biệt, chỉ là một sự sống chung, trong đó “khi sự kết hợp đạt đến một sự ổn định đáng kể qua một mối liên kết công khai nào đó, chứng tỏ có một tình cảm sâu nặng và trách nhiệm đối với con cái, có khả năng vượt qua các thử thách, thì có thể được xem như một cơ hội đồng hành nhằm phát triển đến bí tích hôn phối”[5]. Đàng khác, điều đáng lo ngại là ngày nay nhiều người trẻ không tin tưởng vào hôn nhân và họ sống chung nhưng trì hoãn vô thời hạn việc cam kết hôn nhân, trong khi những người khác chấm dứt sự cam kết mình đã đảm nhận để rồi lập tức làm một sự cam kết mới. Những ai “là thành phần thuộc Hội thánh thì cần được quan tâm chăm sóc mục vụ với đầy lòng thương xót và khích lệ”[6]. Thật vậy, các Mục tử không những chỉ quan tâm thăng tiến hôn nhân Kitô giáo, mà còn phải lo “phân định mục vụ về hoàn cảnh của nhiều người không còn sống thực tại ấy”, để “đi vào đối thoại mục vụ với những người này nhằm xác định rõ ràng các yếu tố của đời sống họ có thể dẫn đến một sự cởi mở hơn với Tin mừng về hôn nhân ở mức trọn vẹn của nó”[7]. Trong việc phân định mục vụ này cần “nhận diện các yếu tố có thể thúc đẩy việc Phúc Âm hóa và phát triển nhân bản cũng như thiêng liêng”[8].

294. “Người ta lựa chọn hôn nhân dân sự hoặc, trong một số trường hợp khác nhau, đơn giản chỉ là sống chung, thường không bị thúc đẩy bởi thành kiến ​​hay phản kháng đối với kết hợp bí tích, nhưng do hoàn cảnh văn hóa hay ngẫu nhiên”[9]. Trong những hoàn cảnh này ta có thể trân trọng những dấu chỉ của tình yêu, một cách nào đó chúng phản ánh tình yêu của Thiên Chúa[10]. Chúng ta biết “liên tục ngày càng có nhiều người, sau một thời gian dài sống chung với nhau, xin cử hành hôn phối trong nhà thờ. Việc đơn thuần sống chung thường là sự chọn lựa bởi tâm thức phổ biến đó là chống lại các định chế và những dấn thân dứt khoát, nhưng cũng vì muốn chờ đợi cho tới khi một cuộc sống Ổn định hơn (có việc làm và mức lương cố định). Sau hết, tại một số quốc gia, những sự kết hợp trên thực tế có rất nhiều, không chỉ vì họ bác bỏ các giá trị của gia đình và hôn nhân, nhưng nhất là vì việc kết hôn được xem là một việc rất tốn kém, do những hoàn cảnh xã hội, như thế sự khó nghèo vật chất đã đưa đẩy họ đến chỗ sống kết hợp trên thực tế”[11]. Dù sao đi nữa, “tất cả những hoàn cảnh này cần phải được đối diện giải quyết một cách xây dựng, bằng cách biến chúng thành những cơ hội để tiến dần tới hôn nhân và gia đình trọn vẹn trong ánh sáng của Tin mừng. Điều quan trọng là đón nhận và đồng hành với họ bằng sự kiên nhẫn và tế nhị”[12]. Đó là điều mà Đức Giêsu đã làm với người phụ nữ Samaria (Ga 4,1-26): Người đề cập đến khát vọng tình yêu đích thực của chị, để giải thoát chị khỏi những gì làm u tối cuộc đời chị và đưa chị đến niềm vui trọn vẹn của Tin mừng.

295. Theo hướng đó, Thánh Gioan Phaolô II đề nghị điều gọi là “luật tiệm tiến”, với nhận thức rằng con người “hiểu biết, yêu mến và thực thi sự thiện luân lí theo những giai đoạn phát triển khác nhau”[13]. Đó không phải là một “sự tiệm tiến của luật”, nhưng là một sự tiệm tiến trong việc thực hiện cách khôn ngoan những hành động tự do nơi những chủ thể không ở trong điều kiện hiểu biết, đánh giá hoặc thực hành cách đầy đủ các đòi hỏi khách quan của luật. Bởi vì ngay cả luật cũng là quà tặng của Thiên Chúa nhằm để chỉ đường, một quà tặng cho tất cả mọi người không trừ một ai để người ta có thể sống với sự trợ giúp của ân sủng, dẫu rằng mỗi người “từ từ thẳng tiến, bằng việc hội nhập dần dần giữa các ơn huệ của Thiên Chúa với những đòi hỏi của tình yêu dứt khoát và tuyệt đối của Ngài vào trong toàn thể đời sống cá nhân và xã hội của con người”[14].

