Tổng Quan Dự Báo Tình Hình Kinh Tế Thế Giới Quý II Và Cả Năm 2022

Tại thời điểm tháng 6/2022, kinh tế toàn cầu trong năm 2022 được dự báo giảm so với các dự báo đưa ra trước đó. Ngân hàng Thế giới (WB) nhận định sau hơn hai năm đại dịch cùng với tác động lan tỏa từ cuộc xung đột giữa Nga và U-crai-na hoạt động kinh tế toàn cầu giảm mạnh, dự kiến chỉ đạt 2,9% năm 2022, giảm 1,2 điểm phần trăm so với dự báo đưa ra vào tháng 01/2022. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự báo tăng trưởng toàn cầu năm 2022 ở mức 3,6%, thấp hơn 0,8 điểm phần trăm so với dự báo tháng 01/2022. Tăng trưởng GDP toàn cầu năm 2022 được Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) dự báo sẽ chậm lại và chỉ đạt mức 3%, thấp hơn 1,5 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 12/2021. Theo Liên hợp quốc, nền kinh tế toàn cầu hiện được dự báo chỉ tăng trưởng 3,1% vào năm 2022, đánh dấu mức điều chỉnh giảm 0,9 điểm phần trăm so với dự báo được công bố vào tháng 01/2022. WB điều chỉnh giảm dự báo tăng trưởng của một số nền kinh tế chủ chốt trên thế giới. Theo đó, tăng trưởng của Hoa Kỳ năm 2022 dự báo đạt 2,5%, giảm 1,2 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 01/2022; Khu vực đồng Euro chỉ đạt 2,5%, giảm 1,7 điểm phần trăm; Nhật Bản đạt 1,7%, giảm 1,2 điểm phần trăm; Trung Quốc đạt 4,3%, giảm 0,8 điểm phần trăm. Trong khu vực Đông Nam Á, Ngân hàng Phát triển châu Á nhận định tăng trưởng năm 2022 của In-đô-nê-xi-a đạt 5,0%, Phi-li-pin đạt 6,0%, Thái Lan đạt 3,0%, Xin-ga-po đạt 4,3%, Ma-lai-xi-a đạt 6,0% và Việt Nam đạt cao nhất ở mức 6,5%.

I. XU HƯỚNG KINH TẾ VĨ MÔ TOÀN CẦU

1. Các tổ chức quốc tế hạ dự báo tăng trưởng toàn cầu năm 2022 so với thời điểm đầu năm

Theo báo cáo Triển vọng kinh tế toàn cầu tháng 06/2022, WB nhận định sau hơn hai năm đại dịch, cùng với tác động lan tỏa từ cuộc xung đột giữa Nga và U-crai-na, hoạt động kinh tế toàn cầu giảm mạnh, dự kiến chỉ đạt 2,9% năm 2022, giảm 1,2 điểm phần trăm so với dự báo đưa ra vào tháng 01/2022. Hoạt động kinh tế của các nền kinh tế phát triển bị kìm hãm do giá năng lượng tăng, điều kiện tài chính kém thuận lợi và gián đoạn chuỗi cung ứng do tác động từ cuộc xung đột giữa Nga và U-crai-na. Do đó, tăng trưởng của các nền kinh tế phát triển được dự báo sẽ giảm xuống gần một nửa, từ 5,1% năm 2021 xuống còn 2,6% năm 2022, thấp hơn 1,2 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 01/2022. Tăng trưởng của các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi cũng được dự báo sẽ giảm khoảng một nửa trong năm nay, từ mức 6,6% năm 2021 xuống còn 3,4% năm 2022, thấp hơn 1,2 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 01/2022.

Theo Báo cáo sơ bộ Triển vọng kinh tế thế giới phát hành vào tháng 06/2022, OECD nhận định cuộc xung đột giữa Nga và U-crai-na đã gây ra một cuộc khủng hoảng nhân đạo lớn ảnh hưởng đến hàng triệu người. Các cú sốc kinh tế và tác động của chúng đối với thị trường hàng hóa, thương mại và tài chính toàn cầu có tác động lớn đến hoạt động kinh tế và cuộc sống của người dân. Trước xung đột, triển vọng phát triển được cho là tương đối thuận lợi trong giai đoạn 2022-23, với tốc độ tăng trưởng và lạm phát trở lại bình thường trước khi đại dịch Covid-19 và các hạn chế từ phía cung giảm dần. Tuy nhiên, xung đột giữa Nga và U-crai-na cùng với việc phong tỏa tại các thành phố và cảng lớn ở Trung Quốc khi áp dụng chính sách không Covid đã tạo ra một loạt các cú sốc bất lợi mới. Tăng trưởng GDP toàn cầu được dự báo sẽ chậm lại và chỉ đạt 3% trong năm 2022, thấp hơn 1,5 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 12/2021. Các nền kinh tế châu Âu, đặc biệt là các nền kinh tế giáp biên giới với Nga hoặc U-crai-na, dự kiến sẽ bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi những diễn biến gần đây.

Báo cáo Tình hình và triển vọng kinh tế thế giới tính tới giữa năm 2022 của Liên hợp quốc (UNDESA) cho rằng nền kinh tế toàn cầu có thể đang trên đỉnh của một cuộc khủng hoảng mới, trong khi vẫn đang phục hồi sau đại dịch. Xung đột ở U-crai-na đã cản trở sự phục hồi mong manh sau đại dịch, gây ra một cuộc khủng hoảng nhân đạo ở châu Âu, đẩy giá lương thực và hàng hóa lên cao và làm trầm trọng thêm áp lực lạm phát trên toàn cầu. Những bất ổn địa chính trị và kinh tế đang làm giảm niềm tin kinh doanh và đầu tư, đồng thời làm suy yếu triển vọng kinh tế ngắn hạn. Trong bối cảnh đó, nền kinh tế toàn cầu được dự báo chỉ tăng trưởng 3,1% trong năm 2022, điều chỉnh giảm 0,9 điểm phần trăm so với dự báo được công bố vào tháng 01/2022. Triển vọng kinh tế toàn cầu đối mặt với những rủi ro lớn từ việc bùng phát xung đột tại U-crai-na, làn sóng đại dịch mới và động thái thắt chặt tiền tệ diễn ra nhanh hơn dự kiến ở các nền kinh tế phát triển. Các nền kinh tế đang phát triển được dự báo tăng trưởng 4,1% năm 2022, thấp hơn 0,4 điểm phần trăm so với dự báo đầu năm nay, chủ yếu do giá năng lượng và thực phẩm cao hơn, áp lực lạm phát gia tăng và tăng trưởng chậm lại ở Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu và Trung Quốc.

