TOP 12 Bài Hình Tượng Người Lái đò Sông Đà Trong Cảnh Vượt Thác

Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác là tài liệu được giới thiệu đến bạn đọc.

Hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
Hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác

Nội dung chi tiết gồm dàn ý và 18 bài văn mẫu. Bạn đọc có thể theo dõi tài liệu được đăng tải ngay sau đây.

Hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác

  • Dàn ý hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác
  • Sơ đồ tư duy hình tượng người lái đò trong cảnh vượt thác
  • Hình tượng người lái đò trong cảnh vượt thác ngắn gọn
  • Cảm nhận hình tượng người lái đò sông đà qua 3 trùng vi thạch trận (8 mẫu)

Dàn ý hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác

I. Mở bài

- Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân, tùy bút Người lái đò sông Đà.

- Giới thiệu về hình tượng ông lái đò.

II. Thân bài

1. Người lái đò giỏi giang, dũng cảm

- Cuộc chiến giữa con người và thiên nhiên:

  • Con người nhỏ bé, đơn độc.
  • Con sông Đà hung tợn, khắc nghiệt với gió, nước, đá.

=> Con người giành chiến thắng trước thiên nhiên.

2. Người lái đò con người tài hoa

- Khả năng điều khiển con thuyền điêu luyện, chính xác nhờ sự am hiểu con sông Đà.

- Thuần thục các kỹ năng cần thiết để vượt qua những con sóng, thác ghềnh.

3. Người lái đò khiêm tốn, bình dị

- Sau “trận chiến” họ ăn uống và không nhắc đến những khó khăn, hiểm nguy đã trải qua.

- Vượt qua khó khăn, thử thách từ con sông Đà như một công việc thường ngày của những con người nơi này.

4. Nghệ thuật

- Ngôn ngữ đa dạng không chỉ miêu tả bằng thị giác mà còn có xúc giác, so sánh…

- Nhịp điệu nhanh, gấp gáp, căng thẳng như một cuộc chiến thật sự.

- Lãng mạn, tài hoa đôi khi cả sự mơ mộng từ chính tác giả.

III. Kết bài

- Khẳng định vẻ đẹp của ông lái đò trong cảnh vượt thác.

Sơ đồ tư duy hình tượng người lái đò trong cảnh vượt thác

Hình tượng người lái đò trong cảnh vượt thác ngắn gọn

đã ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng, vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên, và nhất là của con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc. Ấn tượng nhất là vẻ đẹp của người lái đò trong cảnh vượt thác.

Ở trùng vi thạch trận đầu tiên, thác đá sông Đà đã chuẩn bị dàn trận địa sẵn, đó là “trận địa với bốn cửa tử, một cửa sinh”. Ở đây nước phối hợp với đá reo hò làm thanh viện; những hòn đá bệ vệ, oai phong lẫm liệt; một hòn ấy trông như đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. Với bản tính hung hãn như một loài thủy quái, sông Đà đã đánh phủ đầu người lái đò với những đòn thế vô cùng hiểm hóc. Sông Đà cậy thế quân đông tướng mạnh nên đã “ùa vào mà bẻ gãy cán chèo”, “liều mạng vào sát nách mà đá trái”, “thúc gối vào bụng và hông thuyền”, có lúc chúng “đội cả thuyền lên”. Bị tấn công bất ngờ nhưng người lái đò vẫn bình tĩnh. Với chiến thuật phòng ngự để dưỡng sức cho những trùng vi sắp tới, “ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng”; lúc này sông Đà lại chuyển thế bám lấy thuyền và sử dụng đòn vật “túm lấy thắt lưng ông lái đò đòi lật ngửa mình ra”. Không để cho ông đò có cơ hội xoay xở, sông Đà lại chuyển thể đánh miếng đòn hiểm độc nhất “cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”. Dính miếng đòn hiểm, mắt ông hoa lên, tưởng như “một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống châm lửa lên đầu sóng”. Đòn đau khiến ông đò “mặt méo bệch đi”. Đó là cái méo bệch vốn do cái lạnh của nước làm nhăn nheo lại thêm miếng đòn đau làm ông khách sông Đà mặt như tím tái, ngây dại. Phép điệp động từ “đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm” gợi lên cơn đau dồn dập, hành hạ người lái đò. Nhưng ông đò nén đau, giọng ông vẫn bình tĩnh, tỉnh táo, sắc lạnh chỉ huy sáu bơi chèo còn lại vượt cửa tử vào cửa sinh.

Ở trùng vi thạch trận thứ hai này, sông Đà tăng cường một “tập đoàn cửa tử” và cửa sinh bố trí lệch qua bờ hữu ngạn. So với trùng vi một thì trùng vi này khó khăn hơn. Nhưng không vì thế mà ông đò nao núng. Với kinh nghiệm nhiều năm chinh chiến trên chiến trường sông nước, người lái đò đã “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá”. Ông đò cũng tự triết lý với mình “cưỡi lên thác sông Đà là cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”, vì thế “không một phút nghỉ tay nghỉ mắt phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật”. Ở trận này ông đò đánh phủ đầu với kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh. Như một vận động viên đua ngựa, ông đò “nắm chắc được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái”, ông “phóng nhanh”, “lái miết”… tốc độ di chuyển mau lẹ. Nhưng sông Đà cũng không phải dạng vừa. Chúng xô ra định níu chiếc thuyền vào tập đoàn cửa tử. Ông đò đã cảnh giác sẵn nên “đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo”, “đứa thì đè sấn lên chặt đôi ra để mở đường tiến”. Hàng loạt động từ được huy động như một đội quân ngôn ngữ hùng hậu hò reo theo từng nhịp tiến của ông đò: nắm, ghì, phóng, lái, tránh, rảo, đè, chặt… Chính nhờ sự mưu trí và tài năng ấy ông đò vượt qua hết các cửa tử. Một trùng vi với bao cửa tử, cửa sinh mà chỉ vài ngón đòn ông lái đò đã đánh sập vòng vây của lũ đá, đồng thời làm cho bọn đá phải thua cuộc với bộ mặt “tiu nghỉu, xanh lè thất vọng”. Qua đó để thấy người khách sông Đà quả thật là Trí Dũng song toàn.

Đến trùng vi cuối cùng, sông Đà còn một cơ hội cuối cùng để chiến thắng được người lái đò. Trùng vi này ít cửa hơn nhưng bên trái bên phải đều là luồng chết, luồng sống thì lại nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ. Có thể nói trận chiến này sông Đà đã dùng thế “trên đe dưới búa” làm cho người lái đò phải đối mặt với thế “tiến thoái lưỡng nan” nhưng vào “cái khó lại ló cái khôn” - ông lái đò đã biến chiếc thuyền sáu bơi chèo thành một mũi tên còn ông giống như một cung thủ đã “phóng thẳng thuyền chọc thủng cửa giữa. Thuyền vút qua cửa đá cánh mở, cánh khép, vút vút, cửa ngoài, cửa trong lại cửa trong cùng. “Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được. Thế là hết thác”. Một loạt các động từ lại được Nguyễn Tuân huy động để miêu tả cách đánh của ông đò: Phóng, chọc thủng, xuyên qua, xuyên nhanh, lái được, lượn được… sự thần tốc trong cách đánh và cách đánh nhanh thắng nhanh đã giúp người lái đò vượt trùng vi đầy phi thường.

Tóm lại, hình ảnh người lái đò sông Đà được Nguyễn Tuân khắc họa qua cảnh vượt thác với vẻ đẹp tài hoa.

Cảm nhận hình tượng người lái đò sông đà qua 3 trùng vi thạch trận

Bài văn mẫu số 1

Mỗi một vùng đất mà chúng ta đi qua đều để lại trong ta những dấu ấn riêng biệt bởi nó mang những nét đặc trưng về văn hóa, lịch sử, địa lí của từng vùng. Đến với Tây Bắc xa xôi cùng làn sương khói mờ ảo Nguyễn Tuân cũng không khỏi bị ấn tượng với thiên nhiên, cảnh vật nơi đây. Có lẽ vì thế mà hình ảnh dòng sông Đà rẽ theo một lối riêng với một cá tính riêng biệt đã trở thành ngọn nguồn cho cảm hứng thi ca của nhà văn. Giữa thiên nhiên hùng vĩ ấy đã khiến cho con người trở nên bé nhỏ hơn bao giờ hết. Qua cảnh vượt thác trong "Người lái đò sông Đà" của Nguyễn Tuân đã ngợi ca vẻ đẹp bình dị của con người lao động khi chiến đấu với sự hung bạo, dữ dội của thiên nhiên.

Nguyễn Tuân (1910 - 1988) là người tài hoa, uyên bác, thích khám phá vẻ đẹp của thiên nhiên và con người ở mọi miền đất nước. Ông là nhà văn có phong cách nghệ thuật ngông ngạo, khác người, ông luôn tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên cùng "thứ vàng mười đã qua thử lửa" ở tâm hồn người lao động. "Người lái đò sông Đà" được rút từ tập tùy bút "Sông Đà", là "thứ vàng mười đã qua thử lửa" mà Nguyễn Tuân đã khám phá ra khi đến với Tây Bắc thơ mộng và hùng vĩ.

Cảnh vượt thác trong "Người lái đò sông Đà" được Nguyễn Tuân ví là cảnh "xưa nay chưa từng có" bởi đây là cuộc chiến dữ dội giữa thiên rộng lớn với con người bé nhỏ. Nguyễn Tuân đã chú ý tô đậm nét tài hoa nghệ sĩ bởi với ông nét tài hoa nghệ sĩ của con người không chỉ thể hiện trong việc sáng tạo nghệ thuật mà còn ở nhiều lĩnh vực, hoạt động khác nữa. Cảnh vượt thác được tái hiện ở ba trùng vi thạch trận với những thử thách nghiệt ngã khác nhau đã đề cao sự gan dạ, trí, dũng của ông lái đò khi vượt qua cả ba trùng vi thạch trận an toàn.