Phân định những hoàn cảnh “bất qui tắc”[15]

296. Thượng Hội đồng đã đề cập đến những hoàn cảnh khác nhau của con người mỏng manh hay bất toàn. Về vấn đề này, ở đây tôi muốn nhắc lại điều mà tôi đã muốn làm sáng tỏ cho toàn thể Hội thánh, để tránh đi lạc đường: “có hai dòng suy nghĩ vẫn lưu chuyển trong toàn bộ lịch sử của Hội thánh: loại trừ và tái hòa nhập [...]. Con đường của Hội thánh, kể từ Công Đồng Giêrusalem trở đi, luôn là con đường của Đức Giêsu: con đường của lòng thương xót và của sự hòa nhập [...]. Con đường của Hội thánh là không lên án vĩnh viễn bất cứ ai; là con đường tuôn đổ lòng thương xót của Thiên Chúa cho tất cả những ai thành tâm kêu xin [...]. Vì bác ái đích thực luôn vô cùng đại lượng, vô điều kiện và vô cầu”[16]. Vì thế, “cần phải tránh những phán quyết mà không xét đến tính phức tạp của các hoàn cảnh khác nhau, và cần phải lưu tâm tới cách thế mà người ta đang sống và khốn khổ vì điều kiện sống của họ”[17].

297. Điều quan trọng là làm sao hội nhập hết mọi người, phải giúp mỗi người tìm ra cách thế riêng để tham dự vào cộng đoàn Hội thánh, để họ cảm thấy mình được chạm đến bởi một lòng thương xót “vô cùng đại lượng, vô điều kiện và vô cầu”. Không ai có thể bị kết án mãi mãi, bởi vì đó không phải là lối suy nghĩ của Tin mừng! Tôi không chỉ muốn nói đến những người đã li dị và đang sống một sự kết hợp mới, nhưng nói với mọi người, đang sống trong bất cứ hoàn cảnh nào. Tất nhiên, nếu ai đó phơi bày một tội khách quan như thể đó là một phần của lí tưởng Kitô giáo, hoặc muốn áp đặt một điều gì đó khác với những gì Hội thánh dạy, thì người ấy không thể tự cho là mình đang dạy giáo lí hay rao giảng, và theo nghĩa đó thì người ấy một cách nào đó đã tách mình ra khỏi cộng đoàn (cf. Mt 18,17). Người ấy cần phải nghe loan báo lại sứ điệp Tin mừng và được mời gọi hoán cải. Thế nhưng, ngay cả đối với một người như thế, vẫn có thể có một cách nào đó để họ tham gia vào đời sống của cộng đoàn, ví dụ như: dấn thân trong các công tác xã hội, trong các buổi hội họp cầu nguyện, hoặc theo cách nào đó do sáng kiến ​​cá nhân người ấy có thể đề nghị, cùng với sự phân định của vị Mục tử. Về cách xử lý những hoàn cảnh được gọi là “bất qui tắc”, các Nghị phụ Thượng Hội đồng đã đạt đến một sự đồng thuận chung mà tôi ủng hộ: “Khi xét đến đường lối mục vụ dành cho những người đã kí kết hôn phối dân sự, những người đã li dị và tái hôn, hoặc chỉ đơn thuần là sống chung, Hội thánh phải giúp cho họ hiểu khoa sư phạm ân sủng Thiên Chúa trong đời sống của họ và giúp họ đạt đến sự viên mãn của kế hoạch Thiên Chúa nơi họ”[18], điều này luôn khả thi nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần.

298. Những người li dị và đang sống một sự kết hợp mới, chẳng hạn, có thể thuộc về nhiều hoàn cảnh rất khác nhau, dù vậy ta cũng không nên phân loại xếp hạng mục hoặc khép họ vào những phạm trù quá cứng nhắc đến nỗi không còn chỗ cho một phân định cá nhân và mục vụ phù hợp. Một sự kiện có thể xảy ra là sự kết hợp lần thứ hai đã ổn định theo thời gian, với những đứa con mới, chứng tỏ có sự trung thành, có sự cống hiến quảng đại, dấn thân sống đức tin Kitô giáo, ý thức tình trạng bất qui tắc của mình và rất khó quay trở lại mà lương tâm không cảm thấy rằng mình không thể tránh khỏi lại rơi vào những sai lỗi mới. Hội thánh nhận biết những hoàn cảnh trong đó “người nam và người nữ, vì những lí do hệ trọng – như nuôi dạy con cái – không thể thỏa mãn sự đòi buộc phải chia tay”[19]. Cũng một trường hợp của những người đã nỗ lực nhiều để cứu cuộc hôn nhân đầu tiên của họ và đã bị bỏ rơi một cách bất công, hoặc trường hợp của “những người đã kí kết một kết ước thứ hai nhằm mục đích nuôi dạy con cái, và đôi khi trong lương tâm họ chủ quan tin rằng cuộc hôn nhân trước đây của họ đã đổ vỡ vô phương cứu vãn, chưa bao giờ thành sự”[20]. Có một trường hợp khác nữa, đó là một sự kết hợp mới xảy ra từ một cuộc li dị chưa lâu, với tất cả những hậu quả của khổ đau và hoang mang gây ra cho con cái và toàn thể gia đình, hoặc trường hợp của một người liên tục bỏ bê bổn phận gia đình. Cần phải thấy rõ rằng đó không phải là lí tưởng mà Tin mừng đề ra cho hôn nhân và gia đình. Các Nghị phụ Thượng Hội đồng đã khẳng định rằng các Mục tử phải luôn luôn làm sao để “phân định thật thích đáng”[21], với một cái nhìn phân định rõ ràng các hoàn cảnh[22]. Chúng ta biết rằng không có “những toa thuốc đơn giản”[23].