Hình 1. Dự báo tăng trưởng toàn cầu năm 2021 và 2022 của các tổ chức quốc tế

Nguồn: WB, IMF, OECD, UNDESA

Báo cáo Triển vọng kinh tế thế giới tháng 04/2022 của IMF nhận định triển vọng kinh tế toàn cầu đã xấu đi đáng kể so với dự báo trong tháng 01/2022. Tại thời điểm đầu năm, IMF dự báo phục hồi kinh tế toàn cầu được tăng cường từ Quý II/2022 sau tác động ngắn hạn của biến thể Omicron. Tuy nhiên, điều này đã không thể xảy ra và triển vọng kinh tế toàn cầu đã xấu đi, phần lớn là do tác động của cuộc xung đột giữa Nga và U-crai-na trong khi nền kinh tế toàn cầu đang trên đà dần hồi phục sau đại dịch Covid-19. Ngoài xung đột, việc thực hiện các biện pháp phong tỏa thường xuyên và trên phạm vi rộng ở Trung Quốc có thể gây ra những tắc nghẽn mới trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Áp lực giá cao hơn dẫn đến việc thắt chặt chính sách tiền tệ ở nhiều quốc gia. IMF dự báo tăng trưởng toàn cầu đạt 3,6% trong năm 2022, điều chỉnh giảm 0,8 điểm phần trăm so với dự báo đưa ra vào tháng 01/2022.

  1. Tổng quan biến động thị trường thế giới

Thương mại hàng hóa toàn cầu suy giảm trong nửa đầu năm 2022

Thước đo thương mại hàng hóa của Tổ chức thương mại thế giới (WTO)[1]  trong tháng 5/2022 cho thấy xung đột ở U-crai-na và các đợt phong tỏa liên quan đến đại dịch gần đây ở Trung Quốc đang làm suy giảm thương mại hàng hóa toàn cầu trong nửa đầu năm 2022. Giá trị trong tháng 3/2022 của thước đo thương mại là 99,0, vẫn thấp hơn so với giá trị cơ sở 100. Nhiều chỉ số thành phần của thước đo chỉ gần bằng hoặc cao hơn giá trị cơ sở một ít, ví dụ đơn hàng xuất khẩu (101,2), sản phẩm ô tô (101,5), vận tải hàng không (99,9), linh kiện điện tử (103,8) và nguyên liệu thô (99,5). Trong khi đó, chỉ số vận chuyển container vẫn ở dưới xu hướng (95,0) do tồn đọng hàng hóa tại cảng kéo dài. Trong tháng 4/2022, WTO dự báo tăng trưởng khối lượng thương mại hàng hóa thế giới là 3,0% cho năm 2022, giảm so với mức tăng 4,7% được dự báo vào tháng 10/2021.

Theo WB, tăng trưởng thương mại toàn cầu được dự báo sẽ chậm lại, đạt 4% trong năm 2022 do cuộc xung đột ở U-crai-na tiếp tục phá vỡ chuỗi giá trị toàn cầu, hoạt động toàn cầu dần chuyển hướng trở lại khu vực dịch vụ ít gắn kết với thương mại và hoạt động di chuyển quốc tế. Tăng trưởng thương mại hàng hóa chậm lại trong nửa đầu năm 2022 do chuỗi cung ứng tiếp tục bị ảnh hưởng bởi tác động kéo dài của đại dịch, gồm gián đoạn ở các cảng lớn của châu Á và tình trạng phong tỏa ở các thành phố lớn của Trung Quốc. Ngoài ra, xung đột giữa Nga và U-crai-na đã dẫn đến những xáo trộn nghiêm trọng trong hoạt động sản xuất và tiếp vận (logistic). Tuy Nga và U-crai-na chiếm dưới 3% tỷ trọng xuất khẩu toàn cầu nhưng nhiều ngành công nghiệp toàn cầu phụ thuộc vào nguồn cung cấp các mặt hàng quan trọng được sản xuất tại hai quốc gia này, đặc biệt là ở Nga. Tình trạng thiếu hụt và giá các nguyên liệu đầu vào tăng cao chưa từng thấy đã xảy ra trong các chuỗi giá trị toàn cầu, dẫn đến sản xuất đình trệ và giá sản xuất tăng cao. Ngoài ra, chi phí vận tải tăng lên khi hoạt động hàng hải và thương mại ở Biển Đen bị gián đoạn, ảnh hưởng tiêu cực đến vận chuyển lương thực và dầu thô. Thương mại dịch vụ đã gần phục hồi như mức trước đại dịch, chủ yếu từ các dịch vụ phi du lịch. Mặc dù hoạt động du lịch đã bắt đầu phục hồi ở các nền kinh tế phát triển có mức độ bao phủ tiêm chủng cao, nhưng nhìn chung hoạt động này vẫn còn khiêm tốn ở các quốc gia đang phát triển và mới nổi, đặc biệt là các quốc đảo nhỏ phụ thuộc vào du lịch.

Giá cả và lạm phát tăng

Giá hàng hóa tiếp tục tăng cao trong nửa đầu năm 2022 sau đà tăng từ giữa năm 2020 do nhu cầu phục hồi trong bối cảnh sản xuất một số mặt hàng bị hạn chế cũng như tác động của xung đột giữa Nga và U-crai-na dẫn đến sự gián đoạn lớn đối với sản xuất và thương mại, đặc biệt những mặt hàng xuất khẩu chủ chốt của Nga và U-crai-na, bao gồm năng lượng và lúa mì. Giá các sản phẩm dầu, đặc biệt là dầu diesel và xăng, tăng cao hơn nhiều so với giá dầu thô do công suất lọc dầu không đủ và hoạt động xuất khẩu các sản phẩm dầu tinh chế của Nga bị gián đoạn. Nhóm các quốc gia G7 và EU tuyên bố sẽ cấm hoặc dần dần loại bỏ nhập khẩu dầu của Nga, với các biện pháp tương tự được thực hiện đối với than và khí đốt tự nhiên của quốc gia này. Cơ quan Năng lượng Quốc tế ước tính theo các lệnh trừng phạt hiện tại, xuất khẩu dầu của Nga có thể tạm thời giảm 2,5 triệu thùng mỗi ngày, khoảng 30% lượng xuất khẩu hiện tại và khoảng 3% nguồn cung toàn cầu. Chuyển hướng mua dầu từ các nước khác kết hợp với việc sử dụng dầu mỏ dự trữ chiến lược và một số sản lượng bổ sung từ OPEC có thể sẽ đủ để bù đắp sự thiếu hụt này. Trong bối cảnh đó, giá năng lượng được dự báo sẽ tăng 52% trong năm 2022, cao hơn 47 điểm phần trăm so với dự báo trước đây của WB. Giá dầu thô Brent được dự báo sẽ ở mức trung bình 100USD/thùng.