Ở trùng vi thạch trận thứ nhất là sự đối mặt giữa thiên nhiên và ông lái đò. Nguyễn Tuân đã lấy thác đá để diễn tả sự hùng vĩ của sông Đà giống như các nhà văn thường dùng lửa để tả nước. Đá bờ sông dựng vách thành nhưng lại hẹp đến mức "chết như một cái yết hầu" khiến cho con nai, con hổ cũng có thể nhảy vọt từ bờ này qua bờ kia sông. Cách sử dụng từ ngữ sáng tạo của nhà văn giúp cho người đọc có thể hình dung rõ khung cảnh nơi đây hung hiểm, đáng sợ biết nhường nào. Gần đến con thác "sóng bọt trắng xóa cả một chân trời" và chúng sẵn sàng nhổm dậy để vồ lấy con thuyền. Chúng như những sinh thể có khối óc để bày binh bố trận, cản trở sự di chuyển của con thuyền. Những hòn đá trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Ông lái đò được đặt vào một tình huống đầy cam go, "hai tay giữ chặt mái chèo", hiên ngang như một tướng soái phóng thẳng vào đối phương. Ông lái đò một mình chiến đấu với dòng sông hung bạo như trận đồ bát quái, nó chỉ trực chờ cơ hội để giết chết ông lái đò.

Cuộc chiến giáp lá cà giữa ông lái đò và dòng sông diễn ra với sóng nước dữ dội, hò la, "đá trái", "thúc gối" vào bụng, vào hông con thuyền, bám lấy thuyền như đô vật, nó tung ra những đòn hiểm độc nhất để "bóp chặt lấy bộ hạ người lái đò". Ông lái đà kiên cường, vượt qua sông, nước, thác đá "cố nén vết thương", "mặt méo bệch đi", "đánh đòn tỉa, đòn âm vào chỗ hiểm", cố gắng giữ tỉnh táo để vật lộn với sóng thác và vượt qua thạch trận ở vòng thứ nhất an toàn. Ông đã nén chịu nỗi đau về thể xác do cuộc vật lộn với sóng thác gây nên để cố giữ tỉnh táo, giữ vững nghị lực trí tuệ để vật lộn với sóng thác, vượt qua thạch trận ở vòng thứ nhất.

Sang đến trùng vi thạch trận thứ hai, khó khăn lại nối tiếp khó khăn đòi hỏi chí can trường và sự khéo léo của người lái đò thì mới có thể vượt qua được. Ở vòng này tăng thêm nhiều cửa tử và chỉ có một cửa sinh để đánh lừa con thuyền rơi vào hố đen. Bằng sự am hiểu về tính nết của dòng sông và quy luật phục kích của đá nước, ông lái đò đã thay đổi chiến lược ở vòng vây thứ hai. Ông lái đò bình tĩnh vượt qua các cửa tử và những dòng thác hùm beo. Ông nắm chắc được binh pháp của thần sông, thần đá nên không một phút nghỉ tay ông đò đã phá luôn trùng vi thạch trận thứ hai, ông "ghì cương bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh" khiến cho thằng đá tướng "tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng".

Trùng vi thạch trận thứ ba còn đáng sợ hơn cả vì nó ít cửa hơn khi bên phải bên trái đều là luồng chết. Thiên nhiên ngày càng dữ dằn như tranh đấu với con người để khẳng định sự sống. Ông lái đò đã chiến thắng bằng những động tác mạnh mẽ, dứt khoát, ông khôn ngoan vượt qua mọi cạm bẫy của thác ghềnh và đưa con thuyền về đích an toàn. Ở vòng vây thứ ba, ông "phóng thẳng con thuyền, chọc thủng cửa giữa" rồi "vút qua cổng đá cánh mở cánh khép" một cách nhanh chóng. Ông lái đò mang dáng vẻ của người anh hùng nhưng lãng mạn trong cuộc thủy chiến, ông đặt mình vào thử thách là sự đối mặt thản nhiên rất đỗi đời thường vì chẳng có ai bàn thêm lời nào về cuộc chiến vừa qua.

Cảnh vượt thác trong "Người lái đò sông Đà" đã ngợi ca kỳ tích của ông lái đò trong thế đối lập với thiên nhiên. Ông lái đò mang dáng vẻ của người anh hùng thầm lặng trong cuộc chiến với thiên nhiên dữ dội, qua đó ta thấy được sự tài hoa, uyên bác của ngòi bút Nguyễn Tuân. Vẻ đẹp của ông lái đò chính là vẻ đẹp của con người trong thời đại mới vì với Nguyễn Tuân thì "người anh hùng không chỉ có trong chiến đấu mà còn có ngay trong cuộc sống đời thường". Tác giả đã sử dụng nghệ thuật miêu tả giàu chất tạo hình cùng hàng loạt các động từ để khẳng định vẻ đẹp của ông lái đò trước trận chiến gay cấn với dòng sông Đà.

Qua cảnh vượt thác trong "Người lái đò sông Đà", Nguyễn Tuân đã khẳng định được "thứ vàng mười đã qua thử lửa" của núi rừng Tây Bắc. Sông Đà mang vẻ đẹp hùng vĩ dữ dội nhưng cũng rất đỗi thơ mộng trữ tình đã trở thành nguồn cảm hứng để nhà văn có thể lột tả cảnh vượt thác của ông lái đò một cách hấp dẫn như vậy.

Bài văn mẫu số 2

Người lái đò sông Đà ra đời trong những năm toàn dân ta bước vào công cuộc xây dựng Xã hội chủ nghĩa đầy sôi động, khẩn trương, khi đó cảm hứng ngợi ca, tôn vinh cuộc sống mới, con người mới ngập tràn trong các tác phẩm văn học. Không nằm ngoài xu thế chung đó, Người lái đò sông Đà với hình tượng người lái đò là một trong những hình ảnh nổi bật. Nguyễn Tuân ca ngợi người lao động bình dị, vô danh nhưng hàng ngày, hàng giờ đang cống hiến, dựng xây đất nước.

Hình tượng người lái đò sông Đà được đặt trong quan hệ với sông Đà, để qua đó tô đậm, làm nổi bật hình tượng người lái đò. Bởi vậy sông Đà hung dữ, bạo ngược bao nhiêu thì khi vượt qua nó, chiến thắng sức mạnh của nó người lái đò càng thể hiện rõ nét hơn sức mạnh của mình.

Người lái đò quê ở Lai Châu, đã từng xuôi ngược dòng sông Đà hơn một trăm lần trong đó có tới sáu mươi lần giữ lái chính. Tác giả đã tạo ấn tượng cho người đọc về ông lái đò với những con số đầy áp lực và thử thách. Mỗi lần vượt sông Đà là một lần đối diện với cái chết, số lần ông vượt sông Đà thành công đã cho thấy sự tài giỏi, điêu luyện trong nghề nghiệp của ông lái đò.

Để làm nổi bật vẻ đẹp của người lái đò, Nguyễn Tuân đã giới thiệu chân dung của nhân vật: “tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù”, “cái đầu bạc quắc thước… đặt lên thân hình gọn quánh chất sừng chất mun”. Ở diện mạo của ông lái đò chỉ có một điểm duy nhất chứng tỏ tuổi ông đã cao đó là mái tóc bạc, khi dùng tay che mái tóc này đi, người ta lầm tưởng “mình đang đứng trước một chàng trai đang ngồi ngoài bến chính bờ sông”.

Diện mạo, ngoại hình của ông lái đò gây ấn tượng mạnh với người đọc, bởi nó trái ngược hoàn toàn với cái tuổi bảy mươi của ông, đó là diện mạo, ngoại hình của một chàng thanh niên lực lưỡng, dẻo dai, cường tráng. Sức khỏe, thể chất của ông lái đò in đậm dấu ấn nghề nghiệp, do suốt đời vật lộn với sông nước nên cần phải có một thể lực phi thường để chiến đấu lại với những con thác dữ.

Phẩm chất nổi bật và có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của ông lái đò trong nghề vượt thác này chính là kinh nghiệm dày dặn. Không cần bất cứ bản đồ nào nhưng lại có thể nhớ một cách chính xác luồng lạch trên sông. Để ngợi ca bản lĩnh của ông Nguyễn Tuân đã sử dụng hình ảnh so sánh độc đáo, giàu chất thơ “Sông Đà đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả dấu chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”.

Không chỉ dày dặn kinh nghiệm, ông lái đò còn nâng nghề nghiệp của mình – công cụ mưu sinh thành một niềm đam mê mãnh liệt trong đời. Bởi đối mặt với thác dữ, tức là đối mặt với cái chết song ông không hề sợ hãi mà cảm thấy đó là sự thú vị trong nghề nghiệp của mình. Với ông lái đò thì sông Đà chỉ thực sự đậm đà ở đoạn nhiều ghềnh thác, nếu phải chèo đò ở những đoạn bằng phẳng thì ông thấy chân mình như dại đi và buồn ngủ như người mèo đi bộ ở đồng bằng.

Hình tượng ông lái đò đẹp đẽ nhất là trong cuộc thủy chiến với sông Đà. Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một một cuộc thủy chiến có một không hai trong lịch sử văn học, giữa một bên là thủy quái sông Đà với sức mạnh ghê gớm, tâm địa xảo trá và một bên là ông lái đò tuy dẻo dai, cường tráng nhưng đơn độc trong cuộc chiến gay go, quyết liệt này để có thể giành được chiến thắng, ông lái đò đã bộc lộ tất cả những phẩm chất tốt đẹp của mình.

Ở trùng vi thạch trận thứ nhất, sông Đà đã phô ra sức mạnh thể chất của nó với sự phối hợp giữa đá, sóng, nước. Chúng vừa đánh trực diện vừa tung đòn đánh tỉa, để dồn ông lái đò vào thế yếu. Dù cảm hứng lãng mạn là cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm song cái nhìn và cách miêu tả của Nguyễn Tuân về cuộc thủy chiến không hề hời hợt dễ dàng, ông ghi lại thời điểm mà tưởng như ông lái đò ngã gục trước những đòn đánh chí mạng của sông Đà. Nhưng bằng sức chịu đựng phi thường, thể chất dẻo dai, cường tráng vẫn cố gắng kẹp chặt cuống lái, trên thuyền vẫn vang lên sự chỉ đạo ngắn gọn, dứt khoát.