299. Tôi đồng ý với những nhận định của nhiều Nghị phụ Thượng Hội đồng, các ngài muốn khẳng định rằng “những người đã được rửa tội mà li dị và tái hôn về mặt dân sự cần phải được hội nhập nhiều hơn vào cộng đoàn Kitô hữu theo nhiều cách khác nhau, trong khi tránh mọi dịp gây gương xấu. Lí do của việc hội nhập là chìa khóa cho việc đồng hành mục vụ với họ, để không những họ biết mình thuộc về Thân Thể Chúa Kitô, là Hội thánh, mà còn có thể có một kinh nghiệm thuộc về Hội thánh tràn đầy niềm vui và sinh nhiều hoa trái. Họ là những người đã được rửa tội, là anh chị em, những người Chúa Thánh Thần đổ xuống muôn vàn ơn huệ và đặc sủng vì thiện ích của mọi người. Họ có thể tham gia vào nhiều việc phục vụ khác nhau trong Hội thánh: do đó, cần phân định xem có thể vượt qua những hình thức loại trừ nào đang được thi hành trong lãnh vực phụng vụ, mục vụ, giáo dục và cơ chế. Không những không được làm cho họ cảm thấy bị dứt phép thông công, mà còn phải làm cho họ cảm thấy có thể sống và trưởng thành như những thành viên sống động của Hội thánh, cảm thấy Hội thánh như một người Mẹ luôn đón nhận họ, ân cần trìu mến chăm sóc họ và khích lệ họ trên hành trình cuộc sống và Tin mừng. Việc hội nhập này cũng cần thiết cho việc chăm sóc và giáo dục đức tin Kitô giáo cho con cái họ, là những đối tượng phải được xem là quan trọng nhất”[24].

300. Nếu chúng ta xét đến rất nhiều hoàn cảnh cụ thể khác nhau, như những hoàn cảnh mà chúng tôi đã đề cập ở trên, thì có thể hiểu được rằng không nên mong đợi từ Thượng Hội đồng hoặc từ Tông Huấn này một khoản luật chung mới về Giáo luật, có thể áp dụng cho tất cả các trường hợp. Ở đây chỉ có thể là một sự khích lệ mới, cổ võ một sự phân định cá nhân và mục vụ, với tinh thần trách nhiệm, các trường hợp đặc biệt, trong đó ta phải nhìn nhận rằng, vì “mức độ trách nhiệm không như nhau trong mọi trường hợp”[25], nên các hệ quả hoặc các hiệu quả của một luật lệ không nhất thiết phải luôn giống nhau[26]. Các linh mục có nhiệm vụ “đồng hành với những người có liên hệ trên con đường phân định dựa theo giáo huấn của Hội thánh và những hướng dẫn của Giám mục. Trong tiến trình này sẽ rất hữu ích nếu ta thực hiện một cuộc xét mình, qua những lúc hồi tâm và thống hối. Những người li dị tái hôn nên tự hỏi xem mình đã sống thế nào đối với con cái khi mối liên kết vợ chồng đi vào khủng hoảng; tự hỏi xem mình đã có những nỗ lực hòa giải hay không; xem người phối ngẫu bị bỏ rơi đang sống thế nào; mối quan hệ mới có những hậu quả gì trên những người khác trong gia đình và cộng đoàn tín hữu; xét xem mẫu gương nào mình đang cống hiến cho các bạn trẻ đang chuẩn bị hôn nhân. Một sự hồi tâm chân thành có thể củng cố niềm tin vào lòng thương xót của Thiên Chúa vốn không từ chối bất cứ ai”[27]. Vấn đề là một lộ trình đồng hành và phân định nhằm hướng dẫn các tín hữu này đi đến ý thức về tình trạng của họ trước mặt Thiên Chúa. Trao đổi với linh mục, ở tòa trong, sẽ góp phần đào luyện một phán đoán đúng đắn về những gì gây cản trở cho khả năng tham dự đầy đủ hơn vào đời sống của Hội thánh, và về các bước có thể xúc tiến và phát triển khả năng đó. Đành rằng trong chính lề luật không có sự tiệm tiến (cf. Familiaris Consortio, 34), nhưng việc phân định này sẽ không bao giờ được phép bỏ qua những yêu sách của sự thật và bác ái theo Tin mừng như Hội thánh đề nghị. Để có được sự phân định ấy, phải bảo đảm có các điều kiện cần thiết sau đây, đó là: sự khiêm tốn, cẩn trọng, lòng yêu mến Hội thánh và giáo huấn của Hội thánh, trong tâm thành tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa và khao khát đáp lại thánh ý Ngài cách hoàn hảo hơn”[28]. Đó là những thái độ cơ bản thiết yếu để tránh những nguy cơ nghiêm trọng của việc hiểu sai lệch, chẳng hạn như cho rằng một linh mục có thể dễ dàng chuẩn chước cho các trường hợp “ngoại lệ”, hoặc cho rằng một số người có thể nhận được đặc ân bí tích bằng cách mua chuộc. Khi một người có trách nhiệm và thận trọng, nghĩa là người đó không có ý đặt những ước muốn riêng của mình trên lợi ích chung của Hội thánh, gặp một Mục tử biết nhận ra tính nghiêm túc của vấn đề mà mình đang phải giải quyết, thì tránh được nguy hiểm khi làm một sự phân định nào đó mà người ta có thể nghĩ rằng Hội thánh ủng hộ một nền luân lí hai mặt.