Giá nông sản được dự báo sẽ tăng 18% trong năm 2022, cao hơn các dự báo trước đó, do sản lượng ngũ cốc giảm ở U-crai-na cũng như chi phí đầu vào cao. Giá phân bón dự kiến sẽ tăng gần 70% năm 2022 do chi phí đầu vào tăng cao, sản xuất giảm và gián đoạn thương mại. Nga và U-crai-na là những nước xuất khẩu lúa mì chính, chiếm khoảng 1/4 lượng lúa mì xuất khẩu toàn cầu. Nga cũng là nước xuất khẩu phân bón lớn nhất thế giới và đã thiết lập các hạn ngạch và hạn chế mới đối với xuất khẩu. Khoảng 90% lượng ngũ cốc xuất khẩu của U-crai-na chảy qua các cảng Biển Đen, hiện không hoạt động. Một số lượng lúa mì có thể được vận chuyển qua các hành lang đường bộ và đường sắt, nhưng khối lượng sẽ giảm mạnh do tắc nghẽn cơ sở hạ tầng và các lo ngại về an toàn. Mức tăng giá nông sản năm 2022 phản ánh sự tăng vọt của giá lúa mì và ngô, được bù đắp một phần bởi sự sụt giảm nhẹ giá các mặt hàng chủ lực khác có nguồn cung toàn cầu dồi dào như gạo và đậu tương.

Giá kim loại tiếp tục tăng trong năm 2022, góp phần làm tăng đáng kể so với mức tăng của năm ngoái. Giá nhôm và niken tăng khoảng 30% do tầm quan trọng của Nga với tư cách là một nhà xuất khẩu lớn. Giá kim loại hiện dự kiến sẽ tăng 12% năm 2022, một mức tăng đáng kể so với các dự báo trước đó. Ảnh hưởng của cuộc xung đột ở U-crai-na được cho là ít tác động lâu dài đến giá kim loại hơn là giá năng lượng.

Theo IMF, do tác động của xung đột ở U-crai-na và áp lực giá cả ngày càng tăng, lạm phát dự kiến sẽ tiếp tục tăng cao hơn so với dự báo trước đó. Xung đột có thể sẽ kéo dài tác động đến giá hàng hóa, ảnh hưởng nghiêm trọng hơn đến giá dầu và khí đốt năm 2022 và giá lương thực năm 2023. Trong năm 2022, IMF dự báo lạm phát là 5,7% ở các nền kinh tế phát triển và 8,7% ở thị trường mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển, cao hơn 1,8 và 2,8 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 01/2022.

Điều kiện tài chính toàn cầu có xu hướng thắt chặt

Theo WB, lạm phát tăng dẫn đến kỳ vọng thắt chặt chính sách tiền tệ diễn ra nhanh hơn trên toàn thế giới. Lợi tức trái phiếu của các nền kinh tế phát triển đã tăng rõ rệt và các thước đo về biến động vốn chủ sở hữu đã tăng liên tục, ảnh hưởng đến việc định giá tài sản rủi ro. Kể từ đầu năm, chứng khoán Hoa Kỳ và khu vực đồng Euro đã giảm lần lượt khoảng 13% và 12%. Cuộc xung đột Nga và U-crai-na đã làm tăng giá đồng đô la Mỹ so với đồng tiền của các thị trường mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển, dẫn đến gia tăng chi phí giải quyết các khoản nợ trên toàn cầu.

Ngày 15/6/2022, Cục Dự trữ liên bang Hoa Kỳ (Fed)[2] thông báo nâng lãi suất thêm 0,75 điểm phần trăm để đối phó với tình trạng lạm phát tồi tệ nhất trong nhiều thập kỷ. Đây là lần đầu tiên kể từ năm 1994, Fed nâng lãi suất lên mức này. Lãi suất tham chiếu tại Mỹ hiện nằm trong khoảng 1,5% – 1,75% và sẽ ảnh hưởng đến hàng triệu hộ gia đình và doanh nghiệp Hoa Kỳ do sẽ kéo nhiều loại lãi suất lên cao, như lãi vay mua nhà, mua ô tô, lãi thẻ tín dụng và vay kinh doanh, từ đó làm giảm tốc tăng trưởng của nền kinh tế. Trong cuộc họp báo sau đó 2 ngày, Chủ tịch Fed thừa nhận mức tăng 0,75 điểm phần trăm là “lớn bất thường” và có thể thảo luận việc nâng lãi suất thêm 0,75 hay chỉ 0,5 phần trăm trong phiên họp kế tiếp vào cuối tháng 7/2022.

Số giờ làm việc đã giảm

Tổ chức Lao động quốc tế (ILO)[3] cho rằng số giờ làm việc trên thế giới đã giảm trong Quý I/2022 và thấp hơn 3,8% so với Quý IV/2019 (mức trước khủng hoảng), tương đương với mức thâm hụt 112 triệu việc làm toàn thời gian, cho thấy một sự sụt giảm đáng kể trong quá trình phục hồi kinh tế toàn cầu. Các biện pháp phong tỏa gần đây ở Trung Quốc là nguyên nhân dẫn đến sự suy giảm số giờ làm việc toàn cầu. Xung đột ở U-crai-na không chỉ có tác động trong khu vực mà còn ảnh hưởng đến kinh tế toàn cầu khi làm gia tăng lạm phát, đặc biệt là giá thực phẩm và năng lượng, đồng thời phá vỡ chuỗi cung ứng toàn cầu. Ngoài ra, bất ổn tài chính gia tăng và thắt chặt chính sách tiền tệ có thể sẽ tác động sâu rộng hơn đến thị trường lao động trên thế giới, đặc biệt làm suy giảm hơn nữa số giờ làm việc trong năm 2022. Dự báo mới nhất của ILO cho thấy mức giờ làm việc dự kiến trong Quý II/2022 thấp hơn 4,2% so với mức trước đại dịch, tương đương với 123 triệu việc làm toàn thời gian.

Dòng vốn FDI toàn cầu vào năm 2022 được dự báo giảm hoặc đi ngang so với năm 2021

Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển UNCTAD[4] nhận định dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) toàn cầu năm 2021 là 1,58 nghìn tỷ USD, tăng 64% so với năm đầu tiên diễn ra đại dịch. Động lực chính của dòng vốn FDI đến từ việc bùng nổ hoạt động mua bán và sáp nhập, tốc độ tăng trưởng nhanh chóng trong lĩnh vực tài trợ dự án quốc tế do nới lỏng tài chính và các gói kích thích cơ sở hạ tầng lớn. Tuy nhiên, môi trường toàn cầu đối với kinh doanh quốc tế và đầu tư xuyên biên giới đã thay đổi đáng kể trong năm 2022 do xung đột giữa Nga và U-crai-na, trong khi thế giới vẫn phải đối mặt với tác động của đại dịch. Cuộc xung đột này đang có những tác động vượt ra ngoài phạm vi lân cận, gây ra cuộc khủng hoảng trên ba lĩnh vực gồm lương thực, nhiên liệu và tài chính, với giá năng lượng và hàng hóa cơ bản tăng cao dẫn đến lạm phát và vòng xoáy nợ ngày càng trầm trọng. Sự không chắc chắn của nhà đầu tư và tình trạng rủi ro có thể gây áp lực giảm đáng kể lên FDI toàn cầu vào năm 2022. Nhìn chung, UNCTAD dự báo động lực tăng trưởng của năm 2021 không thể duy trì và dòng vốn FDI toàn cầu năm 2022 có thể sẽ đi xuống hoặc đi ngang.