Và bằng lòng dũng cảm, sức khỏe phi thường, bình tĩnh ông lái đò đã vượt qua những trùng vi thạch trận thứ nhất. Ở trùng vi thạch trận thứ hai với sự thay đổi bất ngờ, biến hóa khôn lường trong việc bố trí các cửa sinh, cửa tử. Nhưng bằng kinh nghiệm dày dạn, bằng sự linh hoạt ông lái đò đã nhanh chóng đưa thuyền đi vào đúng cửa sinh. Với đoàn quân sóng nước, cách đánh của ông cũng biến hóa linh hoạt, để phù hợp với những trùng vi thạch trận khác nhau. Ở trùng vi thạch trận cuối cùng tác giả miêu tả không nhiều song vẫn làm bật lên được tài nghệ trong việc lái đò của ông lão. Bằng sức khỏe và sự dẻo dai, sức chịu đựng, đặc biệt là lòng dũng cảm, chủ động, quyết đoán, ông đã vượt qua tất cả những cái bẫy mà sông Đà đã tung ra. Cuộc chiến không cân sức giữa một bên là thiên nhiên dữ dội với một bên là ông lão đơn độc chỉ có mái chèo là vũ khí duy nhất, song chiến thắng đã thuộc về con người.

Nếu như trong cuộc chiến với sông Đà thể hiện vẻ đẹp và sức mạnh ở bề nổi của sông Đà thì sau cuộc chiến cách ứng xử với chiến công, chiến thắng của ông lão lại cho thấy những vẻ đẹp ở bề sâu tâm hồn, nhân cách. Chiến thắng được sông Đà với bảy mươi ba ghềnh thác là một điều không phải ai cũng có thể làm được, thậm chí đây là một chiến công phi thường. Song với ông lão và tất cả những người lao động nơi đây đó là một điều hết sức bình thường. Nhưng chính bởi biết giản dị hóa bình thường hóa những điều phi thường mà tâm hồn, nhân cách của những người lao động nơi đây càng trở nên trân trọng, đáng quý.

Hình tượng ông lái đò in đậm dấu ấn phong cách Nguyễn Tuân. Bởi ông chính là kiểu người tài hoa, nghệ sĩ, biết nâng nghề nghiệp của mình lên mức nghệ thuật. Song ở hình tượng ông lão thể hiện rất rõ sự chuyển biến trong tư tưởng Nguyễn Tuân khi những con người tài hoa, nghệ sĩ được miêu tả không phải là những con người phi thường mà là những con người bình dị, thậm chí vô danh. Đây chính là cách Nguyễn Tuân ngợi ca, tôn vinh những người lao động thầm lặng trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.

Bài văn mẫu số 3

“Cảnh vượt thác” là cảnh tượng người lái đò vượt qua ba trùng vi thạch trận với bao tướng dữ quân tợn. Bằng một quan niệm độc đáo về cái đẹp, đi cùng ngòi bút tài hoa, Nguyễn Tuân đã xây dựng thành công hình tượng người lái đò sông Đà – một hình tượng nghệ thuật độc đáo hấp dẫn.

Hình tượng Người lái đò mang vẻ đẹp của người lao động, vừa rắn rỏi, vừa rất điêu luyện với nghề của mình. Ông lái đò được khắc họa đậm nét qua ngoại hình và tính cách. Mặc dù ông tuổi đã ngoài 70, nhưng thân hình ông vẫn rất rắn chắc như người con đích thực của vùng sông nước hùng vĩ: ngực ông đầy những củ nâu – thương tích trên chiến trường Sông Đà mà Nguyễn Tuân ưu ái gọi đó là “huân chương lao động siêu hạng”, tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông khuỳnh khuỳnh; nhỡn giới ông cao vời vợi, giọng ông ồ ồ như tiếng thác trước ghềnh. Tất cả là 1 vẻ đẹp của con người lao động gắn bó lâu năm với vùng sông nước mênh mông.

Không chỉ mang nét đẹp sương gió ở ngoại hình, người lái đò còn nổi bật bởi tính cách và trí thông minh. Đối với ông, sông Đà như một thiên anh hùng ca và ông thuộc lòng sông Đà, thuộc tất cả luồng lạch; nắm được binh pháp của thần sông thần đá. Chính vì vậy trong trận thủy chiến đầy binh hùng tướng mạnh, phần thắng vẫn thuộc về con người trí dũng và tài hoa ấy.

Chỉ với ba trùng vi thạch trận, người lái đò sông Đà như người nghệ sĩ đang biểu diễn bằng tất cả sức lực và tài năng. Trận thủy chiến với con sông Đà là cuộc đấu trí giữa con người và thiên nhiên một cách ngoạn mục.

Ở trùng vi thạch trận đầu tiên, thác đá sông Đà đã chuẩn bị dàn trận địa sẵn, đó là trận địa với bốn cửa tử, một cửa sinh. Ở đây nước phối hợp với đá reo hò làm thanh viện; những hòn đá bệ vệ, oai phong lẫm liệt; một hòn ấy trông như đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. Bằng các từ ngữ: reo hò, bệ vệ, oai phong lẫm liệt, hất hàm hỏi, thách thức… người đọc cảm nhận được không khí trận chiến nóng bỏng gay cấn hồi hộp, đầy kịch tính.

Sự khôn ngoan của thác đá sông Đà khiến người đọc phải trầm trồ: chúng không chỉ đánh trên mặt trận giáp lá cà mà còn đánh bằng cả nghệ thuật tâm lý chiến. Trước đó chúng đã dùng âm thanh của thác khiêu khích “giọng gằn mà chế nhạo”. Còn giờ đây chúng lại nhờ “nước thác làm thanh viện cho đá”. Với bản tính hung hãn như một loài thủy quái, sông Đà cậy thế quân đông tướng mạnh nên đã “ùa vào mà bẻ gãy cán chèo”, “liều mạng vào sát nách mà đá trái”, “thúc gối vào bụng và hông thuyền”, có lúc chúng “đội cả thuyền lên”. Một loạt động từ được Nguyễn Tuấn huy động để miêu tả cách đánh của sông Đà làm người đọc không khỏi rùng mình trước sự hung bạo của thiên nhiên: ùa vào, bẻ gãy, đá trái, thúc gối, đội,… Bị tấn công bất ngờ nhưng người lái đò vẫn bình tĩnh, điều này càng làm ta thêm thán phục sự dũng cảm và chuyên nghiệp của người lái đò. Với chiến thuật phòng ngự để dưỡng sức cho những trùng vi sắp tới, “ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng”; lúc này sông Đà lại chuyển thế bám lấy thuyền và sử dụng đòn vật “túm lấy thắt lưng ông lái đò đòi lật ngửa mình ra”. Không để cho ông đò có cơ hội xoay xở, sông Đà lại chuyển thể đánh miếng đòn hiểm độc nhất “cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”. Dính miếng đòn hiểm, mắt ông hoa lên, tưởng như “một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống châm lửa lên đầu sóng”. Đòn đau khiến ông đò “mặt méo bệch đi”. Đó là cái méo bệch vốn do cái lạnh của nước làm nhăn nheo lại thêm miếng đòn đau làm ông khách sông Đà mặt như tím tái, ngây dại. Phép điệp động từ “đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm” gợi lên cơn đau dồn dập, hành hạ người lái đò. Nhưng ông đò nén đau, giọng ông vẫn bình tĩnh, tỉnh táo, sắc lạnh chỉ huy sáu bơi chèo còn lại vượt cửa tử vào cửa sinh.

Nếu đoạn văn thứ nhất, Nguyễn Tuân tập trung miêu tả thế trận một chiều từ sông Đà thì ở đoạn văn tiếp theo nhà văn tập trung miêu tả thế trận của ông khách sông Đà ở sự thông minh, linh hoạt và tài nghệ vượt thác dũng mãnh, phi thường. Chuyển từ thế trận phòng ngự, ông lái đò chuyển thế chủ động tấn công. Ở trùng vi thạch trận thứ hai này, sông Đà tăng cường một “tập đoàn cửa tử” và cửa sinh bố trí lệch qua bờ hữu ngạn. So với trùng vi một thì trùng vi này khó khăn hơn. Nhưng không vì thế mà ông đò nao núng. Với kinh nghiệm mười năm chiến trường sông nước, người lái đò đã “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá”. Ông đò cũng tự triết lý với mình “cưỡi lên thác sông Đà là cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”, vì thế “không một phút nghỉ tay nghỉ mắt phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật”. Ở trận này ông đò đánh phủ đầu với kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh. Như một vận động viên đua ngựa, ông đò “nắm chắc được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái”, ông “phóng nhanh”, “lái miết”… tốc độ di chuyển mau lẹ. Nhưng sông Đà cũng không phải dạng vừa. Chúng xô ra định níu chiếc thuyền vào tập đoàn cửa tử. Ông đò đã cảnh giác sẵn nên “đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo”, “đứa thì đè sấn lên chặt đôi ra để mở đường tiến”. hàng loạt động từ được huy động như một đội quân ngôn ngữ hùng hậu hò reo theo từng nhịp tiến của ông lái đò: nắm, ghì, phóng, lái, tránh, rảo, đè, chặt…Chính nhờ sự mưu trí của mình, ông lái đò đã vượt qua hết các cửa tử. Một trùng vi với bao cửa tử, cửa sinh mà chỉ vài ngón đòn ông lái đò đã đánh sập vòng vây của lũ đá, đồng thời làm cho bọn đá phải thua cuộc với bộ mặt “tiu nghỉu, xanh lè thất vọng”.