Những hoàn cảnh giảm khinh trong việc phân định mục vụ

301. Để hiểu cho đúng tại sao có thể và cần phải có một sự phân định đặc biệt trong một số hoàn cảnh gọi là “bất qui tắc”, có một vấn đề ta luôn phải lưu ý, đó là làm sao để đừng bao giờ làm cho người ta nghĩ rằng mình muốn giảm thiểu những đòi hỏi của Tin mừng. Hội thánh có một lối suy tư vững chắc về những điều kiện và những hoàn cảnh giảm khinh. Bởi thế, người ta không thể nói rằng tất cả những người đang ở trong một hoàn cảnh gọi là “trái qui tắc” là đang sống trong tình trạng tội trọng, mất đi ơn thánh hóa. Các giới hạn đó không chỉ tùy thuộc vào sự thiếu hiểu biết về luật. Một người, dù biết rõ luật, cũng có thể gặp khó khăn lớn trong việc hiểu biết “các giá trị hàm ẩn trong nguyên tắc luân lí”[29], hoặc có thể đương sự đang ở trong các điều kiện cụ thể không cho phép người ấy hành động khác đi và có những quyết định khác mà không mắc một tội mới. Như các Nghị phụ Thượng Hội đồng đã nói rõ “có thể có những nhân tố làm giới hạn khả năng quyết định”[30]. Thánh Tôma Aquinô đã nhìn nhận rằng một người có thể có ân sủng và đức ái, nhưng không thể thi hành tốt một vài nhân đức[31], nói cách khác, ngay cả khi người ấy sở hữu tất cả các nhân đức luân lí được ban cho, anh cũng không thể hiện rõ nét một nhân đức nào đó trong số đó, bởi vì việc thực hành bên ngoài nhân đức ấy gặp khó khăn: “Người ta nói rằng một vài vị thánh không có một số nhân đức nhất định, chính vì các ngài gặp khó khăn trong việc thể hiện bằng hành vi về các nhân đức ấy, [...] cho dù các ngài có các nhân đức khác”[32].

302. Về những yếu tố điều kiện hóa này, Sách Giáo Lí Hội thánh Công Giáo diễn tả rõ ràng: “Việc quy tội và trách nhiệm một hành động nào đó có thể được giảm thiểu và thậm chí có thể được loại bỏ vì lý do không biết, không chú ý, do áp lực, do cưỡng ép, do sợ hãi, do thói quen, do quá gắn bó và do các nguyên nhân khác về tâm thần hoặc xã hội”[33]. Trong một đoạn văn khác sách Giáo Lí cũng đề cập đến những hoàn cảnh làm giảm nhẹ trách nhiệm luân lí, và đề cập khá dài, về sự thiếu trưởng thành tình cảm, áp lực của các thói quen thủ đắc, tâm trạng lo âu hoặc các yếu tố khác về tâm lí hoặc xã hội[34]. Do đó, một phán quyết tiêu cực về một hoàn cảnh khách quan không bao hàm một phán quyết về việc quy trách nhiệm hoặc mức phạm lỗi của người liên hệ[35]. Trong bối cảnh của những xác tín này, tôi xét thấy rất thích hợp những điều mà nhiều Nghị phụ Thượng Hội đồng đã muốn ủng hộ: “Trong một số hoàn cảnh nhất định người ta thấy rất khó hành động cách khác. [...] Việc phân định mục vụ, trong khi có lưu ý đến lương tâm được đào tạo đúng đắn của con người, còn phải xét đến những hoàn cảnh này nữa. Những hậu quả về những hành vi đã làm cũng không nhất thiết phải giống nhau trong tất cả các trường hợp”[36].

303. Khởi đi từ việc nhìn nhận mức ảnh hưởng của những yếu tố cụ thể của hoàn cảnh, đối với một số hoàn cảnh mà người ta không thể hiện một cách khách quan về quan niệm hôn nhân của chúng ta được, thì trong thực hành, Hội thánh cần xét đến lương tâm của người ta nhiều hơn. Tất nhiên chúng ta cần khuyến khích sự trưởng thành của một lương tâm được khai sáng, được huấn luyện và được đồng hành nhờ sự phân định có trách nhiệm và nghiêm túc của người Mục tử, và khích lệ ngày càng tin tưởng hơn nữa vào ơn sủng Chúa. Thế nhưng lương tâm này có thể nhận ra không chỉ có một hoàn cảnh không phù hợp cách khách quan với các đòi hỏi chung của Tin mừng; lương tâm đó cũng có thể nhận ra trong sự chân thành và trung thực điều mà lúc này đây có thể dâng lên Thiên Chúa đó là một sự đáp trả quảng đại, và việc khám phá với một sự chắc chắn luân lí nào đó chính là sự dâng hiến mà Thiên Chúa đang mời gọi giữa bao giới hạn của hoàn cảnh cụ thể phức tạp, dẫu nó chưa hoàn toàn là lí tưởng khách quan. Dù sao đi nữa, chúng ta hãy nhớ rằng sự phân định này có tính chất năng động và phải luôn mở ra cho những giai đoạn phát triển mới và những quyết định mới giúp thực hiện lí tưởng được trọn vẹn hơn.