Một số nhân tố rủi ro tác động tới triển vọng kinh tế thế giới

Theo IMF, rủi ro đối với triển vọng tăng trưởng toàn cầu là lớn và nghiêng về xu hướng làm giảm tăng trưởng. Những rủi ro nổi bật nhất bao gồm:

Thứ nhất, chiến tranh ngày càng tồi tệ sẽ làm trầm trọng thêm các tác động trực tiếp và gián tiếp đến dự báo tăng trưởng, bao gồm gia tăng khủng hoảng nhân đạo ở U-crai-na và dòng người tị nạn sang các nước láng giềng. Ngoài ra, các biện pháp trừng phạt thắt chặt hơn có thể dẫn đến đứt gãy thêm kết nối thương mại, bao gồm cả các liên kết năng lượng quan trọng giữa Nga và châu Âu, với những tác động bất lợi đối với đầu tư xuyên biên giới. Điều này sẽ dẫn đến gián đoạn nguồn cung nhiều hơn, giá toàn cầu tăng và biến động trên thị trường hàng hóa, với giá trị sản xuất toàn cầu ngày càng sụt giảm.

Thứ hai, căng thẳng xã hội sẽ gia tăng trong thời gian tới do hai nguyên nhân chính. Một là, giá nhiên liệu và lương thực toàn cầu tiếp tục tăng mạnh. Đây là mối quan tâm đặc biệt ở thị trường mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển với không gian tài khóa hạn chế, phụ thuộc nhiều vào năng lượng và nhập khẩu lương thực để tiêu dùng cơ bản. Hai là, tác động lâu dài hơn của cuộc khủng hoảng nhân đạo. Trong tương lai, dòng người tị nạn lớn có thể làm trầm trọng thêm căng thẳng xã hội và tình trạng bất ổn.

Thứ ba, mặc dù các điều kiện đang được cải thiện, nhưng đại dịch vẫn có thể diễn ra theo chiều hướng xấu. Chủng Omicron được xem là có mức độ bệnh tương đối nhẹ với người được tiêm chủng, nhưng vẫn còn quá sớm để đánh giá mối đe dọa mà các chủng loài phụ của nó gây ra.

Thứ tư, tăng trưởng tại Trung Quốc giảm đã bộc lộ những điểm yếu về cơ cấu của quốc gia này, như nợ công cao, đòn bẩy phát triển bất động sản, nợ hộ gia đình và hệ thống ngân hàng mỏng manh. Điều này sẽ dẫn đến giảm nhu cầu đối với hàng xuất khẩu từ nhiều quốc gia có thu nhập trung bình và thấp trong khu vực và có thể làm gián đoạn nguồn cung hàng hóa cho phần còn lại của thế giới.

Thứ năm, bất chấp những đợt tăng gần đây, kỳ vọng lạm phát sẽ giảm trong trung hạn khi các ngân hàng trung ương trên thế giới đưa ra các chính sách để giải quyết tình trạng lạm phát tăng cao. Tuy nhiên, với lạm phát vốn đã cao và giá năng lượng và thực phẩm tăng, kỳ vọng lạm phát cao hơn có thể trở nên phổ biến hơn và do đó, dẫn đến tăng giá cao hơn nữa. Thêm vào đó, tăng trưởng tiền lương danh nghĩa vẫn đi sau lạm phát giá cả ở hầu hết các quốc gia, gây thêm áp lực giá chung.

Thứ sáu, đại dịch đã làm nợ công tăng trên khắp thế giới. Khi lãi suất tăng, điều này sẽ làm căng thẳng ngân sách công với những lựa chọn khó khăn xung quanh việc củng cố tài khóa trong trung hạn, do áp lực đối với xã hội và trong một số trường hợp, chi tiêu quốc phòng có thể vẫn ở mức cao. Lãi suất cao hơn có thể dẫn đến sự hỗn loạn trong việc điều chỉnh giá tài sản hiện hành, bao gồm cả nhà ở.

Thứ bảy, môi trường địa chính trị xấu đi trên diện rộng. Về lâu dài, xung đột ở U-crai-na có nguy cơ làm mất ổn định các khuôn khổ luật lệ đã điều chỉnh các mối quan hệ quốc tế trong thời kỳ hậu Chiến tranh thế giới thứ hai. Sự phân cực quốc tế gia tăng, hoặc xung đột lan rộng hơn, sẽ làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng nhân đạo và cản trở quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu.

Thứ tám, tình trạng khẩn cấp về khí hậu đang diễn ra. Những tác động của hiện tượng ấm lên đã bắt đầu bộc lộ. Hạn hán, cháy rừng, lũ lụt và các trận cuồng phong lớn trở nên thường xuyên hơn và nghiêm trọng hơn. Trong khi đó, xung đột ở U-crai-na có thể sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình chuyển đổi năng lượng. Trong ngắn hạn, sự thiếu hụt nguồn cung năng lượng do chiến tranh và giá cả cao hơn có thể đồng nghĩa với việc phụ thuộc ngày càng nhiều vào các nhiên liệu hóa thạch bẩn như than đá.

II. TĂNG TRƯỞNG CỦA MỘT SỐ NỀN KINH TẾ

1. Hoa Kỳ

Theo báo cáo Tình hình và triển vọng kinh tế thế giới của UNDESA, tăng trưởng của nền kinh tế Hoa Kỳ được dự báo sẽ giảm xuống còn 2,6% trong năm 2022, điều chỉnh giảm 0,9 điểm phần trăm so với dự báo đưa ra hồi tháng 01/2022, trong bối cảnh áp lực lạm phát cao, siết chặt chính sách tiền tệ và tác động trực tiếp cũng như gián tiếp của cuộc xung đột giữa Nga và U-crai-na. Đồng đô la tăng giá là hậu quả trực tiếp của chính sách thắt chặt tiền tệ, làm tăng áp lực lên xuất khẩu thuần, góp phần làm thâm hụt thương mại tăng và tăng trưởng năm 2022 giảm. Chính sách tiền tệ thắt chặt của Hoa Kỳ sẽ làm tăng mạnh chi phí đi vay đồng thời tác động tiêu cực đến các nền kinh đang phát triển và kém phát triển, làm chậm triển vọng tăng trưởng và tăng nguy cơ đối với phát triển bền vững ở những quốc gia này.

Ngày 15/6, Fed đã quyết định tăng lãi suất liên bang lên 0,75 điểm phần trăm. Như vậy, biên độ cho vay của Fed sẽ là 1,5% tới 1,75%. Fed cũng đưa ra những dấu hiệu cho thấy sẽ tiếp tục nâng mức lãi suất cơ bản trong năm nhằm hạn chế tăng trưởng nóng và ứng phó với lạm phát đang ở mức cao nhất trong vòng 40 năm qua[5].