Ở trùng vi thứ ba, sông Đà còn một cơ hội cuối để thử thách người lái đò. Trùng vi này ít cửa hơn mà bên trái bên phải đều là luồng chết cả, luồng sống thì lại nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ. Có thể nói trận chiến này sông Đà đã dùng thế “trên đe dưới búa” làm cho người lái đò phải đối mặt với thế “tiến thoái lưỡng nan” nhưng vào “cái khó lại ló cái khôn” – ông lái đò đã biến chiếc thuyền sáu bơi chèo thành một mũi tên còn ông giống như một cung thủ đã “phóng thẳng thuyền chọc thủng cửa giữa. Thuyền vút qua cửa đá cánh mở, cánh khép, vút vút, cửa ngoài, cửa trong lại cửa trong cùng. Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được. Thế là hết thác”. Một loạt các động từ lại được Nguyễn Tuân huy động để miêu tả cách đánh của ông đò: Phóng, chọc thủng, xuyên qua, xuyên nhanh, lái được, lượn được… sự thần tốc trong cách đánh và cách đánh nhanh thắng nhanh đã giúp người lái đò vượt trùng vi đầy phi thường. Quả là “Đọc Người lái đò sông Đà, ta có ấn tượng rõ rệt về sự tự do của một tài năng, của một đấng hóa công thực sự trong nghệ thuật ngôn từ” (Phan Huy Đông). Nghệ thuật lái thuyền đến đây khiến người đọc hoàn toàn tâm phục, khẩu phục. Đúng là ông lái đò đã đạt đến mức nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình.

Trong nghệ thuật vượt thác leo ghềnh, ông lái đò là một con người phi thường, tài hoa. Một nghệ sĩ có phong thái ung dung, nhàn nhã, khiêm tốn. Ông chính là hình tượng đẹp đẽ của con người lao động Việt Nam. Nguyễn Tuân đích thực là một nghệ sĩ tài hoa bậc thầy trong việc ngợi ca những con người lao động trong gian lao nguy hiểm nhưng đầy vinh quang!

Bài văn mẫu số 4

Trong thời kì đổi mới, có rất nhiều tác phẩm viết về cuộc sống sinh hoạt, lao động đầy vui tươi, hứng khởi của những người dân sống trong xã hội chủ nghĩa. "Người lái đò sông Đà" của Nguyễn Tuân có hình tượng trung tâm là ông lái đò cũng mang nét độc đáo, đầy bản lĩnh của người lao động tài hoa, phi thường.

Để làm nổi bật những phẩm chất ấy, nhà văn đã chọn miêu tả cảnh vượt thác của ông lái đò. Chỉ bằng một vài hành động, cử chỉ của nhà đò khi giao chiến với thác đá sông Đà, người đọc cũng sẽ cảm nhận được tinh thần dũng cảm, tài hoa của người lái đò trong cuộc chiến không cân sức giữa thiên nhiên và con người.

Ông lái đò đã ngoài 70 nhưng đã gắn bó với sông nước gần như cả cuộc đời. Vậy nên, ông am hiểu rất rõ về con sông Đà. Mỗi một khúc sông ông đều nhớ mặt, đọc tên được sự nguy hiểm, dữ dội của nó. Khi dòng sông bày ra ba vòng "trùng vi thạch trận" để thử thách nhà đò, ông không hề nao núng mà rất bình tĩnh vì ông đã thuộc nằm lòng "binh pháp của thần sông, thần đá". Đá lòng sông thì muôn đời ở đấy, không thay đổi chiến thuật. Vậy nên, ông lái đò cũng đã thông thạo "quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này". Đối diện với "thạch trận" có rất nhiều cửa tử và cực hiếm của sinh, mỗi cửa sinh đều nằm ở những nơi khó xác định, dễ nhầm lẫn với cửa tử nhưng ông lái đò vẫn nhớ được chính xác các cửa sinh, cửa tử trên thác đá. Ông tìm ra chúng một cách dễ dàng và đi đúng hướng cửa sinh, giúp con đò vượt qua một cửa ải nguy khốn.

Trong trận chiến với thác đá sông Đà có rất nhiều hiểm nguy rình rập lấy người lái đò. Đây là cuộc chiến không cân sức giữa một bên là thiên nhiên to lớn, hùng vĩ, rợn ngợp và một bên là chiếc thuyền mỏng manh có ông lái đò đã qua bảy mươi. Thế nhưng, nhà đò vẫn dũng cảm đối mặt với những tình huống nguy cấp, khó khăn nhất. Khi mà "sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất" khiến ông bị thương, ông vẫn "cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch đi", đưa con thuyền vào đúng cửa sinh. Dù có bị đau thì ông đò vẫn cố hết sức để chiến đấu và giành lấy chiến thắng trong trận quyết chiến này. Từ đó, người đọc thấy được sự dũng cảm, gan dạ, kiên cường của người lái đò tưởng như rất bình thường nhưng lại mang tầm vóc của người anh hùng.

Trong cảnh vượt thác, những ngón nghề điêu luyện của ông lái đò còn khiến người đọc cảm thán về độ chính xác trong cách vượt qua từng vòng vây. Tác giả đã đặt nhà đò trong hoàn cảnh bắt buộc phải đối phó với "dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh" để có thể cho thuyền đi tiếp. Từ hoàn cảnh đó, đôi tay khéo léo, linh hoạt của người chèo thuyền mới có dịp được bung hết tài năng. Giữa rất vô vàn cửa tử và số ít cửa sinh, người lái đò có thể lái đúng vào luồng bước cửa sinh. Ông cưỡi lên thác đá, "lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy". Từ "lái miết" đã miêu tả một đường lái chính xác, đẹp, mượt mà, điêu luyện đến đúng nơi mình cần. Dường như lúc này, con thuyền và nhà đò đã hòa làm một, cùng nhau đối phó với thác đá hung dữ chứ không phải là hai sự vật tách rời, chứa đựng nhau như trước nữa.

Qua cảnh vượt thác, ta có thể nhận thấy rằng ông lái đò là một người nghệ sĩ tài hoa trong công việc của mình. Nhà đò đã cực kì am hiểu dòng sông như am hiểu người bạn tri kỉ của mình. Ông thực hiện những thao tác lái nhanh nhẹn, điêu luyện để vượt qua thác nước sông Đà một cách đầy tự tin. Không những thế, người lái đò còn có thể xứng danh là người anh hùng dũng cảm, gan dạ trong trận chiến đầy khốc liệt, không cân sức với sông Đà hung bạo. Cả chất nghệ sĩ lẫn chất anh hùng đều được ẩn giấu trong hình hài của một người lao động bình thường đang ngày ngày cống hiến cho Tổ quốc.

Hình tượng người lái đò sông Đà trong cảnh vượt thác chính là một người dân bình thường, giản dị nhưng lại có những phẩm chất như gan dạ, kiên cường, dũng cảm và luôn luôn yêu mến, tự hào về công việc của mình. Qua đó, tác giả Nguyễn Tuân muốn ca ngợi những con người lao động chân chính, đóng góp sức mình vào công cuộc xây dựng và phát triển Tổ quốc.

Bài văn mẫu số 5

Sinh thời, Nguyễn Tuân rất ham mê “xê dịch” bởi theo ông, “xê dịch” đã giúp ông thay đổi thực đơn cho giác quan. Vì vậy, những gì gắn với sông, nước, thuyền, bè hoặc đường xá, cầu cống thường có cảm hứng mãnh liệt đối với ông. Nét tài hoa của Nguyễn Tuân là ở chỗ ông coi nghệ thuật đặc biệt có cảm hứng trước những gì thật dữ dội, phi thường, hoặc thật thơ mộng, tình tứ. Và có lẽ vì thế, đoạn văn miêu tả thác nước, “thạch trận” mà ông lái đò phải vượt qua trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” hiện lên dưới ngòi bút Nguyễn Tuân như một bằng chứng thuyết phục về phong cách độc đáo của nhà văn tài hoa này.

Không phải ngẫu nhiên khi miêu tả về “Người lái đò sông Đà” - ông lái đò Lai Châu - Nguyễn Tuân lại tập trung miêu tả một số chi tiết ngoại hình: “Tay ông lêu nghêu như cái xào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng. Giọng ông ồn ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong đợi một cái bến xa nào đó trong sương mù”. Cái nghề nghiệp trên sông nước cũng đã tạo nên ở ông đặc điểm rất riêng từ dáng vẻ đến cái giọng “ăn sóng nói gió” mạnh mẽ, dữ dội, át cả tiếng thác nước sông Đà cùng với “cái đầu quắc thước ấy đặt trên một thân hình cao, to và gọn quánh như chất sừng chất mun”. Vẻ đẹp của người lao động được tôi luyện, thử thách có thể chiến thắng được thiên nhiên hung bạo là một chi tiết tưởng như rất tự nhiên nhưng thực ra nó thể hiện sự quan sát tinh tế như những lời ngợi ca bất tuyệt dành cho ông đò: “Ngực, vú, bả vai người lái đò chống sào vượt thác hay bầm lên một khoanh củ nâu... Cái đồng tiền tụ máu cũng là hình ảnh quý giá của một thứ huân chương lao động siêu hạng tặng cho người lái đò”.

Chở đò là một nghệ thuật cao cường đòi hỏi sự thông minh, khôn khéo và trí dũng, tài ba. Ở đây, ông đò hiện lên dưới ngòi bút Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ trong nghệ thuật leo ghềnh, vượt thác, với “tay lái ra hoa”. Để làm nổi bật tài nghệ ấy ở ông đò, Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một cuộc vượt thác: Ông đò là người cầm lái chỉ huy sáu bơi chèo để chiến thắng được thác nước và đá ngầm mà sông Đà bày thạch trận trên sông như một trận đò bát quái văng ra hết lớp này đến lớp khác. Ông đò đã bình tĩnh, thông minh, khôn khéo, cái bản lĩnh của một viên chiến tướng bởi chỉ cần một phút mất bình tĩnh, lóa mắt, lỡ tay là phải trả giá bằng sinh mạng của cả nhà đò. Tài nghệ của ông được bộc lộ trong cuộc vượt thác phá ba trùng vi thạch trận mà với vốn hiểu biết phong phú, vốn từ ngữ chính xác, sắc sảo về quân sự và võ thuật. Nguyễn Tuân đã thể hiện một cuộc quyết đấu thật sinh động.