Luật lệ và sự phân định

304. Quả là hạn hẹp khi chỉ dừng lại xét xem liệu hành động của một người có phù hợp với một khoản luật hoặc một qui tắc chung hay không, bởi lẽ điều đó không đủ để phân định và bảo đảm một sự trung tín trọn vẹn với Thiên Chúa trong cuộc sống cụ thể của một con người. Tôi tha thiết xin chúng ta luôn nhớ điều thánh Tôma Aquinô dạy và học biết vận dụng vào việc phân định mục vụ của mình: “Dẫu rằng có sự tất yếu nào đó trong những nguyên tắc chung, nhưng càng đi vào những trường hợp riêng biệt, càng gặp thấy điều bất tất. [...] Trong lãnh vực thực hành, chân lí hoặc qui luật thực hành thì không như nhau đối với mọi người trong những áp dụng riêng, mà chỉ đúng cho các nguyên tắc chung thôi; và ngay cả nơi những người chấp nhận cùng một qui luật thực hành như nhau trong những trường hợp riêng, qui luật ấy cũng không phải được mọi người biết đến [...]. Và càng gia tăng điều bất định nếu càng đi sâu vào cái đặc thù”[37]. Đúng là các qui luật chung nói lên một thiện ích mà chúng ta không bao giờ được xem thường hay bỏ qua, nhưng trong công thức, chúng không thể bao trọn tuyệt đối mọi hoàn cảnh đặc thù. Đồng thời, phải nói rằng, chính vì lí do này, những gì là thành phần làm nên sự phân định thực tế trước một hoàn cảnh riêng không thể nâng lên mức độ của một qui luật. Điều đó sẽ không những làm nảy sinh một kiểu giải nố không chấp nhận được, mà còn đe dọa các giá trị mà ta phải đặc biệt quan tâm gìn giữ[38].

305. Bởi thế, một Mục tử không thể cảm thấy hài lòng chỉ bằng cách áp dụng cho những người sống trong những hoàn cảnh “bất qui tắc” các luật luân lí, như những viên đá ném vào cuộc sống của con người. Đó là trường hợp của những cõi lòng khép kín, thường ẩn nấp sau những giáo huấn của Hội thánh “để ngồi trên tòa ông Môsê và phán quyết đôi khi với thái độ tự tôn và hời hợt đối với các trường hợp khó khăn và những gia đình bị thương tích”[39]. Cũng trong đường hướng đó, Ủy ban thần học quốc tế đã nói lên rằng: “như vậy luật tự nhiên không thể được trình bày như là một tập hợp các qui tắc đã được thiết lập để áp đặt một cách tiên thiên vào chủ thể luân lý, nhưng là một nguồn cảm hứng khách quan cho tiến trình đưa ra quyết định hết sức riêng tư”[40]. Vì những yêu tố hoàn cảnh chi phối hay các yếu tố giảm khinh, trường hợp có thể xảy ra là, trong một hoàn cảnh tội lỗi về mặt khách quan – mà không phải là lỗi phạm chủ quan hoặc không phải lỗi phạm hoàn toàn – người ta có thể sống trong ân sủng của Chúa, có thể yêu thương, và cũng có thể tăng trưởng trong đời sống ân sủng và bác ái, trong khi đón nhận sự giúp đỡ của Hội thánh vì mục đích ấy[41]. Việc phân định phải giúp tìm ra những cách khả dĩ để đáp lại tiếng Chúa và để lớn lên qua các giới hạn. Trong khi nghĩ rằng tất cả chỉ có thể là trắng hoặc đen, đôi khi chúng ta đóng kín con đường của ân sủng và của sự triển nở và làm nản lòng người ta trên con đường nên thánh để vinh danh Thiên Chúa. Chúng ta hãy nhớ rằng “một bước nhỏ, giữa những giới hạn lớn của con người, có thể làm đẹp lòng Chúa hơn là một cuộc sống đúng đắn bên ngoài êm ả trôi qua từng ngày mà không phải đối mặt với những khó khăn đáng kể nào”[42]. Việc chăm sóc mục vụ cụ thể của các thừa tác viên và cộng đoàn không thể bỏ qua thực tại này.

306. Trong mọi hoàn cảnh, đứng trước những người gặp khó khăn để sống trọn luật Chúa, ta cần phải nói lên lời mời gọi bước theo con đường của đức ái (via caritatis). Bác ái huynh đệ là luật đầu tiên của Kitô hữu (cf. Ga 15,12; Gl 5,14). Chúng ta đừng quên lời hứa của Thánh Kinh: “Trước hết anh em hãy hết tình yêu thương nhau, vì lòng yêu thương che phủ muôn vàn tội lỗi” (1 Pr 4,8); “hãy đoái công chuộc, bằng cách làm việc nghĩa; là tỏ lòng từ bi đối với người nghèo” (Đn 4,24); “Nước dập tắt lửa hồng,bố thí đền bù tội lỗi” (Hc 3,30). Đó cũng là điều mà Thánh Augustinô dạy: “Bởi vậy, như khi chúng ta gặp nguy hiểm vì một vụ hỏa hoạn, trước hết chúng ta chạy đi tìm nước để có thể dập tắt ngọn lửa, [...] cũng thế, nếu một ngọn lửa tội lỗi bùng cháy lên từ những đam mê của mình và làm ta lung lay, hãy vui mừng lên nếu ta có cơ hội để làm một công việc từ bi bác ái thật sự, như thể ta có một nguồn nước giúp dập tắt ngọn lửa kia bùng lên”[43].

