TÔNG HUẤN LOAN BÁO TIN MỪNG EVANGELII NUNTIANDI ...
Có thể bạn quan tâm
- Trang nhất
- GIỚI THIỆU
- THÔNG TIN
- TÒA ÁN HÔN PHỐI
- Hướng Dẫn Đệ Đơn
- Giải Đáp
- Thủ Tục
- Vụ Án Điển Hình
- Án Lý
- Bản Án Rota Romana
- Bản Án địa phương
- Kiểu Mẫu Án Từ
- Giới Thiệu Tài Liệu
- TỪ VỰNG GIÁO LUẬT
- VĂN KIỆN
- TÀI LIỆU
- BỘ GIÁO LUẬT
- Việt Ngữ, HĐGMVN
- La Ngữ
- Ý Ngữ
- Anh Ngữ
- Pháp Ngữ
- Trang nhất
- GIÁO HUẤN GIÁO HỘI
A- BỐI CẢNH
Nhân dịp ba biến cố được nhắc đến trong lời mở đầu. Trước tiên năm 1975 là Năm Thánh thứ 26 của toàn thể Giáo Hội. Ðược mở ra dưới triều Ðức Phaolô VI, Năm Thánh này mang ý nghĩa Canh Tân và Hoà Giải, như được trình bày trong Tông Huấn Gaudete in Domino (Hãy Vui Mừng Trong Chúa) của ngài: ‘Hãy mặc lấy con người mới’ (Ep 4,24) và ‘Hãy giao hoà cùng Thiên Chúa’ (2 Cr 5,20). Thứ đến đây là dịp kỷ niệm 10 năm ngày bế mạc công đồng Vaticanô II (8.12.1965). Tông Huấn Loan Báo Tin Mừng được công bố trước tiên cho Giáo Hội nhằm làm phong phú và đào sâu sự hiểu biết về việc phúc âm hoá. Đây tựa như một việc hiện đại hoá tình trạng của Giáo Hội mười năm sau công đồng Vaticanô II (1975), nhất là lời kêu gọi canh tân của công đồng. Sau cùng là biến cố Thượng Hội Đồng Giám Mục lần III. Chúng ta biết rằng Thượng Hội đồng Giám mục là một thể chế định kỳ được Đức Giáo Hoàng Phaolô VI có sáng kiến thiết lập qua Tự sắc Apostolica Sollicitudo, ngày 15.09.1965. Thể chế này đáp ứng nguyện vọng của các nghị phụ Công đồng Vaticanô II muốn duy trì tinh thần tích cực do kinh nghiệm Công đồng đem lại. Từ ngữ Synod (thượng hội đồng) phát xuất bởi từ ngữ Hy Lạp ‘Syn’ (cùng nhau), ‘hodos’ (con đường), có nghĩa là cùng nhau đi trên đường, cùng nhau tiến tới. Do đó, Thượng Hội Đồng Giám Mục là hội nghị các Giám Mục được tuyển chọn từ nhiều miền khác nhau trên thế giới, theo định kỳ họp mặt, để cổ vũ sự liên kết chặt chẽ giữa Giáo Hoàng Roma và các Giám Mục, nhằm góp ý giúp Đức Giáo Hoàng Roma trong việc điều hành Giáo Hội hoàn vũ, cũng như trong việc bảo toàn, phát triển đức tin và luân lý hầu duy trì và củng cố kỷ luật trong Giáo Hội. Thượng Hội Đồng Giám Mục lần III được tổ chức từ 27.09 đến 26.10.1974 với chủ đề: ‘Loan báo Tin Mừng trong thế giới hiện đại’. Số tham dự viên: 209. Tông Huấn Loan Báo Tin Mừng cho ta biết làm thế nào để phúc âm hoá hoặc loan báo sứ điệp tin mừng trong hoàn cảnh của xã hội và thế giới hiện nay. Tông Huấn tái xác định ý nghĩa của phúc âm hoá trong cảnh huống. Với viễn ảnh và mục tiêu tổng quát chung của tài liệu này, ta có thể nói rằng lời kêu gọi canh tân không chỉ nhằm cho các thừa tác viên chức thánh mà còn cho mọi tín hữu thuộc mọi tầng lớp xã hội.B- NỘI DUNG
Lời Mở Đầu: (1-5)
Chương I- Từ Đức Kitô rao giảng đến Giáo Hội rao giảng (6-16):
Trong Lời Mở Đầu và Chương I của tông huấn, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phúc âm hoá (Evangelizatio). Đây không phải là một đóng góp tuỳ tiện cho Giáo Hội nhưng đúng hơn là một nhiệm vụ của con người đi tìm chân lý. Đối với Ngài, lời mời gọi phúc âm hoá là một lệnh truyền của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta chứ không đơn thuần là sự sắp xếp cá nhân của con người. Ngài đã minh chứng bằng những dẫn chứng kinh thánh và lịch sử của việc loan báo tin mừng. Trước tiên là chính toàn bộ sứ mạng của Đức Kitô, Đấng đã được sai đến để loan báo tin mừng Nước Thiên Chúa; loan báo việc cứu độ nhân loại khỏi tội và sự dữ. Sứ điệp ấy được thông truyền từ Đức Giêsu đến các tông đồ và môn đệ của Ngài, nên thật là chính đáng việc Giáo Hội đảm nhận trách nhiệm tiếp tục sứ mạng của Đức Kitô. Phúc âm hoá là ơn gọi riêng của Giáo Hội, nghĩa là sứ mạng thiết yếu của Giáo Hội (14).Chương II- Phúc âm hoá là gì? (17-24):
Bàn đến việc xác định ý nghĩa của phúc âm hoá. Đối với Giáo Hội, phúc âm hoá nghĩa là mang Tin Mừng vào tận bên trong mọi tầng lớp nhân loại để làm biến đổi và canh tân ngay từ bên trong. Trong việc phúc âm hoá, văn hoá giữ một vai trò quan trọng. Tin Mừng và việc phúc âm hoá không thể đồng hoá với văn hoá và độc lập với mọi nền văn hoá (20). Nếu muốn phúc âm hoá, ta cần phải loan báo tin mừng bằng chứng tá đời sống (21). Đó là cách để chúng ta trở nên những người loan báo tin mừng đích thực. Chúng ta trở nên những chứng nhân sống động của những giáo huấn, đời sống và lời hứa của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Ngoài việc làm chứng nhân đời sống, xét vì việc phúc âm hoá là một tiến trình phức tạp nên cũng còn có những yếu tố khác nữa, như phục hồi tính nhân bản, loan báo minh nhiên, tin tưởng nội tâm, tháp nhập vào cộng đoàn, chấp nhận những dấu chỉ và đề xướng của Giáo Hội (24).Chương III- Nội dung của việc phúc âm hoá (25-39):