Ở vi thạch trận thứ nhất, sông Đà mở ra cửa trận, có bốn cửa tử và một cửa sinh nằm “lập lờ phía tả ngạn”. Sóng nước có cái hung hăng của kẻ bắt đầu xung trận: “sóng nước như thể quân liều mạng. mà đá trái, mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên”. Thậm chí nó còn nham hiểm, thủ đoạn “đánh đến miếng đòn độc hiểm nhất hòng tiêu diệt đối phương ngay tại trận”. Nhưng ông đò cố nén vết thương, mặt “méo bệch đi”. Chỉ cần một từ ghép “méo bệch” mà Nguyễn Tuân đã thể hiện được hai tâm trạng của ông đò. Đó là nỗi đau đớn ghê gớm làm biến dạng khuôn mặt người méo xệch và sóng nước đang tung thẳng vào người làm nhợt nhạt cả sắc mặt người khiến khuôn mặt trắng bệch ra. Dẫu như thế, ông đò vẫn tỉnh táo chỉ huy “sáu bơi chèo” để phá tan cái trùng vi thạch trận thứ nhất.

Ở trùng vi thạch trận thứ hai, sông Đà với bản chất ngoan cố và xảo quyệt đã đổi luôn chiến thuật. Nó “tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào và cửa sinh bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn... Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá”. Cái “hồng hộc” của kẻ say máu đang quyết đấu một phen nhưng nó lại gặp phải một đối thủ không vừa. Ông đò với bản lĩnh của con người không chịu khuất phục, của một vị tướng quyết đấu đến cùng đã “cưỡi lên thác sông Đà. nắm chặt lấy được cái bờm sóng. đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”. Trước sự chiến đấu dũng mãnh, phi thường của ông đò thì “cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”. Hình tượng tảng đá lớn, rêu phủ xanh dưới ngòi bút Nguyễn Tuân lại trở thành một sinh thể có hồn với vẻ mặt xanh lì - mặt cắt không còn hạt máu - với nỗi sợ hãi khủng khiếp vì không ngờ gặp phải đối thủ đáng gờm như thế. Và trùng vi thạch trận thứ hai đã được ông đò phá xong.

Ở trùng vi thạch trận thứ ba, hình ảnh của một con thú giãy chết lại được thể hiện khi con sông Đà: bên phải, bên trái đều là luồng chết còn luồng sống lại ở ngay chính giữa để quyết tiêu diệt đối phương. Thác nước ầm ầm, hơi nước mù mịt nhưng ông đò vẫn nhận ra được chiến thuật của sông Đà, ông đổi ngay cách đánh, cứ phóng thuyền “vút, vút.” như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước. thế là hết thác.

Không biết đến bao giờ tôi mới thôi ngạc nhiên và thích thú trước hình ảnh không hiểu làm sao mà Nguyễn Tuân có thể nghĩ ra về sự “tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng” của thằng đá tướng khi bị cái thuyền đánh trúng cửa sinh, đè sấn lên, chặt đôi sóng ra để mở đường tiến qua ải nước. Nhưng để lại dấu ấn rõ nét hơn cả trong tôi lại là những câu văn về dòng sông khi vừa hết thác: “vặn mình vào một cái bến cát có hang lạnh. Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ”. Nhà văn đã mượn cho kí ức con người vẻ đẹp thênh thang của bờ cát bên sông. Và những người lái thuyền trong đêm ấy đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và chỉ toàn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh. Nhà văn làm cho ta thấy họ còn lớn hơn bậc nữa vì họ hồn nhiên quên đi cái lớn của mình. Hay nói đúng hơn họ không hề cho là lớn lao, cái mà chúng ta thấy rõ ràng rằng vĩ đại.

Người lái đò của Nguyễn Tuân không có phép màu để so sánh với sức lực của Thủy Tinh nhưng ông “đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá”. Và cái kinh nghiệm đò giang sông nước, lên thác xuống ghềnh đã khiến ông đò dù trong tay chỉ có cây chèo vẫn có thể phá thành, vượt ải như một chiến trường bách thắng trong sự nghiệp đấu tranh chống lại thiên nhiên khắc nghiệt.

Một cảm hứng hào hùng đã khiến ngòi bút của Nguyễn Tuân miêu tả cuộc vượt thác sông Đà vẫn diễn ra thường nhật thành một trận đánh biến ảo, hấp dẫn, một khúc hát ca ngợi chiến công của một bậc anh hùng, có quá lớn, có đáng ngạc nhiên chăng, nhất là ở một nhà văn vốn có tiếng là kêu bạc? Là một nhà văn vốn cầu kì, tỉ mỉ, tường tận trong quan sát và miêu tả sự vật hiện tượng, con người vậy mà ở đây Nguyễn Tuân chẳng có một dòng nào nói về tên tuổi, gia cảnh của ông đò. Thủ pháp vô danh hóa đã giúp nhà văn khẳng định: ở một đất nước lắm sông nhiều suối, lắm thác nhiều ghềnh thì những người lái đò tài hoa, nghệ sĩ như ông đò trên sông Đà là phổ biến. Ông ca ngợi lao động, ca ngợi c người theo cách riêng của mình làm cho hai tiếng “Con Người” vang lên kiêu hãnh biết bao!

Với “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân không chỉ thể hiện tài hoa ở thể loại tùy bút mà còn thể hiện nét mới trong phong cách nghệ thuật của ông: nhân vật tài hoa, nghệ sĩ không phải là những con người hiếm hoi, cô độc, lạc lõng giữa cuộc đời mà đó chính là nhân vật vô danh. Chủ nghĩa anh hùng cách mạng không chỉ có ở nơi chiến trường mà có ở ngay trong những người dân bình thường hằng ngày phải vật lộn với thiên nhiên hung dữ để mưu sinh. Chính họ đã viết nên thiên anh hùng ca của cuộc sống.

Bài văn mẫu số 6

Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” là một trong những tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Tuân được in trong tập sông Đà (1960). Viết tùy bút này, Nguyễn Tuân tự coi mình là người đi tìm cái thứ vàng mười của màu sắc núi sông Tây Bắc và nhất là cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa, được vui và vững bền. Chất vàng mười của con người ấy chính là người lái đò sông Đà. Điều đó được khắc hoạ thật ấn tượng mang cảm giác thật mãnh liệt qua cảnh vượt thác “có một không hai”.

Ông lái đò sinh ra và lớn lên bên bờ sông Đà, ngay ngã ba sông Đà nên con sông là máu thịt của quê hương đã ngấm vào trái tim, khối óc nên ông lái gắn bó, yêu thương và thấu hiểu tường tận, cặn kẽ dòng sông.

Khi Nguyễn Tuân có dịp kiến diện với người lái đò thì cũng là lúc người lái đò đã 70 tuổi, cái tuổi của buổi xế chiều. Ông làm nghề lái đò dọc sông Đà mười năm liền và đã nghỉ đôi chục năm. Ấy thế mà ông có ngoại hình thật đặc biệt «ông có thân hình quắc thước sánh như chất sừng, chất mun trông trẻ tráng quá ». Những nét ngoại hình ấy vì đâu mà có, phải chăng mười năm trong nghề, dấu ấn của công việc đã in đậm trên ngoại hình ông lão: Tay ông lêu nghêu như cái sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh, gò lại như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù. Bả vai của ông có vết củ nâu tròn, dấu tích tì sào của nghề lái đò mười năm liền trên sông nước, vượt qua bao ghềnh thác mà Nguyễn Tuân đã ca ngợi là thứ huân chương siêu hạng.

Ông lái đò đã từng ngược xuôi trên ghềnh thác sông Đà nhiều năm trong cuộc đời nên ông nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, và thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước, để rồi từ đó mưu trí, dũng cảm vượt qua và chiến thắng thiên nhiên nghiệt ngã để tồn tại, lao động và sáng tạo. Ông lái đò hiện lên khác nào vị thần Thủy Tinh trong thần thoại VN, nhưng có điều ông không có phép tiên mà chỉ đơn thuần là con người lao động bình dị, đời thường tiêu biểu cho phẩm chất của người lao động mới trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội mới ở miền Bắc.

Chỉ từng trải thôi chưa đủ, đối với con sông Đà, ai chế ngự được nó đòi hỏi phải có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán nữa. Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào trong hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không sẽ phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là cuộc vượt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như trận đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một.

Vẻ đẹp trí dũng, tài hoa của người lái đò được thể hiện rõ nét nhất trong cuộc đối đầu với đám đá đang bày binh bố trận trên sông. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời. Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quảng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Với những từ ngữ : mai phục, vồ lấy thuyền khiến cho lũ đá nơi ải nước như những kẻ thù nham hiểm và hung ác. Chúng có thể bất thình lình tấn công con người bất cứ khi nào và tai họa sẽ ập đến mà không báo trước. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này. Nguyễn đã miêu tả lũ đá ở đây mỗi hòn mang một vẻ mặt khác nhau: hòn thì ngỗ ngược, hòn méo mó, hòn mặt xanh lè, hòn hất hàm như thách thức… mỗi hòn mỗi dáng vẻ, nhưng nhìn những bộ mặt ấy thì không có chút nào thiện cảm bởi vẻ lạnh lùng, hung ác và giữ tợn.

Người đọc như đang chứng kiến thạch trận đá trên sông Đà như bày ra một trận địa chiến đấu mà mỗi vị trí và nhiệm vụ được cân nhắc và tính toán kỹ lưỡng. Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng hòn chia làm ba hàng chắn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn. Có bọn đá tiền vệ, hậu vệ, đá cũng biết mai phục, biết đánh trận. Tất cả gợi lên sự hung tợn và dữ dội, quyết liệt của con sông Đà hung bạo này. Hàng tiền vệ : Có hai hòn cánh cửa thoạt nhìn tưởng chúng như sơ hở nhưng thực chất đang đóng vai trò dụ cái thuyền tiến sâu vào bên trong. Khi con thuyền đã bị dụ vào trong thì nước sóng luồng mới đánh khuýp quật vu hồi lại. Nhưng con thuyền của ông đò đã dễ dàng vượt qua nên tuyến thứ ba là các boongke chìm và pháo đài đá nổi là phải đánh tan con thuyền. Cùng với thạch trận đá là sự tiếp ứng, phối hợp của cả sóng nước biết tung ra bao đòn đánh hiểm độc : khuýp quật vu hồi, đưa ra những đòn độc : đá trái, thúc gối, đội thuyền, túm thắt lưng, bóp chặt hạ bộ người lái đò…rồi liên tiếp các đòn trùng điệp : đánh đòn tỉa, đòn âm, hồi lùng…

Nguyễn Tuân đã sử dụng hàng loạt những động từ mạnh để diễn tả hết sự hung hăng, dữ tợn và hiểm nguy của con sông Đà. Nhưng càng hung dữ bao nhiêu thì lại càng tôn lên vẻ đẹp của ông lái đò bấy nhiêu vì con sông coi như một hình ảnh làm nền cho người lái đò hiện lên anh dũng, kiên cường, đầy hiên ngang, kiêu hãnh, hào hoa tìm sự sống trên dòng sông chết. Hay chúng ta gọi là nghệ thuật vẽ mây nẩy trăng, lấy bóng mà lộ được hình.

Trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước thì hò la vang dậy như muốn bẻ gãy cán chèo, vũ khí duy nhất có trên tay ông lái đò. Sóng nước chiến đấu như một kẻ liều mạng, không do dự mà xông thẳng vào người lái đò tiến sát nách mà đá trái, thúc gối vào bụng và hông thuyền. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất là nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, ông lái đò vẫn không hề nao núng, bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Đặc biệt trên con thuyền có đến sáu bơi chèo vẫn nghe thấy tiếng chỉ huy ngắn gọn mà tỉnh táo của người cầm lái. “Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất”. Trong trận đánh người lái đò đã hiện lên thật gan dạ, dũng cảm và đầy sức dẻo dai và một trí tuệ của người chỉ huy con thuyền sáng suốt.

Không một phút giây nghỉ tay, nghỉ mắt, người lái đò phải tiếp tục “phá luôn vòng vây thứ hai”. Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Biết ở vòng vây thứ hai con sông đã bố trí tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, cửa sinh lại bố trí lệch qua bờ hữu ngạn. Với vòng vây thứ hai không phải chiến đấu với đá, sóng như cửa thứ nhất mà là đương đầu với dòng thác sông Đà. Bằng nghệ thuật liên tưởng độc đáo Nguyễn như thấy ông lái đò không phải chèo thuyền vượt thác mà là cưỡi lên thác nước sông Đà. Hơn nữa bằng nghệ thuật miêu tả đòn bẩy tác giả đã ví thác sông Đà như một con hổ hung bạo đã vào cuộc chiến sinh tử với người lái đò. Nên ông lái đã cưỡi lên thác thì phải cưỡi đến cùng như cưỡi hổ. Nhằm đúng con sóng mà lướt thì cũng như nắm được cái bờm của con hổ để có chỗ bám, chỗ ghì tay. Rồi ông đò ghì cương lái của con thuyền, chắc đôi bàn tay để bám chắc lấy luồng nước mà lái miết một đường vào cửa Sinh. Nhưng con sông thật nham hiểm bởi nó không để chút sơ hở cho con thuyền có lối thoát. Luồng nước chứa cửa sinh cũng là chỗ lũ đá đang mai phục. Không chỉ có thế, một bọn thủy quân đang chờ sẵn chỗ ải nước chỉ chờ con thuyền đến là xô ra để níu con thuyền vào cửa tử. Nhưng ông đò đã nhớ mặt từng đứa một, đứa thì ông tránh để bơi chèo nhanh, đứa thì ông đè sấn lên, chặt đôi ra để lấy đường tiến. Và cứ như vậy con thuyền đã bỏ qua hết những cửa tử, và chỉ nghe bên tai tiếng reo hò của sóng nước luồng sinh. Trong trận chiến thứ hai phẩm chất nổi bật của ông lái đò lại anh hùng, linh hoạt và chủ động đối phó với thác nước sông Đà.

Nếu trong hai trận chiến trên chúng ta có thể đã đủ để ngưỡng mộ người lái đò, nhưng với Nguyễn, tìm đến con người thì con người ấy phải được miêu tả đến tài hoa tột bậc, phải trở thành nghệ sĩ. Và Nguyễn đã phải tiếp tục miêu tả người lái đò trong cuộc chiến thứ ba với con sông Đà. Và cũng đến vòng vây thứ ba với nghệ thuật miêu tả sắc nét vô cùng thì ông lái hiện lên như một tay lái nở hoa, đạt đến mức độ nghệ sĩ trong nghề lái đò của mình. Đến vòng thứ bà, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, nhưng người lái đã chủ động “tấn công”: Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Khung cảnh giao tranh dù rất quyết liệt, một mất một còn nhưng Nguyễn đã miêu tả như một cuộc chiến của giới thần tiên. Màn hơi nước mờ trắng hư ảo, con thuyền không bơi trên sóng nước sông Đà mà nó như đang bay trên dòng sông hư ảo ấy. Con thuyền như mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước. Còn người lái đò như một tiên ông với phép lạ, chỉ vẩy tay chèo mà con thuyền vút vút xuyên đi như có một mãnh lực siêu hình. Phải chăng đó là tuyệt tài của một tay lái nở hoa. Thế là kết thúc.

Nổi bật trong trang văn của Nguyễn là nhân vật luôn được nhà văn miêu tả ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Nếu trước CMT8 -1945, Nguyễn Tuân chỉ tập trung vào lớp nhà nho quá vãng thì nay sau CM, tác giả đã tìm thấy và khẳng định cái đẹp ở ngay trong cuộc sống hàng ngày của người dân lao động. Cuộc đời của người lái đò vô danh, không tên tuổi, nơi có những ngọn thác hoang vu, khuất nẻo kia là cả một thiên anh hùng ca, một pho nghệ thuật tuyệt vời. Nếu như thiên nhiên sông Đà trong tác phẩm của Nguyễn Tuân là “kẻ thù số một” của con người, thì cũng chính thiên nhiên, qua ngòi bút của nhà văn là nơi đã tôn vinh giá trị con người vào lao động.

Bài văn mẫu số 7

Vũ Ngọc Phan đã từng viết như thế này về phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân: “Chỉ người ưa suy xét đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú vị, vì văn Nguyễn Tuân không phải là thứ văn để người nông nổi thưởng thức.” Quả thực, ngòi bút tài hoa của người nghệ sĩ ấy luôn hướng đến những gì là tuyệt mỹ nhất của cuộc đời. Tùy bút “Người lái đò sông Đà” - những thước phim đẹp đẽ nhất về thiên nhiên hùng vĩ và con người tài hoa. Đặc biệt, hình tượng người lái đò trong cảnh vượt thác ấy có lẽ chính là bức tranh tuyệt mỹ nhất, một hình tượng đặc sắc nhất mà Nguyễn Tuân đã tạo nên. Chỉ qua đó thôi cũng đủ để người đọc thấy được nét tài hoa trong ngòi bút của người nghệ sĩ “suốt đời đi tìm cái đẹp ấy”.

Trước năm 1945, Nguyễn Tuân thường say mê miêu tả vẻ đẹp tài hoa của những người nghệ sĩ, những vẻ đẹp mà người ta vẫn gọi là “vang bóng một thời” để bày tỏ sự ngưỡng mộ và cả những nỗi niềm tiếc nuối. Sau năm 1945, quan niệm thẩm mĩ của Nguyễn Tuân đã có những thay đổi, ông hướng ngòi bút của mình đến vẻ đẹp tài hoa của những con người lao động bình thường trong cuộc sống đời thường. Tùy bút “Người lái đò sông Đà” sáng tác năm 1960, là kết quả của chuyến đi thực tế lên Tây Bắc để khám phá cảnh sắc thiên nhiên cũng như tìm kiếm “thứ vàng mười” trong cảnh và con người nơi đây. Qua tùy bút, hình tượng người lái đò hiện lên đầy ấn tượng giữa cái hung bạo của con sông Đà. Trong đó, ắt hẳn người đọc không thể quên khung cảnh vượt thác đầy điêu luyện và tài hoa của ông lái đò, một cảnh tượng mà Nguyễn Tuân gọi là có một không hai, “trước nay chưa từng có”.

Ông lái đò hiện lên là một ông lão đã 70 tuổi với ngoại hình thật đặc biệt: Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh, gò lại như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù. Nguyễn Tuân chỉ bằng vài nét cũng cũng đủ để để chạm khắc vào tiềm thức của bạn đọc về một hình ảnh người lái đò gần gũi, một con người sinh ra và lao động trên sông nước, một con người suốt đời chiến đấu với thác, đá, sóng, nước của sông Đà để tồn tồn tại và xây dựng quê hương Tây Bắc. Giữa khung cảnh thiên nhiên sông Đà hùng vĩ, đầy nguy hiểm và hung bạo ấy, Nguyễn Tuân đã tô đậm vẻ đẹp tài hoa trí dũng của ông lái đò qua cuộc vượt thác đầy nguy hiểm, một trận chiến dữ dội giữa con người và thiên nhiên. Người lái đò nhỏ bé cùng chiếc thuyền mỏng manh đối chọi với thiên nhiên sông nước hung bạo, một cuộc chiến không cân sức nhưng con người trí dũng ngoan cường, tỉnh táo, khôn ngoan, khéo léo đã có thể đưa con thuyền an toàn vượt qua những trùng vi thạch trận trên dòng sông một cách đầy ngoạn mục.