Tâm tư của lòng thương xót trong mục vụ

307. Để tránh mọi giải thích lệch lạc, tôi nhắc lại rằng dù sao đi nữa Hội thánh cũng không được từ bỏ đề nghị lí tưởng trọn vẹn của hôn nhân, kế hoạch của Thiên Chúa trong tất cả tầm vóc cao cả của nó: “Những người trẻ đã rửa tội cần được khuyến khích để không ngần ngại trước sự phong phú mà bí tích hôn nhân mang lại cho dự phóng tình yêu của họ, cũng như sự hỗ trợ mạnh mẽ mà họ nhận được từ ân sủng của Đức Kitô và từ khả năng tham dự cách trọn vẹn vào đời sống của Hội thánh”[44]. Thái độ lãnh đạm, chủ nghĩa duy tương đối dưới bất cứ hình thức nào, hoặc sự dè dặt thái quá khi đề xuất lí tưởng này, sẽ là một sự thiếu trung thành với Tin mừng, và cũng là thiếu tình yêu của Hội thánh đối với chính những người trẻ. Cảm thông với những hoàn cảnh ngoại lệ không bao giờ hàm nghĩa che giấu ánh sáng của lí tưởng trọn vẹn nhất và cũng không cắt bớt những gì Đức Giêsu đã trao ban cho con người. Ngày nay, điều quan trọng hơn cả của mục vụ dành cho những cuộc hôn nhân thất bại là nỗ lực mục vụ để củng cố hôn nhân và nhờ đó ngăn ngừa hôn nhân gãy đổ.

308. Tuy nhiên, từ ý thức về tầm quan trọng của các hoàn cảnh giảm khinh – về tâm lí, lịch sử và cả sinh học – chúng ta thấy “vẫn không làm giảm đi giá trị của lí tưởng Phúc Âm, cần phải đồng hành với lòng thương xót và kiên nhẫn đối với các giai đoạn tiến triển có thể có của con người như chúng đang được vun đắp từng ngày”, nhờ để cho “lòng thương xót của Chúa thúc đẩy chúng ta làm điều tốt nhất có thể”[45]. Tôi hiểu những ai thích một mục vụ nghiêm nhặt hơn vốn không có chỗ nào cho sự hàm hồ. Nhưng tôi thành thực tin rằng Đức Giêsu muốn một Hội thánh hằng quan tâm đến điều tốt lành mà Chúa Thánh Thần gieo vào giữa sự yếu hèn của con người: một Hội thánh như người Mẹ, trong khi bày tỏ cách rõ ràng giáo huấn khách quan của mình, vẫn “không từ chối làm điều tốt lành trong khả năng mình, cho dù có gặp rủi ro bị vấy bẩn bùn lầy trên con đường ấy”[46]. Các Mục tử trong khi nêu cho các tín hữu lí tưởng trọn vẹn của Tin mừng và giáo huấn của Hội thánh, cũng phải giúp họ biết cảm thương những con người yếu đuối và tránh ngược đãi hoặc xét đoán quá khắc nghiệt và thiếu kiên nhẫn. Chính Tin mừng yêu cầu chúng ta đừng xét đoán hay lên án (cf. Mt 7,1; Lc 6,37). Đức Giêsu “mong chúng ta ngừng tìm kiếm những nơi ẩn náu cho cá nhân hay cộng đồng, giữ mình tránh xa khỏi vùng tâm điểm của bi kịch nhân loại, để chấp nhận thật sự đi vào tiếp xúc với cuộc sống cụ thể của những người khác và để biết sức mạnh của sự dịu hiền. Khi làm như thế, cuộc sống sẽ luôn là sự phức tạp diệu kì cho chúng ta”[47].

309. Thật là một sự quan phòng khi những suy tư này được khai triển trong bối cảnh của Năm Thánh Lòng Thương Xót, bởi vì trước bao hoàn cảnh khác nhau ảnh hưởng đến gia đình, “Hội thánh có sứ mạng loan báo lòng thương xót của Thiên Chúa, trái tim sống động của Tin mừng, nhờ đó Lòng Thương Xót ấy phải đến được với lòng trí của mỗi người. Hiền Thê của Đức Kitô bắt chước lối sống của Con Thiên Chúa mà đến gặp gỡ mọi người không loại trừ ai”[48]. Hội thánh biết rằng chính Đức Giêsu tự giới thiệu mình là Mục tử của một trăm con chiên, chứ không chỉ là chín mươi chín con. Người yêu thương tất cả. Từ ý thức đó, có lẽ “dầu thơm của Lòng Thương Xót có thể chạm tới tất cả mọi người, những tín hữu cũng như những người ở xa, như một dấu chỉ cho thấy Triều Đại Thiên Chúa đã hiện diện giữa chúng ta”[49].