Trình bày nội dung của việc phúc âm hoá đặc biệt là nội dung thiết yếu và những yếu tố thứ yếu. Nội dung thiết yếu trước tiên phải là chứng tá, cách đơn sơ và trực tiếp, về Thiên Chúa được mạc khải nơi Đức Giêsu Kitô trong Chúa Thánh Thần. Trọng tâm sứ điệp phải là sự cứu độ của Đức Kitô như được biểu lộ qua mầu nhiệm vượt qua của Ngài. Nói cách khác, chúng ta quy chiếu về sự cứu độ cánh chung. Và, những yếu tố thứ yếu chẳng hạn như các bí tích vì chúng bổ túc cho việc phúc âm hoá (28).Chương IV-Những đường lối của việc phúc âm hoá (40-48):
Trình bày cho chúng ta những phương cách thích hợp cho việc phúc âm hoá. Sau khi xác định ‘cái gì’, bây giờ ‘làm thế nào’ để phúc âm hoá. Phương cách đầu tiên của việc phúc âm hoá là chứng tá đời sống kitô chân thực (41). Tiếp đến nhấn mạnh đến sự cần thiết của việc rao giảng (42) một trong hình thức đó là ‘phụng vụ Lời Chúa’ chẳng hạn như các bài giảng, suy niệm của các linh mục. Các phương cách khác như Dạy Giáo Lý, là cách thức truyền giảng những giáo huấn căn bản về tôn giáo có hệ thống của Giáo Hội (44). Truyền thông xã hội, tiếp xúc cá nhân, các bí tích và việc đạo đức bình dân cũng là những cách thức loan báo tin mừng cứu độ.Chương V- Đối tượng của việc phúc âm hoá (49-58):
Đề cập đến các đối tượng mà nội dung và các phương cách nhắm đến. Nhóm đầu tiên là những người chưa bao giờ nghe biết tin mừng của Đức Giêsu Kitô hoặc cho các trẻ em, những người ngoài kitô giáo và những người không tin (52-55). Nhóm thứ hai là những người không sống đạo (56). Có một cách giúp họ là thiết lập ‘các cộng đoàn nhỏ’ (Thượng Hội Đồng Giám Mục chú ý nhiều đến các cộng đoàn này) gọi là ‘cộng đoàn giáo hội cơ bản’, những cộng đoàn này họp nhau lại bên trong Giáo Hội, vừa là nơi đón nhận tin mừng vừa là cộng đoàn rao giảng tin mừng (58).Chương VI- Những người rao giảng tin mừng (59-73):
Là lời mời gọi những người có trách nhiệm loan báo tin mừng. Nói cách khác, ai là người thợ của việc phúc âm hoá? Cách chung, là toàn thể Giáo Hội, vì tự bản chất là truyền giáo. Trước tiên là Đức Giáo Hoàng, Đấng kế vị thánh Phêrô. Tiếp đến là các Giám Mục và Linh Mục; các Tu Sĩ và đặc biệt là Giáo Dân. Trong khối giáo dân phải kể đến gia đình, các bạn trẻ và nhiều tác viên khác nhau.Chương VII- Tinh thần của việc phúc âm hoá (74-80):
Tất cả chương trình và phương cách của việc phúc âm hoá chỉ có thể thực hiện nhờ tác động của Thánh Thần. Không gì có thể thay thế được tác động này. Một lần nữa chứng tá đời sống lại được nhấn mạnh như là cách thức tốt nhất cho việc loan báo tin mừng. Sự áp bức, ép buộc cần phải loại trừ vì không tôn trọng tự do và lương tâm kẻ khác. Tuy nhiên sẽ là hoàn toàn tinh ròng và tôn trọng những lựa chọn tự do nếu chân lý tin mừng và con đường cứu rỗi trong Đức Kitô được trình bày cách minh bạch, tạo điều kiện để cho lương tâm chọn một con đường mà cả những người không tin cũng nhận thấy là cao thượng (80). Kết: (81-82)C. NHỮNG ĐIỂM NHẤN TRONG NỘI DUNG CỦA TÔNG HUẤN
1. Ý NGHĨA VIỆC LOAN BÁO TIN MỪNG
Công đồng Vaticanô II định nghĩa: “Giáo Hội tự bản chất là truyền giáo”. Giáo Hội có nhiều sứ mạng, nhưng sứ mạng quan trọng, thuộc yếu tính của Giáo Hội, đó là truyền giáo hay còn gọi loan báo Tin mừng, Phúc âm hoá (Evangelizatio như Đức Phaolô VI sử dụng trong tông huấn). Sứ mạng này bắt nguồn từ lệnh truyền của Đức Kitô: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy họ tuân giữ các điều Thầy đã truyền dạy cho anh em”. Việc loan báo Tin mừng này luôn được Giáo Hội coi là một nhiệm vụ ưu tiên, một bổn phận thiêng liêng, một mối bận tâm hàng đầu. Trải qua bao thế hệ, do sự thách thức của xã hội và của các nền văn hoá khác nhau, Giáo Hội tự biết mình có sứ mệnh phải loan báo Tin Mừng bằng