Theo báo cáo Triển vọng kinh tế toàn cầu của WB, các hoạt động kinh tế của Hoa Kỳ đã mất đà tăng trong 6 tháng đầu năm 2022 dưới tác động của làn sóng Covid-19 do biến thể Omicron gây ra, các điều kiện tài chính thắt chặt hơn và những tác động kinh tế từ xung đột giữa Nga và U-crai-na. Mặc dù đến thời điểm hiện tại, tác động trực tiếp của cuộc chiến đã được kiềm chế, nhưng do hạn chế về kết nối thương mại và tài chính nên đã làm gia tăng áp lực lạm phát của nền kinh tế Hoa Kỳ với biểu hiện rõ nét hơn so với các nền kinh tế phát triển khác. WB dự báo tăng trưởng GDP của Hoa Kỳ giảm xuống mức 2,5% năm 2022, giảm 1,2 điểm phần trăm so với mức dự báo trong tháng 01/2022.

          Theo OECD, tăng trưởng GDP của Hoa Kỳ dự báo sẽ giảm mạnh từ mức 5,7% năm 2021 xuống còn 2,5% năm 2022. Thiếu hụt nguồn cung ngày càng trầm trọng do ảnh hưởng của xung đột Nga – U-crai-na, chính sách đóng cửa liên quan đến Covid của Trung Quốc, giá dầu tăng cao và tốc độ bình thường hóa chính sách tiền tệ nhanh hơn đã kìm hãm tốc độ tăng trưởng kinh tế Hoa Kỳ ở mức độ lớn hơn so với dự báo trước đây.

          Chỉ số nhà quản trị mua hàng tổng hợp (PMI) trong tháng 5/2022 của Hoa Kỳ được điều chỉnh giảm nhẹ so với số ước tính sơ bộ, ở mức 53,6 điểm, thấp hơn đáng kể so với mức 56,0 điểm trong tháng 4/2022. Chỉ số này cho thấy sự khởi sắc vững chắc nhưng chậm trong hoạt động kinh doanh của khu vực tư nhân. Giá trị sản xuất tăng nhẹ phản ánh tốc độ tăng chậm của lĩnh vực sản xuất và dịch vụ trong bối cảnh giá bán tăng và gián đoạn chuỗi cung ứng. Lượng đơn đặt hàng mới tăng ở mức thấp nhất kể từ tháng 9/2020 và nhu cầu của khách hàng nước ngoài tăng thấp nhất kể từ tháng 01/2022. Tuy nhiên, các đơn hàng tồn đọng tiếp tục tăng mạnh buộc các công ty phải tăng cường hoạt động tuyển dụng để đáp ứng nhu cầu.

          GDP Quý I/2022 của Hoa Kỳ giảm 1,5% so với Quý IV/2021 và tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước. Trading Economics[6] dự báo tăng trưởng GDP của Hoa Kỳ Quý II/2022 tăng 2,2% so với quý trước và tăng 2,0% so với Quý II/2021.

Hình 2. Dự báo tăng trưởng của Hoa Kỳ năm 2021 và 2022

Nguồn: WB, OECD, UN

2. Khu vực đồng Euro

Theo báo cáo Triển vọng kinh tế toàn cầu năm 2022 của WB, hoạt động kinh tế khu vực đồng Euro trong 6 tháng đầu năm 2022 giảm do tác động của xung đột giữa Nga và U-crai-na cũng như tái bùng phát đại dịch Covid-19 trước đó. Các quốc gia thành viên chủ chốt của khu vực đồng Euro đặc biệt phụ thuộc vào nhập khẩu năng lượng từ Nga, trong đó nhập khẩu khí đốt chiếm khoảng 35% tổng lượng khí đốt nhập khẩu vào khu vực. Ngoài năng lượng, giao dịch thương mại trực tiếp giữa khu vực này với Nga không lớn nên hạn chế được tác động trực tiếp của các lệnh trừng phạt đối với Nga. Tuy nhiên, những tác động gián tiếp thông qua gián đoạn chuỗi cung ứng, căng thẳng tài chính gia tăng và suy giảm niềm tin của người tiêu dùng và doanh nghiệp đã tác động đến hoạt động kinh tế của khu vực. Giá năng lượng và lương thực tăng cao đã góp phần làm lạm phát tăng mạnh, đạt mức cao kỷ lục 8,1% vào tháng 5 năm 2022. Tăng trưởng khu vực đồng Euro năm 2022 dự báo ​​sẽ giảm xuống mức 2,5%, điều chỉnh giảm 1,7 điểm phần trăm so với dự báo đưa ra hồi tháng 01/2022.

UNDESA dự báo GDP khu vực đồng Euro tăng trưởng ở mức 2,7% năm 2022, điều chỉnh giảm 1,3 điểm phần trăm so với dự báo đưa ra vào tháng 01/2022, sau khi đạt mức tăng trưởng 5,4% trong năm 2021.

Theo báo cáo sơ bộ của OECD, xung đột ở U-crai-na và chính sách phong tỏa của Trung Quốc đã làm tăng thêm các nút thắt nguồn cung đối với khu vực đồng Euro, làm gia tăng áp lực lạm phát, giảm thu nhập thực tế của hộ gia đình và ảnh hướng đến tâm lý kinh doanh. Theo đó, OECD dự báo tăng trưởng GDP khu vực đồng Euro giảm từ mức 5,3% năm 2021 xuống 2,6% năm 2022. Lạm phát cơ bản dự báo ở mức 7% năm 2022, cao hơn nhiều so với mức mục tiêu của Ngân hàng Trung ương châu Âu.

Chỉ số PMI tổng hợp trong tháng 5/2022 của khu vực đồng Euro giảm xuống mức thấp nhất trong 4 tháng, ở mức 54,8 điểm, giảm 1 điểm so với mức 55,8 điểm của tháng 4/2022. Sự sụt giảm này là kết quả của việc tăng trưởng ngành dịch vụ giảm khi phục hồi sau phong tỏa đang dần mất đi động lực. Mặc dù tăng trưởng giá trị sản xuất ngành chế biến chế tạo cao hơn so với mức thấp nhất trong 22 tháng của tháng 4 nhưng vẫn còn thấp và nằm dưới mức trung bình. Giá trị sản xuất kinh doanh của khu vực tư nhân tăng với tốc độ chậm nhất kể từ tháng 01/2022.

GDP Quý I/2022 của khu vực đồng Euro tăng 0,6% so với Quý IV/2021 và tăng 5,4% so với cùng kỳ năm trước. GDP Quý II/2022 của khu vực đồng Euro theo dự báo của Trading Economics[7] không tăng so với Quý I/2022 và tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước.

Hình 3. Dự báo tăng trưởng của khu vực đồng Euro năm 2021 và 2022

Nguồn: WB, OECD, UN

3. Nhật Bản

Theo WB, hoạt động kinh tế của Nhật Bản đã chậm lại trong nửa đầu năm 2022 trong bối cảnh nhu cầu trong nước giảm và các điều kiện bên ngoài không thuận lợi. WB điều chỉnh dự báo tăng trưởng GDP của nền kinh tế Nhật Bản xuống mức 1,7% năm 2022, thấp hơn 1,2 điểm phần trăm so với dự báo đưa ra hồi tháng 01/2022, phản ánh lực cản lớn hơn dự kiến do Covid-19 gây ra, suy thoái thương mại do xung đột ở U-crai-na và xuất khẩu yếu hơn.