Ở vòng vây thứ nhất, con sông Đà bày ra thạch trận với bốn cửa tử và một cửa sinh. Ở đây nước phối hợp với đá reo hò làm thanh viện; những hòn đá bệ vệ, oai phong lẫm liệt; một hòn ấy trông như đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. Khi “thạch trận dàn bày vừa xong thì cũng là lúc con thuyền tới”. Người lái đò không hề run sợ, tiến đề với trùng vi thạch trận thứ nhất với tâm thế sẵn sàng nhất. Con sông Đà khôn ngoan, nó không đánh trực diện với người lái đò mà đánh bằng nghệ thuật tâm lý chiến. Trước đó, nó dùng âm thanh của thác để khiêu khích “giọng gằn mà chế nhạo”, còn giờ đây nó lại nhờ đến “nước thác làm thanh viện cho đá”. Sông Đà quả thực hiểm ác, nó xông tới “ùa vào mà bẻ gãy cán chèo”, “liều mạng vào sát nách mà đá trái”, “thúc gối vào bụng và hông thuyền”, có lúc lại “đội cả thuyền lên”. Sông Đà khôn ngoan và hiểm ác là thế, nhưng ông lái đò không hề hoảng sợ “ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất tung lên khỏi sóng”. Lúc này con sông Đà lại chuyển thế bám lấy thuyền và sử dụng đòn vật “túm lấy thắt lưng ông lái đò đòi lật ngửa thuyền ra”. Không để cho ông đò có cơ hội xoay xở, sông Đà lại chuyển thế đánh miếng đòn hiểm độc nhất “cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”. Khi sóng thác đánh miếng đòn độc hiểm nhất, ông đò mặt “méo bệch” đi. Khuôn mặt ấy của ông lái đò hiện ra không chỉ là gương mặt biến dạng, trắng bệch vì đau đớn mà còn nhợt nhạt vì phải dầm lâu trong nước lạnh. Sự đau đớn của ông đò còn được gián tiếp miêu tả trong một cảm nhận của thị giác và xúc giác “mặt sông trong tích tắc lòa sáng như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng”. Đó là một trận chiến không cân sức, con sông Đà hùng vĩ và hung bạo vô cùng, người lái đò hiện lên nhỏ bé, với chiếc mái chèo nhưng với sức mạnh thật lớn lao. Qua cách miêu tả tiếng hô chỉ huy ngắn gọn, tỉnh táo của người cầm lái, Nguyễn Tuân đã không giấu được lòng ngưỡng mộ và cảm phục trước bản lĩnh kiên cường, sự dũng mãnh, bình thản của người lái đò.

Tới vòng vây thứ hai của thạch trận, ông đò không chỉ dũng mãnh, kiên cường mà còn thể hiện sự thông minh của một người lái đò dày dặn kinh nghiệm – người nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, người đã “thuộc quy luật” của dòng sông, thác đá. Đến với trùng vi này, con sông Đà tăng thêm nhiều cửa tử hơn, cửa sinh lại bố trí lệch qua bờ phía hữu ngạn. Ở trận đánh này ông đò đánh phủ đầu với kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh. Ông đò “nắm chắc được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông ghì cương lái”, ông “phóng nhanh”, “lái miết”, tốc độ nhanh vô cùng. Nhưng sông Đà nào đâu phải dạng vừa, chúng xô ra, níu chiếc thuyền vào tập đoàn cửa tử. Ông đò đã cảnh giác sẵn “đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo”, “đứa thì đè sấn lên chặt đôi ra để mở đường tiến lên”. Nguyễn Tuân quả thực là bậc thầy của ngôn ngữ, ông huy động hàng loạt các động từ, hò reo theo từng nhịp lái chèo của ông lão lái đò: nắm, ghì, phóng, lái, rảo, đè,... Ông lái đò như một dũng tướng tài ba điều khiển thuần phục con ngựa bất kham của sóng thác sông Đà. Chính bằng sự mưu trí và tài năng của mình, ông lão đã vượt qua hết các cửa tử, làm cho bọn đá thua cuộc phải bày bộ mặt “tiu nghỉu, xanh lè thất vọng”. Thiên nhiên, thác đá sông Đà hung bạo hiểm độc là thế cũng không thể chiến thắng được sức mạnh phi thường của ông lái đò - một tay lái ra hoa, trí tuệ, một tướng lĩnh thực thụ đã chiến thắng cả thần sông, thần đá.

Có lẽ tất cả sự hiểm ác nhất của con sông Đà tập trung hết cả ở trùng vi cuối cùng. Không những ít cửa hơn mà bên trái bên phải đều là luồng chết cả, luồng sống thì lại nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ. Bốn năm bọn thuỷ quân cửa ải nước bên bờ trái liên xô ra cảnh níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Con sông ngày càng mưu mẹo vào hiểm ác, muốn dồn con người đến chỗ chết. Sự hiểm ác của thác đá đã được nhà văn miêu tả trong hình ảnh ẩn dụ tài hoa về cổng đá cánh mở cánh khép – đó là cả một mặt trận đá trùng điệp trong đó bức tường phòng ngự vững chắc của lũ đá hậu vệ kết hợp với những mũi tấn công ào ạt, tới tấp không ngừng nghỉ của sóng dữ. Nhiệm vụ của ông đò là phải phóng thẳng thuyền, chọc thủng một luồng sinh duy nhất ở ngay giữa cửa bọn đá hậu vệ trấn giữ, trong khoảnh khắc cánh “cổng đá” mở giữa những đợt sóng thác dữ dội. Có lẽ ngay lúc này đây, tay lái chèo của ông lái đò thực sự là một tay lái ra hoa. Không bằng quá nhiều từ ngữ, câu văn, hình ảnh con thuyền lao vút qua khe hẹp được miêu tả trong những câu văn ngắn mà bản thân cách ngắt câu, sự kết hợp những động từ và danh từ nối tiếp: vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng… đã thể hiện sự điêu luyện khéo léo và sức mạnh của ông đò. Tốc độ phi thường của con thuyền dưới bàn tay vừa lái, vừa xuyên, vừa lượn của ông đò không chỉ như một mũi tên tre mà còn được gợi tả tinh tế qua làn hơi nước mà con thuyền xuyên qua, con thuyền không còn lướt trên mặt nước mà đã thực sự bay trong làn hơi nước trên mặt sóng. Tài năng của ông đò khi ấy đã bao hàm cả trí tuệ, sự trải nghiệm, sức mạnh thể lực, trình độ điêu luyện và bản lĩnh kiên cường – tất cả đều đạt tới mức phi phàm, kì diệu. Vậy là cuối cùng, bằng tất cả tài hoa, trí lực và sự dũng mãnh của mình, ông lái đò đã chiến thắng con sông Đà hiểm độc.

Cảnh vượt thác sông Đà có lẽ chính là một trong những kiệt tác nghệ thuật trong cuộc đời sáng tác của Nguyễn Tuân. Ông lái đò trí dũng, tài hoa đã chiến thắng con sông Đà hung bạo, hiểm ác một cách ngoạn mục. Khung cảnh vượt thác sông Đà có lẽ đã quá quen thuộc trong suốt hàng chục năm hành nghề của ông lái đò, nhưng dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân nó đã thực sự trở thành biểu tượng đẹp đẽ nhất nơi núi rừng Tây Bắc. Từng câu, từng chữ đều được Nguyễn Tuân chăm chút từng tí một, đến nỗi tưởng đầu người đọc đang được trên chính chuyến đò ấy, được tận mắt chứng kiến từng hành động, từng nước đi tài hoa của ông lái đò.

Viết về con người bình thường trong cuộc sống đời thường nhưng không hề tầm thường. Nguyễn Tuân luôn tìm đến và khắc họa những vẻ đẹp ấy bằng ngòi bút tài hoa nghệ sĩ nhất. Khung cảnh vượt thác của ông lái đò - một nhịp sống thường niên trong suốt cuộc đời ông lái đò, qua ngòi bút của Nguyễn Tuân cớ sao nó lại đẹp đẽ và tuyệt mĩ đến vậy. Người nghệ sĩ tài hoa ấy đã chạm đến tuyệt đích của cái đẹp, đã thực sự thành công trên con đường đi tìm cái đẹp ấy. Không giống như “Chữ người tử tù”, trong câu chuyện của “Người lái đò sông Đà” Nguyễn Tuân không đi tìm cái đẹp của một thời đã qua nữa mà cái đẹp mà ông khám phá ở ngay trước mắt, trong chính cuộc sống đời thường nhất, đúng như cái nghệ danh mà người đời đặt cho ông - “Một người nghệ sĩ suốt đời đi săn tìm cái đẹp”.

Nguyễn Tuân đã vẽ lên một khung cảnh cảnh vượt thác đầy gay cấn và khốc liệt. Nếu coi người lái đò là người nghệ sĩ điều khiển con thuyền đầy điêu luyện thì Nguyễn Tuân đích thực là người nghệ sĩ chèo lái con thuyền ngôn từ đầy tài hoa. Chỉ qua một một khung cảnh vượt thác thôi, nhưng Nguyễn Tuân đã điều động cả một đội quân từ ngữ để diễn tả sự cuồng nộ của sông Đà và cả sự tài hoa của người lái đò. Nguyễn Tuân đưa người đọc đi từ cảm xúc này sang cảm xúc khác, từ hồi hộp, căng thẳng đến thở phào nhẹ nhõm. Cứ từ trùng vi thạch trận này đến trùng vi thạch trận khác, người đọc chưa khỏi thở phào lại phải tiếp tục đến với một cuộc chiến mới gay cấn và khốc liệt vô cùng. Trong công cuộc đi tìm “chất vàng mười” của con người Tây Bắc nói riêng và người lao động Việt Nam nói chung trong thời kỳ mới, Nguyễn Tuân đã khai thác và khám phá một cách tỉ mỉ nhất, bằng con mắt và trái tim yêu thương nhất của người nghệ sĩ yêu thương và khát khao khám phá cái đẹp ở đời.

Khép lại những trang văn của “Người lái đò sông Đà”, người đọc sẽ mãi không bao giờ quên về hình ảnh một con sông Đà hiểm độc, hung bạo, về một người lái đò điều luyện và cả người nghệ sĩ tài hoa Nguyễn Tuân. Từng cảm xúc, từng hình ảnh vượt thác sông Đà đã trở thành một ấn tượng khó phai khi con người bước chân tới chân trời đầy màu sắc huyền bí riêng biệt, hấp dẫn và độc đáo. Đó là chân trời của cái đẹp, của tài hoa và sự uyên bác.

Bài văn mẫu số 8

Đánh giá về Nguyễn Tuân, nhà văn Nguyễn Minh Châu thật có lí khi cho rằng: “Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người nghệ sĩ”. Nguyễn Tuân luôn tìm mọi cách để kiếm tìm và phát hiện cái mới lạ, độc đáo “xưa nay chưa từng có” trong hành trình sáng tạo. Tuỳ bút “Người lái đò Sông Đà” là kết quả của hành trình bền bỉ và sáng tạo về vẻ đẹp kì diệu của thiên nhiên và con người Tây Bắc. Bằng sự tài hoa, uyên bác, Nguyễn Tuân đã khắc hoạ một dấu ấn không thể mờ phai về con sông miền Tây Bắc vừa hung bạo vừa trữ tình và nổi lên trên thác dữ là vẻ đẹp của một chiến binh sông nước với “tay lái ra hoa” đã vượt bao trùng vi thạch trận như một người nghệ sĩ trên mặt trận vượt thác leo ghềnh. Điều đó được khắc hoạ thật ấn tượng mang cảm giác thật mãnh liệt qua cảnh vượt thác “có một không hai”.