nhiều cách khác nhau. Do đó các kiểu mẫu huấn giáo ra đời và thay đổi tuỳ theo dòng thời gian để Tin Mừng Đức Kitô đã gieo vào trần gian được nẩy sinh và phát triển cách thích hợp trong lòng con người. Đặc biệt Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, trong Tông huấn Loan báo Tin Mừng, đã thúc bách toàn thể giáo Hội phải ý thức và dồn hết mọi nỗ lực của mình vào việc loan báo Tin mừng. Vậy, loan báo Tin Mừng hay Phúc Âm Hoá là gì? Phúc Âm Hoá là một công việc khá phức tạp, không chỉ giới hạn trong việc giảng dạy về tôn giáo. Thật ra không một định nghĩa phiến diện nào có thể lột hết được thực tại phong phú, phức tạp và sống động như việc Phúc Âm Hoá. Nếu coi việc Phúc Âm Hoá chỉ là giảng dạy và rửa tội, là ta đã làm cho việc đó trở nên nghèo nàn và không thấy được bao quát tất cả những yếu tố chính yếu của nó. Trong chương II của Tông huấn Loan báo Tin mừng, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI nêu lên 7 yếu tố của việc Phúc Âm Hoá như sau :1.1. Là làm đổi mới bộ mặt nhân loại, là thay đổi tự bên trong, nghĩa là :
• ‘Giáo Hội tìm cách hoán cải lương tâm cá nhân và tập thể của con người’ (18). • ‘Hoán cải mọi sinh hoạt mà con người đang dấn thân’. • ‘Hoán cải đời sống và hoàn cảnh cụ thể của họ’. • ‘Dùng sức mạnh Tin mừng làm đảo lộn những tiêu chuẩn phán đoán, những giá trị dẫn đạo, những bận tâm chính yếu, những trào lưu tư tưởng, những nguồn cảm hứng, những mẫu mực sống của nhân loại khi những điều ấy ngược với Lời Chúa và chương trình cứu độ’(19). • Phúc Âm hoá các nền văn hoá: văn minh, kiến thức và tất cả những gì liên quan tới cuộc sống con người. ‘Phúc Âm hoá các nền văn hoá phải được thực hiện cách sống động sâu xa tới tận gốc rễ, chứ không theo một cách trang trí như lớp sơn bóng ngoài mặt’ (20).1.2. Làm chứng tá bằng sự hiện diện, bằng thái độ sống, bằng gương sáng...
Tin Mừng trước tiên phải công bố bằng cách làm chứng. Cứ xem một kitô hữu hay một tập thể kitô hữu đang sống giữa cộng đồng con người, khi họ tỏ ra khả năng thông cảm và đón nhận, thái độ chia sẻ vận mệnh với người khác, tình liên đới trong các nỗ lực chung nhằm tất cả những gì cao thượng và tốt lành. Một cách thật đơn giản và hồn nhiên, lòng họ tin nơi những giá trị vượt xa những giá trị thông thường, và trông cậy vào những gì người ta không thấy... Một chứng tá như vậy đã là sự công bố Tin Mừng tuy thầm lặng nhưng rất mãnh liệt và hiệu quả... Một đời sống làm chứng bao hàm sự hiện diện, chia sẻ, liên đới là một yếu tố chính yếu của việc loan báo Tin Mừng’ (21).1.3. Loan báo công khai Đức Giêsu Kitô:
‘Chứng tá cho dù đẹp đẽ nhất cũng trở nên vô hiệu theo thời gian, nếu nó không được soi sáng, biện minh và nếu nó không được diễn đạt bằng một sự loan báo rõ ràng, không mập mờ về Đức Kitô. Vậy Tin Mừng đã được công bố bằng đời sống làm chứng, sớm muộn phải được công bố bằng Lời ban sự sống. Không có loan báo Tin Mừng thực sự nếu danh tánh, lời giảng dạy, đời sống, lời hứa, Triều đại, mầu nhiệm của Đức Giêsu Con Thiên Chúa không được loan báo’ (22). Vậy làm thế nào để các mầu nhiệm Chúa Kitô được vang lên và tới tai mọi người ? Mục vụ rao giảng Lời Chúa gồm có : - Tiền Phúc Âm hoá (Pré-Evangélisation): giai đoạn khơi gợi niềm tin trong lòng con người. - Loan báo Tin Mừng: Truyền giảng Tin mừng cho người chưa tin Đức Kitô (Kérygme) - Dạy giáo lý: Giúp người ta khám phá và đón nhận đức tin Kitô giáo (Catéchumène) và giúp các tín hữu đào sâu và sống trưởng thành trong đức tin (Catéchèse) - Diễn giảng Lời Chúa (Homélie) - Giảng dạy Thần học (Didascalie, Théologie): Dạy giáo lý ở mức đại học, vừa sử dụng Kinh Thánh, vừa dùng lý luận để trình bày Lời Chúa.1.4. Gắn bó với chân lý, với cuộc sống, với Nước Trời
“Lời loan báo chỉ đạt tới hết chiều kích của nó khi được gắn bó với những chân lý. Nhưng hơn nữa, gắn bó với một cuộc sống đã được biến đổi. Nghĩa là gắn bó với thế giới mới, với một tình trạng mới, một sự hiện hữu mới, một cách sống mới mà Tin mừng đã khai mở. Gắn bó như thế thì không còn gì là trừu tượng nhưng được tỏ ra một cách cụ thể”(23).1.5. Gia nhập cộng đoàn tín hữu một cách cụ thể, thấy được. “Những ai đã được biến đổi đời sống thì cần phải gia nhập một cộng đồng tín hữu” (23).