Theo OECD, tăng trưởng kinh tế Nhật Bản trong 6 tháng đầu năm 2022 đã bị làn sóng Omicron làm cho chậm lại khi áp dụng các biện pháp hạn chế nhằm đảm bảo sức khỏe cộng đồng trên toàn quốc vào đầu năm 2022, cũng như nhu cầu bên ngoài yếu và giá các mặt hàng nhập khẩu chủ chốt tăng cao. Với sự hỗ trợ của phục hồi tiêu dùng tư nhân sau khi dỡ bỏ các biện pháp hạn chế, tăng trưởng GDP của Nhật Bản năm 2022 được dự báo đạt 1,7%. Giá hàng hóa cao hơn sẽ đẩy lạm phát tăng lên mức gần 2,5% vào cuối năm 2022, nhưng lạm phát cơ bản được dự báo sẽ vẫn ở mức thấp.

UNDESA đưa ra con số dự báo tăng trưởng GDP của Nhật Bản năm 2022 lạc quan hơn nhiều so với mức WB và OECD dự báo cho quốc gia này, ở mức 2,7%. Theo UNDESA, tái bùng phát đại dịch Covid-19 do biến thể Omicron gây ra suy giảm kinh tế không đáng kể đối với Nhật Bản, đồng thời nhu cầu trong nước và ngoài nước dự kiến sẽ hỗ trợ tăng trưởng trong năm 2022. Mặc dù phục hồi kinh tế của Nhật Bản đang bị tụt hậu so với các nước khác trong khu vực, nhưng đầu tư tư nhân dự kiến sẽ tăng trưởng trở lại sau hai năm suy giảm.

          Chỉ số PMI tổng hợp tháng 5/2022 của Nhật Bản đạt 52,3 điểm, cao hơn mức 51,1 điểm trong tháng 4/2022. Đây là tháng tăng thứ ba liên tiếp trong hoạt động của khu vực tư nhân, chủ yếu là lĩnh vực du lịch. Lĩnh vực dịch vụ dẫn đầu tăng trưởng, giá trị sản xuất và đơn đặt hàng mới của ngành này đều tăng cao nhất kể từ tháng 11/2021.

Theo Trading Economics[8], GDP Quý I/2022 của nền kinh tế Nhật Bản giảm 0,1% so với Quý IV/2021 và tăng 0,2% so với cùng kỳ năm trước. GDP Quý II/2022 dự báo tăng 1,0% so với Quý I/2022 và tăng 0,5% so với Quý II/2021.

Hình 4. Dự báo tăng trưởng của Nhật Bản năm 2021 và 2022

Nguồn: WB, OECD, UN

4. Trung Quốc

        Theo WB, hoạt động kinh tế của Trung Quốc đã chậm lại đáng kể, chủ yếu do bùng phát đại dịch Covid-19 và áp dụng chính sách phong tỏa nghiêm ngặt, chi tiêu dùng giảm. Đầu tư thương mại và sản xuất đã mất đà do nguồn cung bị gián đoạn và tác động tiêu cực của xung đột ở U-crai-na. Mặc dù đầu tư vào bất động sản trong những tháng đầu năm đã có dấu hiệu phục hồi, nhưng do những hạn chế liên quan đến đại dịch Covid-19 nên đã yếu đi. Theo đó, WB dự báo nền kinh tế Trung Quốc sẽ tăng 4,3% trong năm 2022. WB đã điều chỉnh giảm dự báo tăng trưởng năm 2022 xuống 0,8 điểm phần trăm, phản ánh thiệt hại lớn hơn dự kiến từ đại dịch Covid-19 và chính sách phong tỏa nhằm khống chế đại dịch. Giá hàng hóa cao hơn sẽ làm giảm thặng dư tài khoản vãng lai và đẩy lạm phát lên mức mục tiêu. Để giảm thiểu tác động của đại dịch kéo dài và các điều khoản thương mại ngày càng tồi tệ, sẽ cần nhiều hơn các hỗ trợ từ chính sách tài khóa, tiền tệ và điều tiết của chính phủ.

          OECD dự báo tăng trưởng GDP của Trung Quốc sẽ giảm xuống còn 4,4% năm 2022, điều chỉnh giảm 0,7 điểm phần trăm so với dự báo đưa ra trong tháng 3/2022. Nền kinh tế Trung Quốc có thể gặp phải áp lực từ việc tăng giá năng lượng và thực phẩm, nhưng dự trữ lớn có thể giúp hạn chế những áp lực này. Lạm phát của Trung Quốc được dự báo ở mức 2% năm 2022.

        Chỉ số PMI tổng hợp của nền kinh tế Trung Quốc trong tháng 5/2022 đã tăng lên 42,2 điểm từ mức thấp nhất trong 26 tháng (37,2 điểm trong tháng 4/2022), trong bối cảnh các biện pháp hạn chế lây lan đại dịch Covid-19 được nới lỏng ở Thượng Hải và Bắc Kinh. Con số này là kết quả đóng góp chủ yếu của ngành chế biến chế tạo và dịch vụ, đơn hàng mới giảm ít nhất trong 3 tháng, đồng thời áp lực lạm phát đã giảm bớt với chi phí đầu vào tăng ít nhất kể từ tháng 2.

Theo Trading Economics[9], GDP Quý I/2022 của nền kinh tế Trung Quốc tăng 1,3% so với Quý IV/2021 và tăng 4,8% so với cùng kỳ năm trước. Trading Economic dự báo GDP Quý II/2022 của nền kinh tế này tăng 1,5% so với quý trước và tăng 4% so với cùng kỳ năm 2021.

Hình 5. Dự báo tăng trưởng của Trung Quốc năm 2021 và 2022

Nguồn: WB, OECD, UN

5. Đông Nam Á

Theo Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), GDP của In-đô-nê-xi-a tăng 3,7% trong năm 2021. Nền kinh tế In-đô-nê-xi-a bước vào năm 2022 với triển vọng tốt sau khi hạn chế di chuyển do Covid-19 được nới lỏng vào tháng 8/2021. Chỉ số nhà quản trị mua hàng chế biến chế tạo đã ở trên ngưỡng mở rộng kể từ tháng 9/2021. Những rủi ro do tác động kinh tế của xung đột Nga – U-crai-na kết hợp với sự bùng phát tiềm tàng của Covid-19 là rất lớn đối với nền kinh tế nước này. ADB dự báo tăng trưởng năm 2022 của In-đô-nê-xi-a ở mức 5%. WB dự báo tăng trưởng GDP của In-đô-nê-xi-a năm 2022 đạt 5,1%.