“Cảnh vượt thác” là cảnh tượng người lái đò vượt qua ba trùng vi thạch trận với bao tướng dữ quân tợn. “Xưa nay chưa từng có” cảnh tượng hiếm gặp, trước sau chưa có. Thực chất của ý kiến là bàn đến tài nghệ vượt thác của ông lái đò và tài năng nghệ thuật bậc thầy của Nguyễn Tuân.

Bằng ngòi bút tài hoa và quan niệm duy mỹ về cái đẹp - Nguyễn Tuân đã xây dựng thành công hình tượng người lái đò sông Đà - một hình tượng nghệ thuật độc đáo hấp dẫn. Ông khách sông Đà tuổi ngoài bảy mươi tuổi nhưng thân hình rắn chắc như một bức tượng cẩm thạch: ngực ông đầy những củ nâu - thương tích trên chiến trường Sông Đà mà Nguyễn Tuân gọi đó là “huân chương lao động siêu hạng”, tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông khuỳnh khuỳnh; nhỡn giới ông cao vời vợi, giọng ông ồ ồ như tiếng thác trước ghềnh. Miêu tả người lái đò như vậy - Nguyễn Tuân đã phần nào khắc họa được vẻ đẹp của con người lao động gắn bó với chiến trường sông nước.

Hình tượng người lao động không chỉ khắc họa qua ngoại hình mà còn được khắc họa qua tính cách và trí thông minh. Ông xem sông Đà như một thiên anh hùng ca và thuộc lòng sông Đà, thuộc tất cả luồng lạch; nắm được binh pháp của thần sông thần đá. Chính vì vậy trong trận thủy chiến đầy binh hùng tướng mạnh, phần thắng vẫn thuộc về con người trí dũng và tài hoa. Trí và dũng của ông khách Sông Đà được Nguyễn Tuân khắc họa một cách đậm nét với ba trùng vi thạch trận. Trận thủy chiến này là một cảnh tượng “xưa nay chưa từng có”.

Ở đoạn văn thứ nhất, Nguyễn Tuân dồn hết bút lực vào miêu tả trùng vi thạch trận đầu tiên. Ở trùng vi thạch trận này - thác đá sông Đà đã chuẩn bị dàn trận địa sẵn, đó là trận địa với bốn cửa tử, một cửa sinh. Ở đây nước phối hợp với đá reo hò làm thanh viện; những hòn đá bệ vệ, oai phong lẫm liệt; một hòn ấy trông như đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. Bằng các từ ngữ: “reo hò, bệ vệ, oai phong lẫm liệt, hất hàm hỏi, thách thức…”, người đọc cảm nhận được không khí trận chiến nóng bỏng gay cấn hồi hộp, kịch tính. Đó chính là biệt tài phù thuỷ ngôn ngữ của Nguyễn Tuân.

Thác đá sông Đà rất khôn ngoan. Chúng không chỉ đánh trên mặt trận giáp lá cà mà còn đánh bằng cả nghệ thuật tâm lý chiến. Trước đó chúng đã dùng âm thanh của thác khiêu khích “giọng gằn mà chế nhạo”. Còn giờ đây chúng lại nhờ “nước thác làm thanh viện cho đá”. Với bản tính hung hãn như một loài thủy quái, sông Đà đã đánh phủ đầu người lái đò với những đòn thế vô cùng hiểm hóc. Sông Đà cậy thế quân đông tướng mạnh nên đã “ùa vào mà bẻ gãy cán chèo”, “liều mạng vào sát nách mà đá trái”, “thúc gối vào bụng và hông thuyền”, có lúc chúng “đội cả thuyền lên”. Một loạt động từ được Nguyễn Tuân huy động để miêu tả cách đánh của sông Đà làm người đọc không khỏi rùng mình trước sự hung bạo của thiên nhiên: “ùa vào, bẻ gãy, đá trái, thúc gối, độ…”

Bị tấn công bất ngờ nhưng người lái đò vẫn bình tĩnh. Với chiến thuật phòng ngự để dưỡng sức cho những trùng vi sắp tới, “ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng”; lúc này sông Đà lại chuyển thế bám lấy thuyền và sử dụng đòn vật “túm lấy thắt lưng ông lái đò đòi lật ngửa mình ra”. Không để cho ông đò có cơ hội xoay xở, sông Đà lại chuyển thể đánh miếng đòn hiểm độc nhất “cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”. Dính miếng đòn hiểm, mắt ông hoa lên, tưởng như “một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống châm lửa lên đầu sóng”. Đòn đau khiến ông đò “mặt méo bệch đi”. Đó là cái méo bệch vốn do cái lạnh của nước làm nhăn nheo lại thêm miếng đòn đau làm ông khách sông Đà mặt như tím tái, ngây dại. Phép điệp động từ “đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm” gợi lên cơn đau dồn dập, hành hạ người lái đò. Nhưng ông đò nén đau, giọng ông vẫn bình tĩnh, tỉnh táo, sắc lạnh chỉ huy sáu bơi chèo còn lại vượt cửa tử vào cửa sinh.

Nếu đoạn văn thứ nhất, Nguyễn Tuân tập trung miêu tả thế trận một chiều từ sông Đà thì ở đoạn văn tiếp theo nhà văn tập trung miêu tả thế trận của ông khách sông Đà ở sự thông minh, linh hoạt và tài nghệ vượt thác dũng mãnh, phi thường. Chuyển từ thế trận phòng ngự, ông lái đò chuyển thế chủ động tấn công. Ở trùng vi thạch trận thứ hai này, sông Đà tăng cường một “tập đoàn cửa tử” và cửa sinh bố trí lệch qua bờ hữu ngạn.

So với trùng vi một thì trùng vi này khó khăn hơn. Nhưng không vì thế mà ông đò nao núng. Với kinh nghiệm mười năm chiến trường sông nước, người lái đò đã “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá”. Ông đò cũng tự triết lý với mình “cưỡi lên thác sông Đà là cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”, vì thế “không một phút nghỉ tay nghỉ mắt phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật”. Ở trận này ông đò đánh phủ đầu với kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh.

Như một vận động viên đua ngựa, ông đò “nắm chắc được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái”, ông “phóng nhanh”, “lái miết”… tốc độ di chuyển mau lẹ. Nhưng sông Đà cũng không phải dạng vừa. Chúng xô ra định níu chiếc thuyền vào tập đoàn cửa tử. Ông đò đã cảnh giác sẵn nên “đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo”, “đứa thì đè sấn lên chặt đôi ra để mở đường tiến”. Hàng loạt động từ được huy động như một đội quân ngôn ngữ hùng hậu hò reo theo từng nhịp tiến của ông đò: “nắm, ghì, phóng, lái, tránh, rảo, đè, chặt…”. Chính nhờ sự mưu trí và tài năng ấy ông đò vượt qua hết các cửa tử. Một trùng vi với bao cửa tử, cửa sinh mà chỉ vài ngón đòn ông lái đò đã đánh sập vòng vây của lũ đá, đồng thời làm cho bọn đá phải thua cuộc với bộ mặt “tiu nghỉu, xanh lè thất vọng”. Qua đó để thấy người khách sông Đà quả thật là trí dũng song toàn.

Ở trùng vi thứ ba, sông Đà còn một cơ hội cuối để thử thách người lái đò. Trùng vi này ít cửa hơn mà bên trái bên phải đều là luồng chết cả, luồng sống thì lại nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ. Có thể nói trận chiến này sông Đà đã dùng thế “trên đe dưới búa” làm cho người lái đò phải đối mặt với thế “tiến thoái lưỡng nan” nhưng vào “cái khó lại ló cái khôn” - ông lái đò đã biến chiếc thuyền sáu bơi chèo thành một mũi tên còn ông giống như một cung thủ đã “phóng thẳng thuyền chọc thủng cửa giữa. Thuyền vút qua cửa đá cánh mở, cánh khép, vút vút, cửa ngoài, cửa trong lại cửa trong cùng: “Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được. Thế là hết thác”. Một loạt các động từ lại được Nguyễn Tuân huy động để miêu tả cách đánh của ông đò: “phóng, chọc thủng, xuyên qua, xuyên nhanh, lái được, lượn được…” cho thấy sự thần tốc trong cách đánh và cách đánh nhanh thắng nhanh đã giúp người lái đò vượt trùng vi đầy phi thường. Quả là “Đọc Người lái đò sông Đà, ta có ấn tượng rõ rệt về sự tự do của một tài năng, của một đấng hóa công thực sự trong nghệ thuật ngôn từ” (Phan Huy Đông). Nghệ thuật lái thuyền đến đây khiến người đọc hoàn toàn tâm phục, khẩu phục. Đúng là ông lái đò đã đạt đến mức nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình. Đoạn trích vì thế đã xây dựng được một “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.

Ông lái đò là người lao động nhưng lại mang cốt cách của một tâm hồn nghệ sĩ. Trong nghệ thuật vượt thác leo ghềnh ông là một con người phi thường, tài hoa. Một nghệ sĩ có phong thái ung dung, nhàn nhã, khiêm tốn. Ông chính là hình tượng con người lao động là biểu tượng cho trí dũng song toàn trong hành trình đi tìm cái đẹp của nhà văn. Nguyễn Tuân đích thực là một nghệ sĩ tài hoa bậc thầy trong việc ngợi ca những con người lao động trong gian lao nguy hiểm nhưng đầy vinh quang, điển hình là hình tượng ông lái đò trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” với nhiều nét đẹp và cả chất nghệ sĩ trong nghề. Cuộc vượt thác của người khách sông Đà quả thật là phi thường, xứng đáng là một trong những “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.

..........Xem chi tiết tại file tải dưới đây..........

Từ khóa » Hình ảnh ông Lái đò Sau Khi Vượt Thác