1.6. Đón nhận những dấu chỉ của đời sống mới: Gia nhập vào một cộng đoàn, cộng đoàn này là một dấu chỉ biến đổi, một dấu chỉ của đời sống mới. Đó chính là Giáo Hội, bí tích hữu hình của ơn cứu độ…
1.7. Trở thành những sứ giả Tin mừng: người đã được nghe rao giảng, tới lượt họ phải đi rao giảng lại. “Đó là sự trắc nghiệm của chân lý, là đá thử vàng của việc loan báo Tin Mừng. Không thể tưởng tượng được một con người đã tiếp nhận Lời và đã hiến thân cho Nước Trời mà lại không trở nên một người làm chứng và loan báo Tin Mừng” (24).
2. NHIỆM VỤ LOAN BÁO TIN MỪNG
Với các định nghĩa trên, ta thấy Tông Huấn đã nêu lên những điểm then chốt trong việc Phúc Âm hoá, một nhiệm vụ hàng đầu của Giáo Hội cũng như của mỗi Kitô hữu. Các hình thức khác nhau của việc truyền giảng Tin Mừng luôn cần thiết mọi nơi và mọi lúc để khơi dậy, củng cố và nuôi dưỡng niềm tin. Do đó mà Thánh Phaolô đã khẳng định: “Làm sao người ta có thể tin nếu không được nghe Tin mừng, làm sao có thể nghe Tin mừng nếu không có người đi rao giảng… Vậy tin là do nghe truyền giảng, mà nghe giảng là do công bố Lời Đức Kitô”. Trong số 66 của Tông huấn, Đức Giáo Hoàng khẳng định: “Toàn thể Giáo Hội được mời gọi làm công việc loan báo Tin Mừng và mỗi người phải chu toàn những nhiệm vụ loan báo Tin Mừng khác nhau tuỳ khả năng và theo hoàn cảnh. Tuy khác nhau nhưng cùng một sứ mệnh duy nhất là làm cho công cuộc loan báo Tin Mừng được giầu đẹp”. Như vậy bất cứ một thành phần nào trong Giáo Hội: Giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo dân đều là những người phục vụ Tin Mừng. Đặc biệt đối với các tu sĩ, Đức Giáo Hoàng viết: “Các tu sĩ tìm được trong đời sống tận hiến một phương thế tốt đẹp đặc biệt để loan báo Tin Mừng có hiệu quả. Đó là bằng chính con người của mình và bằng sự khao khát sống thánh thiện. Họ làm chứng cho sự thánh thiện ấy... Bằng nếp sống, họ là những dấu chỉ của việc sẵn sàng phục vụ Chúa, Giáo Hội và tha nhân... Có tu sĩ loan báo Tin mừng bằng thinh lặng, sám hối, hy sinh... Có người từ bỏ hết mà đi loan báo Tin Mừng đến mút cùng trái đất” (69). Còn đối với giáo dân, Đức Giáo Hoàng viết: “Phạm vi dành riêng cho hoạt động loan báo Tin Mừng của họ là thế giới rộng lớn và phức tạp của những sinh hoạt chính trị, xã hội, kinh tế, văn hoá, khoa học, nghệ thuật... và một số những thực tại khác như tình yêu, gia đình, nghề nghiệp, đau khổ…” (70) Như vậy, mỗi kitô hữu, trong cách thế của mình có thể truyền giảng Tin mừng bằng nhiều đường lối tuỳ theo đối tượng chúng ta gặp gỡ, tiếp xúc.3. TINH THẦN CỦA VIỆC RAO GIẢNG TIN MỪNG
Để thực hiện sứ mạng này, Chương VII của Tông huấn mời gọi các sứ giả tin mừng phải sống xứng đáng với ơn gọi của mình, nghĩa là phải có những thái độ nội tâm cần thiết như sau:3.1. Làm việc dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần
“Sẽ không bao giờ có thể loan báo Tin Mừng nếu không có tác động của Chúa Thánh Thần... Có những kỹ thuật loan báo Tin Mừng là điều tốt, nhưng những kỹ thuật này dù hoàn hảo nhất cũng không làm sao thay thế được tác động của Thánh Thần. Không có Ngài thì sứ giả Tin Mừng có sửa soạn hết sức tinh tế cũng chẳng làm được gì” (75).3.2. Là những chứng nhân đích thực
“Thế giới này khao khát sự đích thực. Nhất là giới trẻ, họ chán ghét những gì là giả tạo... Thiên hạ luôn vặn hỏi chúng ta: Các người có thực sự tin điều các người loan báo không? Các người có truyền giảng thực sự điều các người sống không? Hơn bao giờ hết, làm chứng bằng đời sống đã trở thành một điều kiện thiết yếu để việc giảng dạy có hiệu quả sâu xa”. “Nhiệt tình loan báo Tin Mừng phải vọt lên từ một đời sống thực sự thánh thiện được nuôi dưỡng bằng lời cầu nguyện và nhất là bằng lòng yêu mến Thánh Thể... Thế giới chờ đợi nơi chúng ta một đời sống giản dị, tinh thần cầu nguyện, lòng yêu thương đối với mọi người, nhất là những ai bé mọn và nghèo khổ, đức vâng phục và khiêm tốn, sự từ bỏ chính mình. Không có những dấu hiệu và sự thánh thiện như thế, lời chúng ta sẽ khó đi vào lòng dạ con người thời nay được. Nó có thể thành vô ích và vô hiệu” (76).3.3. Là những người xây dựng hiệp nhất