Nền kinh tế Ma-lai-xi-a phục hồi trong Quý IV/2021 nhờ nới lỏng các biện pháp ngăn chặn Covid-19, đưa tăng trưởng cả năm 2021 đạt 3,1%. Niềm tin của người tiêu dùng và kinh doanh được cải thiện, nhu cầu bên ngoài tăng từ các nền kinh tế phát triển và giá hàng hóa tăng mạnh giúp triển vọng kinh tế ngắn hạn của Ma-lai-xi-a tươi sáng. ADB dự kiến tăng trưởng năm 2022 của Ma-lai-xi-a đạt 6,0%, mặc dù những tác động kéo dài của Covid-19 vẫn có thể đè nặng lên nền kinh tế. WB dự báo tăng trưởng GDP của Ma-lai-xi-a năm 2022 đạt 5,5%.

Tăng trưởng GDP của Phi-li-pin đạt 5,6% năm 2021 khi tăng trưởng tốt trong những tháng cuối năm sau khi nới lỏng các biện pháp ngăn chặn Covid-19. Tiến bộ trong tiêm chủng đã giúp khôi phục niềm tin của người tiêu dùng và kinh doanh. Tăng trưởng GDP năm 2022 của Phi-li-pin được dự báo ở mức 6,0% do kinh tế phục hồi, tăng cường đầu tư và tiêu dùng trong nước. WB dự báo tăng trưởng GDP của Phi-li-pin năm 2022 đạt 5,7%.

Một đợt bùng phát Covid-19 nghiêm trọng đã kéo nền kinh tế Thái Lan đi xuống vào năm 2021 nhưng sự phục hồi dần trong những tháng cuối năm 2021 đã tạo đà cho tăng trưởng dự kiến sẽ tiếp tục diễn ra vào năm 2022. Tuy nhiên, rủi ro vẫn nghiêng về xu hướng giảm tăng trưởng từ khả năng bùng phát làn sóng Covid-19 với các biến thể mới và tác động của xung đột giữa Nga và U-crai-na ảnh hưởng đến chi phí sinh hoạt và sản xuất. Phục hồi du lịch là ưu tiên chính sách của Thái Lan trong thời gian tới. ADB và WB dự báo kinh tế Thái Lan tăng trưởng lần lượt là 3% và 2,9% trong năm 2022.

Nền kinh tế Xin-ga-po đã tăng trưởng 7,6% trong năm 2021, một sự phục hồi mạnh mẽ sau khi suy giảm trong năm 2020. Tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế đều phát triển và nhu cầu trong nước tăng trở lại. ADB nhận định tăng trưởng của Xin-ga-po năm 2022 ở mức 4,3% do kinh tế tiếp tục phục hồi, cả trong nước và các đối tác thương mại lớn.

Theo Trading Economics, dự báo tăng trưởng QII/2022 so với cùng kỳ năm trước của In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Phi-li-pin, Thái Lan, Xin-ga-po lần lượt đạt 3,6%, 5,9%, 7,0%, 5,0% và 2,5%. Tăng trưởng Quý II/2022 so với Quý I/2022 của các quốc gia trên lần lượt là 0.34%, 1,0%, 2,1%, 1,0% và 1,0%.

Hình 6. Dự báo tăng trưởng năm 2022 của một số quốc gia ASEAN

Nguồn: ADB, WB

6. Việt Nam

Dự báo của Ngân hàng Thế giới

Trong báo cáo Triển vọng kinh tế toàn cầu tháng 6/2022, WB dự báo tăng trưởng của Việt Nam đạt 5,8% trong năm 2022, cao hơn so với dự kiến tăng trưởng của Phi-li-pin, Ma-lai-xi-a, In-đô-nê-xi-a và Thái Lan.

Trong bản tin Cập nhật tình hình kinh tế vĩ mô Việt Nam tháng 6/2022, WB nhận định nền kinh tế Việt Nam đã duy trì đà phục hồi mạnh mẽ bất chấp tình trạng bất định toàn cầu gia tăng liên quan đến cuộc xung đột kéo dài giữa Nga và U-crai-na, giá cả hàng hóa thế giới tăng cao và sự gián đoạn chuỗi cung ứng do tình trạng phong tỏa để kiểm soát dịch Covid-19 tại Trung Quốc.

Theo đó, sản xuất công nghiệp tiếp tục đà tăng trưởng vững chắc với tốc độ 10,4% so cùng kỳ năm 2021. Chỉ số PMI ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng vọt từ 51,7 điểm trong tháng 4 lên 54,7 điểm trong tháng 5, mức cao nhất trong 12 tháng qua, cho thấy sự tăng trưởng mạnh mẽ hơn của ngành này. Doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng trong tháng này tăng 4,2% so với tháng trước và tăng 22,6% so với cùng kỳ năm 2021. Điều này cho thấy sự phục hồi mạnh mẽ của nhu cầu tiêu dùng trong nước. Khoảng 173.000 lượt khách quốc tế đã đến Việt Nam trong tháng 5/2022, cao hơn khoảng 70% so với tháng 4/2022 và là con số cao nhất kể từ tháng 4/2020, tuy vẫn chưa bằng 16% con số ghi nhận trước đại dịch. Về xuất nhập khẩu, sau 3 tháng tăng tốc, tăng trưởng xuất khẩu giảm từ 25,2% (so cùng kỳ năm trước) vào tháng 4 xuống còn 18% trong tháng 5, trong khi tăng trưởng nhập khẩu tiếp tục đi ngang với tốc độ 14,6% (so cùng kỳ năm trước) trong tháng 5, và giảm so với tốc độ 16,5% vào tháng 4/2022.

Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký cũng giảm tháng thứ 4 liên tiếp (vốn FDI đăng ký trong tháng 5 đạt 879 triệu USD, mức thấp nhất kể từ tháng 9/2020 và thấp hơn gần 50% so với cùng kỳ năm trước). Tuy nhiên, vốn FDI giải ngân ghi nhận chuỗi 6 tháng tăng liên tiếp (vốn FDI thực hiện trong tháng 5 vẫn tăng 8,5% so cùng kỳ năm trước). Bên cạnh đó, tín dụng tăng trưởng mạnh mẽ, giúp hỗ trợ nền kinh tế phục hồi. Tín dụng tăng trưởng mạnh mẽ với tốc độ 16,9% (so cùng kỳ năm trước) trong khi lãi suất liên ngân hàng qua đêm giảm mạnh từ 1,73% tại thời điểm cuối tháng 4 xuống chỉ còn 0,33% vào cuối tháng 5, là dấu hiệu cho thấy thanh khoản đang dồi dào.

Cũng trong báo cáo, WB cho rằng Việt Nam cần thận trọng với rủi ro lạm phát liên quan đến xu hướng giá nhiên liệu và hàng hóa nhập khẩu tăng. Điều này có thể cản trở quá trình phục hồi tổng cầu trong nước. Các chuyên gia cho rằng cần có những biện pháp hỗ trợ tạm thời, trong đó hỗ trợ trực tiếp có mục tiêu để giúp các hộ nghèo chống chọi với giá nhiên liệu tăng.