310. Chúng ta không được quên rằng “thương xót không chỉ là hành động của Chúa Cha, nhưng nó trở thành tiêu chuẩn để hiểu những ai là thật sự là con cái của Ngài. Tóm lại, chúng ta được mời gọi để sống lòng thương xót, bởi vì lòng thương xót trước hết được áp dụng cho chúng ta”[50]. Đó không phải là một đề nghị lãng mạn hay lời đáp trả yếu kém trước tình yêu của Thiên Chúa, Đấng luôn muốn thăng tiến con người, bởi vì “cột trụ đỡ nâng đời sống Hội thánh chính là Lòng Thương Xót. Toàn bộ hoạt động mục vụ của Hội thánh nên được bao phủ bởi sự dịu hiền của Hội thánh hướng về các tín hữu; việc loan báo Tin mừng và làm chứng của Hội thánh đối với thế giới không thể diễn ra mà không có Lòng Thương Xót”[51]. Đúng là đôi khi “chúng ta hành động như là chủ nhân của ân sủng thay vì là người hỗ trợ cho ân sủng. Nhưng Hội thánh không phải là một trạm thu thuế; mà là Nhà Cha, nơi có chỗ cho từng người với cuộc sống vất vả của họ”[52].

311. Việc giảng dạy thần học luân lí không nên bỏ qua những nhận xét này, bởi vì mặc dù đúng là phải quan tâm đến tính toàn vẹn của giáo huấn luân lí Hội thánh, nhưng cũng phải luôn lưu tâm đặc biệt đến việc nhấn mạnh và thúc đẩy các giá trị cao cả nhất và trọng tâm nhất của Tin mừng[53], nhất là địa vị hàng đầu của đức ái xét như một sự đáp trả sáng kiến nhưng không ​​của tình yêu Thiên Chúa. Nhiều khi chúng ta phải trả giá đắt để dành không gian trong việc mục vụ cho tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa[54]. Chúng ta đặt quá nhiều điều kiện cho lòng thương xót đến nỗi làm mất đi cảm thức cụ thể và ý nghĩa thật sự của nó, và đó là cách tồi tệ nhất để làm loãng Tin mừng. Đúng là lòng thương xót không loại trừ công lý và sự thật, nhưng trước hết chúng ta phải nói rằng lòng thương xót là sự viên mãn của công lí và là sự biểu tỏ rạng ngời nhất của chân lí về Thiên Chúa. Bởi vậy, nên luôn xem là “không thích hợp bất cứ quan niệm thần học nào mà xét cho cùng nghi ngờ chính sự toàn năng của Thiên Chúa, và nhất là lòng thương xót của Ngài”[55].

312. Điều này cho chúng ta một khuôn khổ và một bầu khí ngăn cản chúng ta phát triển một nền luân lí quan liêu lạnh lùng khi xử lí các vấn đề hết sức tế nhị, thay vào đó đặt chúng ta vào trong bối cảnh của một phân định mục vụ chất đầy tình yêu thương xót, vốn luôn phải thông cảm, tha thứ, đồng hành, hi vọng, và trên hết là hội nhập. Đây là suy nghĩ cần phải tỏa lan khắp nơi trong Hội thánh, để “có kinh nghiệm mở lòng mình ra với những ai đang sống trong những vùng ngoại biên hiện sinh xa nhất”[56]. Tôi mời gọi các tín hữu đang sống trong những hoàn cảnh phức tạp hãy đến gặp gỡ trao đổi với các mục tử của mình trong tin tưởng hoặc đến với những người giáo dân sống tận hiến cho Chúa. Không phải luôn luôn các bạn tìm thấy nơi họ một sự xác nhận về các ý tưởng và ước muốn của mình, nhưng chắc chắn các bạn sẽ nhận được một ánh sáng giúp hiểu rõ hơn về những gì đang xảy ra và có thể khám phá ra một lộ trình cho sự trưởng thành cá nhân. Và tôi kêu mời các mục tử hãy lắng nghe với tình thương yêu và sự bình tâm, với ước muốn chân thành đi vào trọng tâm của bi kịch của con người và hiểu được quan điểm của họ, nhằm giúp họ sống tốt hơn và nhận ra vị trí của họ trong Hội thánh.

[1] RS 2014, 24.

[2] RS 2014, 25.

[3] RS 2014, 28.

[4] Cf. RS 2014, 41.43; RF 2015, 70.

[5] RS 2014, 27.

[6] RS 2014, 26.

[7] RS 2014, 41.

[8] RS 2014, 41.

[9] RF 2015, 71.

[10] Cf. RF 2015, 71.

[11] RS 2014, 42.

[12] RS 2014, 43.

[13] FC, 34: AAS 74 (1982), 123.

[14] FC, 9: AAS 74 (1982), 90.

[15] Cf. HG (24.6.2015): L’Osservatore Romano, 25.6.2015, tr. 8.

[16] Bài giảng trong Thánh Lễ cử hành với các Hồng y mới (15.2.2015): AAS 107 (2015), 257.

[17] RF 2015, 51.

[18] RS 2014, 25.

[19] FC, 84: AAS 74 (1982), 186. Trong những trường hợp như thế, nhiều người, biết và chấp nhận khả năng sống “như anh em” mà Hội thánh đề nghị, chỉ ra rằng nếu thiếu đi một số sự diễn tả mật thiết, “thì sự trung thành thường bị lâm nguy và thiện ích của con cái bị ảnh hưởng” (Gaudium et Spes, 51).

[20] Ibid.

[21] RS 2014, 26.

[22] CF. RS 2014, 45.

[23] BÊNÊĐICTÔ XVI, Diễn từ tại Đại hội Các Gia Đình Thế Giới Lần Thứ Bảy ở Milan (2.6.2012), Câu trả lời số 5: Insegnamenti VIII/1 (2012), 691.