“Là những sứ giả Tin Mừng, chúng ta phải cống hiến cho các tín hữu của Đức Kitô, không phải hình ảnh của những con người chia lìa nhau vì những tranh chấp không chút xây dựng, nhưng là hình ảnh những con người chín chắn trong đức tin, có khả năng gặp gỡ nhau bên trên những căng thẳng thực tế nhờ việc cùng nhau tìm kiếm chân lý một cách chân thành và vô vị lợi. Số phận công cuộc loan báo Tin Mừng chắc chắn được gắn liền với việc sống và làm chứng cho sự hiệp nhất” (77).3.4. Là những người phục vụ chân lý
“Tin Mừng mà chúng ta loan báo là lời chân lý, một chân lý đem lại tự do (Ga 8,32)... Thiên Chúa của chân lý mong đợi chúng ta tỉnh thức bảo vệ và tận tuỵ rao truyền chân lý... Nhiệm vụ của chúng ta là giúp đỡ người khác khám phá chân lý, kể cả chân lý tôn giáo và thiêng liêng” (78).3.5. Có động lực là lòng yêu thương
“Sứ giả Tin Mừng phải có lòng thương yêu anh em ngày càng lớn mãi... Còn hơn một nhà giáo dục, đó là tình thương của một người cha, một người mẹ... Một dấu chỉ của tình thương yêu là biết cho người khác chân lý và đưa vào sự hiệp nhất. Một dấu chỉ nữa là biết hy sinh trọn vẹn và dứt khoát cho việc loan báo Tin Mừng” (79).3.6. Làm việc với sự nhiệt tình
“Việc loan báo Tin Mừng trong thời đại chúng ta gặp nhiều trở ngại, một trong những trở ngại lớn là sự thiếu nhiệt tình. Nó càng trầm trọng bởi lẽ nó phát xuất từ bên trong, nó biểu lộ trong sự mệt mỏi và chán nản, sự làm lấy lệ và hờ hững, và nhất là sự thiếu niềm vui và hy vọng. Vì vậy chúng tôi khuyên những ai có nhiệm vụ loan báo Tin Mừng ở bất cứ cấp bậc nào, hãy nuôi dưỡng nhiệt tình cho tâm hồn mình” (80). Một điều quan trọng mà tông huấn Evangelii Nuntiandi đã nhấn mạnh là trước khi Giáo Hội lên đường loan báo Tin mừng, thì cần phải hoán cải theo Tin mừng đã. Nói cách khác, đối tượng loan báo Tin mừng không phải chỉ là thế giới nhưng còn là chính các phần tử của Giáo Hội.C. LÀM RÕ VÀI TỪ NGỮ TRONG TÔNG HUẤN
-
Từ Ngữ Evangelizatio
Tầm nguyên: evangelium, evangelizare, evangelizatio, evangelicus, evangelismus
1/ Trong Tân Ước không có danh từ ‘evangelizatio’, nhưng chỉ có động từ ‘evangelizare’ và nhất là danh từ ‘evangelium’. Các từ này đều bắt nguồn từ tiếng Hy-lạp: euangelion (tin vui, tin mừng, tin lành), euangelizo, euangelizomai (động từ), euangelistes (người đưa Tin Mừng). Evangelium là gì? Cách đây 60 năm, khi đi lễ Chúa Nhật, ta được nghe đọc sách ‘E-vang’. Sau đó ta được nghe đọc sách ‘Phúc âm’. Từ thập niên 60, từ ‘Phúc âm’ rất được phổ biến ở Việt Nam: sách Phúc âm, rao giảng Phúc âm, các lời khuyên Phúc âm. Từ thập niên 90, thấy từ ‘Tin Mừng’ dần dần xuất hiện trong thánh đường, tuy rằng cho đến nay, trong giới nhà tu, người ta vẫn còn nói đến ‘ba lời khuyên Phúc âm, tinh thần Phúc âm’. Một điều không kém thú vị là theo dõi sự biến đổi việc dịch thuật của anh em Tin Lành. Danh xưng ‘Tin Lành’ gốc bởi tiếng Anh là Evangelicals. Thế nhưng, danh từ Evangelium đã được dịch nhiều cách trong các ấn bản Kinh Thánh: ‘Tin lành, Phúc âm, Tin mừng’. Chỉ xin nhấn mạnh rằng trong Tân Ước, Evangelium (Tin Mừng) được hiểu về một sứ điệp loan báo; về sau, người ta mới hiểu về quyển sách ghi lại sứ điệp đó. Một cách tương tự như vậy, Evangelista lúc đầu được hiểu về người đi loan báo sứ điệp Tin mừng; về sau mới được hiểu về người viết sách Tin Mừng, nói cụ thể là bốn “thánh sử” (Matthêu, Marcô, Luca, Gioan). 