Dự báo của Quỹ Tiền tệ Quốc tế

Theo báo cáo Triển vọng kinh tế thế giới tháng 4/2022, IMF dự báo tăng trưởng của Việt Nam trong năm 2022 đạt mức 6%. Tại Diễn đàn “Dự báo kinh tế Việt Nam 2022-2023: Kịch bản tăng trưởng và triển vọng một số ngành kinh tế chính” do Tạp chí Kinh tế và Dự báo tổ chức ngày 12/5/2022, Trưởng đại diện IMF tại Việt Nam cho rằng Việt Nam đã đạt được tỷ lệ tiêm chủng cao, giúp cho việc chuyển hướng chiến lược sang sống chung với Covid-19. Kể từ khi nới lỏng các hạn chế, việc di chuyển đã được cải thiện và sự phục hồi kinh tế vẫn đang tiếp diễn, được hỗ trợ bởi các chính sách kinh tế vĩ mô nới lỏng. Đặc biệt, việc ban hành Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế là kịp thời và phù hợp để thúc đẩy sự phục hồi kinh tế.

Vẫn sẽ có những rủi ro và sự bất định đáng kể đối với triển vọng kinh tế Việt Nam. Rủi ro đối với tăng trưởng nghiêng về phía tăng trưởng chậm lại, trong khi rủi ro đối với lạm phát nghiêng về phía tăng lạm phát. Trong ngắn hạn, rủi ro bên ngoài trước mắt là sự gia tăng căng thẳng địa chính trị có thể ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động kinh tế và lạm phát do cầu bên ngoài yếu hơn, giá hàng hóa cao hơn và sự gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu kéo dài. Tăng trưởng chậm lại đáng kể ở Trung Quốc có thể làm điều này nghiêm trọng hơn. Ngoài ra, còn các rủi ro khác liên quan đến những biến thể của Covid-19, việc thắt chặt các điều kiện tài chính toàn cầu, diễn biến trên thị trường bất động sản và trái phiếu doanh nghiệp trong nước.

Trong bối cảnh nền kinh tế vẫn còn chưa hồi phục hoàn toàn và những rủi ro làm suy giảm tăng trưởng còn hiện hữu, cần có hỗ trợ chính sách để giúp đảm bảo phục hồi mạnh mẽ. Trong ngắn hạn, Việt Nam cần chủ động điều chỉnh quy mô và cấu phần hỗ trợ chính sách để phù hợp với tốc độ phục hồi. Để đối phó với áp lực lạm phát, cần tăng cường sử dụng chính sách tài khóa. Ngoài ra, cần cải cách cơ cấu một cách quyết liệt để đạt được khát vọng của chính phủ về tăng trưởng bền vững, bao trùm. Cần cải thiện môi trường kinh doanh bằng cách tạo một sân chơi bình đẳng trong việc tiếp cận tài chính và đất đai, đồng thời giảm bớt gánh nặng pháp lý, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các doanh nghiệp non trẻ. Cần có những nỗ lực hơn nữa để cải thiện chất lượng lực lượng lao động và giảm tình trạng không đạt yêu cầu về kỹ năng lao động.

Dự báo của Ngân hàng Phát triển châu Á

Theo ADB, tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2022 được dự báo đạt 6,5% khi nền kinh tế dần phục hồi nhờ tỷ lệ tiêm chủng vắc-xin Covid-19 cao, sự chuyển đổi sang cách tiếp cận ngăn chặn đại dịch linh hoạt hơn, mở rộng thương mại và Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế của chính phủ.

Các biện pháp tiền tệ trong Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế sẽ cung cấp thêm thanh khoản cho nền kinh tế thông qua việc các tổ chức tín dụng dự kiến giảm 0,5% -1,0% lãi suất cho vay trong năm nay và năm sau, đồng thời tiếp tục thực hiện các biện pháp cứu trợ tín dụng đến hết năm 2023. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng đến năm 2022 là 14%. Cắt giảm lãi suất và phục hồi nhu cầu tín dụng từ các doanh nghiệp sẽ hỗ trợ đạt được mục tiêu này.

Thị trường lao động phục hồi và các biện pháp kích thích khác sẽ thúc đẩy tăng trưởng công nghiệp ở mức 9,5% vào năm 2022, đóng góp 3,6 điểm phần trăm vào tăng trưởng GDP. Sản lượng nông nghiệp được dự báo sẽ tăng trưởng 3,5% trong năm nay, đóng góp 0,4 điểm phần trăm vào tăng trưởng GDP nhờ nhu cầu trong nước phục hồi và giá hàng hóa toàn cầu tăng. Chính sách mở cửa trở lại du lịch của chính phủ được thực hiện vào tháng 3 và dỡ bỏ các biện pháp kiểm soát đại dịch được kỳ vọng sẽ thúc đẩy dịch vụ, với dự báo lĩnh vực này tăng trưởng 5,5% và đóng góp 2,3 điểm phần trăm vào tăng trưởng GDP năm 2022.

Xuất khẩu hàng hóa được dự báo sẽ tăng 8% -10% trong năm 2022. Nhập khẩu sẽ tăng do nhu cầu về tư liệu sản xuất và các yếu tố đầu vào sản xuất tăng, đồng thời tiêu dùng trong nước cũng phục hồi. Sự phục hồi của du lịch và lượng kiều hối bền vững sẽ hỗ trợ thặng dư tài khoản vãng lai, dự báo ở mức 1,5% GDP trong năm 2022.

Dự báo của Văn phòng Nghiên cứu kinh tế vĩ mô ASEAN+3 (AMRO)

Văn phòng Nghiên cứu kinh tế vĩ mô ASEAN+3 dự báo tăng trưởng GDP năm 2022 của Việt Nam đạt 6,5%, cùng với Phi-li-pin dẫn đầu tăng trưởng khu vực ASEAN.

Trading Economic nhận định tăng trưởng GDP Quý II/2022 so với cùng kỳ năm trước của Việt Nam đạt 3%.

Hình 7. Dự báo tăng trưởng Việt Nam của một số tổ chức quốc tế

Nguồn: WB, IMF, ADB, AMRO

Biểu 1. Tốc độ tăng trưởng GDP Quý II năm 2022 của một số quốc gia

[1] Thước đo thương mại hàng hóa, ngày 18/05/2022.

[2]https://www.cnbc.com/2022/06/15/fed-hikes-its-benchmark-interest-rate-by-three-quarters-of-a-point-the-biggest-increase-since-1994.html.

[3] Ấn bản thứ 9 Báo cáo giám sát của ILO về thế giới việc làm, 23/05/2022.

[4] Báo cáo đầu tư thế giới 2022, tháng 6/2022.

[5] https://edition.cnn.com/2022/06/15/economy/fed-rate-hike-decision-june/index.html

[6] https://tradingeconomics.com/united-states/forecast

[7] https://tradingeconomics.com/euro-area/forecast

[8] https://tradingeconomics.com/japan/forecast

[9] https://tradingeconomics.com/china/forecast

Từ khóa » Tổ Chức Wto đã Nhận định Covid 19 đã ảnh Hưởng Như Thế Nào đến Thương Mại Thế Giới