[24] RF 2015, 84.

[25] RF 2015, 51.

[26] Đây cũng là trường hợp liên quan tới kỷ luật bí tích, vì sự phân định có thể nhận ra rằng trong một hoàn cảnh riêng, không có tồn tại lỗi phạm nặng nề nào. Trong những trường hợp như thế, sẽ áp dụng điều được nói trong một văn kiện khác: cf. Evangelii Gaudium (24.11.2013), 44 và 47: AAS 105 (2013), 1038-1040.

[27] RF 2015, 85.

[28] RF 2015, 86.

[29] FC, 33: AAS 74 (1982), 121.

[30] RF 2015, 51.

[31] Cf. ST I-II, q. 65, a. 3, ad 2; De malo, q. 2, a. 2.

[32] Ibid., ad 3.

[33] GLHTCG 1735.

[34] Cf. Ibid. 2352; BỘ GLĐT, Tuyên Ngôn Iura et bona về Cái Chết Êm Dịu (5.5.1980), II: AAS 72 (1980), 546; Gioan Phaolô II, khi phê bình về phạm trù “sự chọn lựa nền tảng”, đã nhìn nhận rằng “chắc chắn có thể xảy ra những hoàn cảnh rất phức tạp và mập mờ từ một quan điểm tâm lí học, và những hoàn cảnh ấy có một ảnh hưởng đến việc qui trách chủ quan của tội nhân” (Tông Huấn Reconciliatio et Paenitentia [2.12.1984], 17: AAS 77 [1985], 223).

[35] Cf. HĐTT VỀ CÁC BẢN VĂN LUẬT, Tuyên bố về việc Đón nhận các tín hữu li dị và tái hôn vào việc rước lễ (24.6.2000), 2.

[36] RF 2015, 85.

[37] ST I-II, q. 94, art. 4.

[38] Khi qui chiếu đến sự hiểu biết tổng quát về luật và sự hiểu biết đặc thù của sự phân định thực tế, Thánh Tôma đi đến khẳng định rằng “nếu chỉ có một trong hai sự hiểu biết ấy, thì tốt hơn nếu đó là sự hiểu biết về thực tế cụ thể, bởi lẽ nó gần với hành động hơn” (Sententia libri Ethicorum, VI, 6 [ed. Leonina, t. XLVII, 354]).

[39] Diễn từ Bế mạc Đại hội thường kì lần XIV của THĐGM (24.10.2015): L’Osservatore Romano, 26-27.10.2015, tr. 13.

[40] Ủy Ban Thần Học Quốc Tế, Tìm kiếm một nền đạo đức phổ quát: một cái nhìn mới về Luật Tự Nhiên (2009), 59.

[41] Trong một số trường hợp, điều này có thể bao gồm sự trợ giúp của các bí tích. Vì thế, “tôi muốn nhắc các linh mục rằng tòa giải tội không phải là một buồng tra tấn, nhưng đúng hơn là một nơi gặp gỡ lòng thương xót của Chúa” (Tông Huấn EG, 44: AAS 105 [2013], 1038). Tôi cũng muốn lưu ý rằng Bí tích Thánh Thể không phải là một phần thuởng cho người hoàn hảo, nhưng là phương dược đầy hiệu năng và là lương thực dưỡng nuôi cho người yếu đuối” (ibid., 47: 1039).

[42] EG, 44: AAS 105 (2013), 1038-1039.

[43] De Catechizandis Rudibus, I, 14, 22: PL 40, 327; cf. EG, 194: AAS 105 (2013), 1101.

[44] RS 2014, 26.

[45] EG, 44: AAS 105 (2013), 1038.

[46] Ibid., 45: AAS 105 (2013), 1039.

[47] Ibid., 270: AAS 105 (2013).

[48] Phanxicô, Tông sắc Misericordiae Vultus (11.4.2015), 12: AAS 107 (2015): 407.

[49] Ibid., 5: AAS 107 (2015): 402.

[50] Ibid., 9: AAS 107 (2015): 405.

[51] Ibid., 10: AAS 107 (2015): 406.

[52] EG, 47: AAS 105 (2013), 1040.

[53] Cf. Ibid., 36-37: AAS 105 (2013), 1035.

[54] Có lẽ do quá thận trọng chi li, ẩn sau một ước muốn mạnh mẽ trung thành với sự thật, một số linh mục đòi hỏi các hối nhân một quyết tâm sửa chữa rất thiếu tế nhị, đến nỗi làm cho lòng thương xót bị che mờ bởi việc theo đuổi một công lí được coi là thuần túy. Vì thế, sẽ hữu ích việc nhắc lại giáo huấn của Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, khi ngài tuyên bố rằng khả năng của một sự sa ngã mới “không nên làm người ta nghi ngờ sự chân thực của lòng quyết tâm” (Thư gửi Hồng y William W. Baum dịp tổ chức khóa về Tòa Trong [22.3.1996], 5: Insegnamenti XIX/1 [1996], 589).

[55] ỦY BAN THẦN HỌC QUỐC TẾ, La Speranza della salvezza per i bambini che muoiono senza battesimo (19.4.2007), 2.

[56] Phanxicô, Tông sắc Misericordiae Vultus (11.4.2015), 15: AAS 107 (2015), 409.

Từ khóa » Tóm Tắt Tông Huấn Amoris Laetitia