2/ Lịch sử Giáo Hội Trong lịch sử Giáo Hội, nảy sinh ra nhiều từ ngữ bắt nguồn từ evangelium. Trước hết là tính từ evangelicus (thuộc về Tin Mừng), chẳng hạn như ‘consilia evangelica’ (những lời khuyên của Tin Mừng), và cách riêng những từ ngữ evangelical, evangelism, evangelization do phong trào ‘Phục hưng Tin lành’ (Evangelical Revival) phổ biến từ thế kỷ XIX. Đang khi tại Âu Châu, vào thời Trung cổ, các phong trào ‘Tin lành’ nhấn mạnh đến việc trở về nguồn, sống theo tinh thần của Tin Mừng (evangelismus), thì tại Hoa kỳ, các phong trào Tin Lành đề cao sứ mạng ‘rao giảng Tin Lành’ cho người ngoại giáo (preaching the Gospel to Non-Christians). Những từ ngữ Evangelization, Evangelicals, Evangelism ra đời trong bối cảnh đó. Nói cách khác, Evangelizatio là một từ ngữ mới xuất hiện từ thế kỷ XIX, và được du nhập vào thần học Công giáo vào thế kỷ XX.Evangelizatio – Missio
Từ lâu Giáo Hội Công giáo đã ý thức về sứ mạng rao giảng Tin Mừng. Nhưng để ám chỉ công tác này, thần học đã sử dụng nhiều thuật ngữ. 1/ Thời xưa, việc loan báo Tin Mừng (giảng đạo, truyền giáo) được gọi bằng nhiều tên: Illuminatio gentium, Novos populos adducere in gremio sanctae matris Ecclesiae, Propagatio Fidei, Conversio gentilium, Praedicatio Evangelii in universo orbe, Labor salutiferae praedicationis ad innotescendum gentibus mysterium fidei, Conversio infidelium, Praedicatio apostolica, Procuratio salutis ad barbaras gentes, Novella Christianitatis plantatio, Promulgatio Evangelii, Viam salutis et lucis infidelibus insinuare, Procuratio salutis omnium gentium, Legatio ad gentes, Dilatatio Ecclesiae per universum orbem, vv. 2/ Vào thời cận đại, từ ngữ quen thuộc hơn cả là Missio. Danh từ này mang nhiều ý nghĩa trải qua dòng thời gian. Theo nguyên gốc, Missio là một danh từ gốc bởi động từ mittere (sai, gửi, phái, cử). Missio được thần học sử dụng trong nhiều bối cảnh: a) Áp dụng cho mầu nhiệm Ba ngôi (missiones divinae, trinitariae): Chúa Cha đã ‘sai’ Con Một đến thế gian; Chúa Kitô ‘sai’ Thánh Thần đến Giáo Hội. b) Áp dụng cho sứ mạng của Hội Thánh: Đức Giêsu sai các tông đồ tiếp tục sứ mạng của Ngài. Giáo Hội tiếp tục sứ mạng của các thánh tông đồ rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. c) Từ thế kỷ XVI, danh từ Missio được áp dụng vào nhiều lãnh vực: - Giảng tuần đại phúc trong các xứ đạo, cách riêng ở thôn quê. Thánh Vinh-sơn Phaolô đã lập một hội dòng mang tên là ‘Congregatio Missionis’ (1625) cho mục tiêu đó. - Giảng Tin Mừng cho dân ngoại (missio ad exteros, missio ad gentes). Điển hình là việc Toà Thánh thiết lập Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin để đi giảng đạo cho dân ngoại (1622). Đây cũng là ý nghĩa của tên gọi Hội Dòng “Missions Étrangères de Paris” (MEP: Hội Thừa sai Paris). - Lãnh thổ truyền giáo (đại khái bao trùm các lục địa Phi và Á châu) được đặt dưới sự quản trị của Bộ Truyền Bá Đức Tin. 3/ Công đồng Vaticanô II Hai danh từ Missio và Evangelizatio xuất hiện trong nhiều văn kiện. a) Danh từ Missio được dùng theo nhiều nghĩa, đặc biệt là trong Sắc Lệnh Ad Gentes: - việc sai đi, bắt nguồn từ Chúa Cha (AG 2); - toàn thể sứ mạng của Giáo Hội (AG 9-10; x. LG 17); - một hoạt động chuyên biệt của Hội Thánh: rao giảng Tin Mừng cho những ai chưa biết Chúa (AG 6; 20; 27b); - một miền (lãnh thổ) được đặt dưới thẩm quyền của Bộ Truyền Bá Đức Tin (AG 29). b) Đặc biệt danh từ ‘evangelizatio’ cũng được du nhập vào các bản văn của Công đồng (31 lần), cách riêng là trong Sắc lệnh về Truyền giáo Ad Gentes (21 lần). Danh từ được dùng theo ba nghĩa: - nghĩa hẹp: rao giảng Tin Mừng cho người ngoài Kitô giáo, tương đương với công bố kerygma (6); - theo một nghĩa rộng hơn: việc làm chứng tá bằng lời nói và gương lành (số 14); - rộng hơn nữa, nó đồng nghĩa với toàn bộ công tác truyền giáo, nghĩa là việc thi hành ba tác vụ của Giáo Hội (số 20; 27; 29; 30; xem thêm số 23; 35-36; 38; 39; 40; 41). c) Tương quan giữa Missio và Evangelizatio Sắc lệnh Ad Gentes xem ra chấp nhận quan điểm thông thường vào thời đó: Evangelizatio được đặt trong khung cảnh truyền giáo cho dân ngoại (Missio ad gentes), chứ không bao trùm toàn thể Giáo Hội. Mặt khác, Evangelizatio hẹp hơn là missio; Evangelizatio trình bày Tin Mừng (bằng lời nói và gương lành) cho các dân ngoại, còn Missio bao gồm không những là việc loan báo mà còn việc giáo huấn, phụng vụ, cầu nguyện và các công tác mục vụ (xc. AG số 10). Nên biết là Bộ Truyền Giáo đã được đổi tên với cuộc cải tổ giáo triều sau công đồng Vaticanô II (15/8/1967), từ ‘Sacra Congregatio de Propaganda Fide’ sang ‘S.C. pro Evangelizatione Gentium’. 4/ Tông Huấn Evangelii Nuntiandi Trong tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới họp năm 1974 về đề tài ‘De evangelizatione mundi huius temporis’, Đức Thánh Cha Phaolô VI nhìn nhận rằng Evangelizatio là một công tác rất đa diện (EN 17-24), bao gồm nhiều khía cạnh: - loan báo Tin Mừng cách mặc nhiên (bằng chứng tá: số 21) hoặc minh nhiên (số 22); - thiết lập cộng đoàn Giáo Hội (số 23;24); - cứu độ toàn diện: giải thoát con người khỏi tội lỗi cũng như khỏi những cảnh cùng khổ (số 30-38); - thấm nhập vào các nền văn hoá (số 20; 62-65). Ta nhận thấy rằng Evangelizatio có thể hiểu vừa hẹp vừa rộng (số 18): a) nghĩa hẹp: công bố Tin Mừng cho người ngoài kitô giáo; b) nghĩa rộng: bất cứ công việc, công tác nào nhằm làm cho mọi thực tại trần thế trở nên phù hợp với chương trình của Thiên Chúa, làm cho tinh thần và nội dung Tin Mừng thấm nhập vào các thực tại trần thế; đem men Tin Mừng vào trong hết mọi lãnh vực của cuộc sống, nghĩa là biến đổi mọi thực thể nhân loại cho phù hợp với Tin Mừng, từ lối suy tư cá nhân cho đến các lối sinh hoạt của các dân tộc. Thực ra việc loan báo Tin mừng được thực hiện vừa bằng lời nói vừa bằng chứng tá đời sống, cũng như bằng những hoạt động để biến đổi mọi sự cho hợp với Tin mừng. Hiểu theo nghĩa này thì có thể dịch là ‘Phúc âm hoá’. Dù sao, tông huấn Evangelii Nuntiandi đã làm đảo lộn mối tương quan giữa Missio và Evangelizatio. Trước đây (trong Sắc lệnh Ad gentes số 6), Evangelizatio ám chỉ một khía cạnh của công tác truyền giáo (missio). Bây giờ, Evangelizatio bao trùm toàn thể hoạt động của Giáo Hội, trong đó missio chỉ là một lãnh vực của nó.-
Cụm từ ‘Cộng Đoàn Giáo Hội Cơ Bản’
- Lm. Giuse Phan Tấn Thành, Loan Báo Tin Mừng và Tái Loan Báo Tin Mừng
- Gianni Colzani, L’evangelizzazione di oggi, Vita Pastorale (01.01.2012)
- Giêrônimô Nguyễn Văn Nội, Xây Dựng Các Cộng Đoàn Giáo Hội Cơ Bản
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viếtÝ kiến bạn đọc
Sắp xếp theo bình luận mới Sắp xếp theo bình luận cũ Sắp xếp theo số lượt thích Bạn cần đăng nhập với tư cách là Thành viên chính thức để có thể bình luậnNhững tin mới hơn
-
VATICAN BAN HÀNH BẢN CHỈ DẪN CẬP NHẬT LIÊN QUAN ĐẾN CÁC VẤN ĐỀ VỀ ĐẠO ĐỨC SINH HỌC - Thế Vinh
(02/07/2017) -
Tông Thư MAGNUM PRINCIPIUM, 3-9-2017 - Bản Việt ngữ của UBPT
(16/12/2017) -
NHỮNG NGUYÊN TẮC CHỐNG LẠM DỤNG VÀ SỰ CHE ĐẬY TỘI TÌNH DỤC TRẺ VỊ THÀNH NIÊN THEO TÔNG THƯ VOS ESTIS LUX MUNDI - J.B. Lê Ngọc Dũng
(24/01/2022) -
Tự sắc Competentias quasdam decernere phân bổ năng quyền - J.B. Lê Ngọc Dũng
(22/04/2022) -
QUẢN TRỊ, CHUYỂN NHƯỢNG TÀI SẢN TRONG GIÁO PHẬN - JB. Lê Ngọc Dũng
(19/08/2022) -
Tân Giám mục giáo phận thi hành chức vụ từ khi nào? - J.B. Lê Ngọc Dũng
(01/05/2023)
Những tin cũ hơn
-
CHẮC CHẮC LUÂN LÝ - ĐGH PIO XII, 1-10-1942
(01/03/2016) -
NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ CÁC TỘI DÀNH RIÊNG CHO BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN
(14/01/2016) -
HUẤN THỊ VỀ GIẢI GỠ HÔN PHỐI NHỜ ĐẶC ÂN ĐỨC TIN - Bộ Giáo Lý Đức
(10/01/2016) -
Tự Sắc CHÚA GIÊSU THẨM PHÁN NHÂN TỪ Mitis Iudex Dominus Iesus (phần 1)
(01/01/2016)
GIỚI THIỆU TRANG GIÁO LUẬT CÔNG GIÁO
Con xin giới thiệu trang Web ;http://giaoluatconggiao.com được thành lập với sự khuyến khích của Đức cha Toma Nguyễn Văn Trâm, Gp. Bà Rịa phụ trách Giáo Luật trong HĐGMVN, Đức cha Giuse Võ Đức Minh Gp Nha Trang. Trang Web được phát kiến và hình thành với các lý do sau: - Trong khóa Bổ Túc...
THÀNH VIÊN GLCG- THÀNH VIÊN GLCG
- Khả thể lãnh nhận bí tích Giải tội, Thánh Thể nơi người ly dị tái hôn
- TÒA ÁN GIÁO PHẬN NHA TRANG, DANH SÁCH ĐƠN XIN TIÊU HÔN
- Hướng dẫn xử lý lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên theo Vademecum của Vos Estis
- Có nên cầu nguyện trong khi giảng lễ hay không?
- Tông thư VOS ESTIS LUX MUNDI, 2023
- QUY ĐỊNH VỀ THỦ TỤC HÔN PHỐI ÁP DỤNG CHO TOÀN GIÁO HỘI TẠI VIỆT NAM, có thêm ghi chú.
- GIẢI ĐÁP VỀ MỤC VỤ GIÁO LUẬT HÔN NHÂN
- MỘT SỐ QUY ĐỊNH VỀ BỔNG LỄ VÀ Ý LỄ
- GIẢI ĐÁP VỀ BỔNG LỄ, Ý LỄ
- MỘT SỐ GIẢI ĐÁP PHỤNG VỤ LIÊN QUAN ĐẾN THÁNH LỄ
- VỊ TRÍ GHẾ CỦA TƯ TẾ CỬ HÀNH THÁNH LỄ
- QUY ĐỊNH VỀ THỦ TỤC HÔN PHỐI ÁP DỤNG CHO TOÀN GIÁO HỘI TẠI VIỆT NAM, có thêm ghi chú.
- GIẢI ĐÁP VỀ MỤC VỤ GIÁO LUẬT HÔN NHÂN
- Có nên cầu nguyện trong khi giảng lễ hay không?
- GIẢI ĐÁP VỀ MỤC VỤ GIÁO LUẬT HÔN NHÂN
- MỘT SỐ GIẢI ĐÁP VỀ TU HỘI ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN - J.B. Lê Ngọc Dũng
- GIẢI ĐÁP THẮC MẮC HÔN NHÂN - JB. Lê Ngọc Dũng
- TRẢ LỜI NHỮNG NGHI VẤN CỦA BỐN HỒNG Y- Rocco Buttiglione
- Tại sao tôi không được nhận đi tu vì cha mẹ tôi sống rối hôn phối? - JB. Lê Ngọc Dũng.
- 25 MẪU ĐƠN MỤC VỤ HÔN PHỐI (2019) – JB. Lê Ngọc Dũng
- 21 MẪU ĐƠN HÔN PHỐI 2017 - JB. Lê Ngọc Dũng
- Bản khai (tra vấn) trước kết hôn
- Đơn xin miễn chuẩn thể thức kết hôn theo Giáo luật
- Đơn xin miễn chất vấn trong kết hôn theo đặc ân T. Phaolô
- Đang truy cập5
- Hôm nay857
- Tháng hiện tại28,054
- Tổng lượt truy cập11,228,426
Giới thiệu bài viết cho bạn bè
Gửi phản hồi × Gửi phản hồiTừ khóa » Tóm Tắt Tông Thư Paris Code
-
Bản Tóm Lược Tông Thư “Patris Corde”
-
Tông Thư Patris Corde - Trái Tim Của Người Cha - Vatican News
-
Tông Thư Patris Corde (Trái Tim Người Cha) Của Đức Thánh Cha ...
-
Tông Thư PATRIS CORDE – TRÁI TIM CỦA NGƯỜI CHA
-
Tông Thư "Trái Tim Người Cha" Của ĐTC Phanxicô Về Thánh Giuse
-
Paris – Wikipedia Tiếng Việt
-
Bình Vẫn Chưa Hề Cũ - Monita, Cẩm Nang Truyền Giáo Vượt Thời Gian
-
Các Văn Kiện Của Giáo Hội Liên Quan Đến Đời Sống Thánh Hiến
-
[PDF] CÁCH VIẾT TỔNG QUAN TÀI LIỆU
-
ĐÂY LÀ ĐỨC TIN
-
Tóm Tắt Lịch Sử Việt Nam, Học Lịch Sử Việt Nam Trong 10 Phút
-
Nghị định 06/2022/NĐ-CP Giảm Nhẹ Phát Thải Khí Nhà Kính Và Bảo ...
-
Tông Huấn Reconciliatio Et Paenitentia (Hòa Giải Và Sám Hối) Của ...
-
Hướng Dẫn: Nhập Dữ Liệu Vào Excel Và Tạo Mô Hình Dữ Liệu