Trà – Wikipedia Tiếng Việt
Có thể bạn quan tâm
| Phân loại | Thức uống dùng nóng hoặc lạnh |
|---|---|
| Quốc gia xuất xứ | Trung Quốc[1] |
| Ra mắt | Lần đầu tiên được ghi chép tài liệu từ Trung Quốc vào năm 59 trước Công nguyên, mặc dù có lẽ bắt nguồn từ sớm hơn[2] |
Trà (hay chè) là đồ uống phổ biến thứ hai trên thế giới (sau nước uống).[3] Nó làm bằng cách ngâm lá, chồi, hay cành của cây trà (Camellia sinensis) vào nước sôi từ vài phút đến vài giờ. Lá trà có thể được oxy hóa (ủ để lên men), sấy rang, phơi, hay pha thêm các loài thảo mộc khác như hoa, gia vị, hay trái cây khác trước khi chế vào nước sôi. Thi thoảng, trà cũng được làm từ vài giống cây khác cùng họ, nhưng trường hợp này khá hiếm. Thi thoảng, trà cũng được làm từ vài giống cây khác cùng họ như Camellia taliensis hay Camellia formosensis, nhưng những trường hợp này khá hiếm gặp.[4][5][6][7]
Trong phạm vi thức uống chế từ Camellia sinensis thì có bốn loại trà thật: Trà đen, Trà Ô Long, Trà xanh và Trà trắng. Nước trà là nguồn caffein, theophylline và chất chống oxy hóa (antioxidant) tự nhiên và gần như không có mỡ, carbohydrate, hay protein. Nước trà có mùi thơm, vị hơi đắng và chát. Trà có tác dụng kích thích hệ thần kinh, giúp con người tỉnh táo.[8]
Chuyện uống trà đã được danh y Hoa Đà ghi lại trong sách thuốc từ thế kỷ thứ 3. Tuy nhiên, phải đến đời nhà Đường, trà mới trở thành thú vui thưởng thức phổ biến và lan rộng khắp Đông Á. Đến thế kỷ 16, các linh mục và thương nhân Bồ Đào Nha mang thức uống này sang châu Âu.[9] Đến thế kỷ 17, uống trà trở thành trào lưu thời thượng của người Anh. Sau đó, họ mở rộng trồng trọt cây chè quy mô lớn tại Ấn Độ.
Cần lưu ý, "trà thảo mộc" dùng để chỉ các loại đồ uống không được làm từ cây chè (Camellia sinensis). Chúng thực chất là nước hãm từ trái cây, lá hoặc các bộ phận khác của thực vật, ví dụ như nụ tầm xuân, hoa cúc La Mã hoặc hồng trà Nam Phi (rooibos). Những loại đồ uống này còn được gọi là tisane hoặc nước hãm thảo mộc để tránh nhầm lẫn với loại trà được làm từ cây chè truyền thống.
Nguồn gốc và lịch sử
[sửa | sửa mã nguồn]Nguồn gốc cây trồng
[sửa | sửa mã nguồn]Cây chè là loài thực vật bản địa của Đông Á, với trung tâm khởi phát nhiều khả năng nằm gần thượng nguồn sông Irrawaddy. Từ khu vực này, loài cây đã lan tỏa về phía đông nam Trung Quốc, bán đảo Đông Dương và vùng Assam. Phạm vi phân bố tự nhiên của cây chè nằm trong một khu vực hình quạt tương đối nhỏ: phía tây dọc biên giới Myanmar qua các vùng Nagaland, Manipur và Mizoram; phía đông qua Trung Quốc đến tận tỉnh Chiết Giang; và phía nam qua các triền núi xuống Myanmar, Thái Lan và Việt Nam. Xét về toạ độ địa lý, trục Đông - Tây của vùng phân bố này dài khoảng 2.400 km, trải từ kinh độ 95° đến 120° Đông. Trục Bắc - Nam kéo dài khoảng 1.920 km, bắt đầu từ phía bắc Myanmar ở vĩ độ 29° Bắc, đi qua Vân Nam, Bắc Bộ (Việt Nam), Thái Lan, Lào và tiếp tục xuống phía nam đến vĩ độ 11° Bắc.[10]
Về mặt phân loại và nguồn gốc di truyền, giống trà lá nhỏ Trung Quốc (C. sinensis var. sinensis) có thể bắt nguồn từ miền nam Trung Quốc, nhiều khả năng là kết quả của quá trình lai tạo với các giống chè hoang dã chưa xác định. Do hiện nay không còn tìm thấy quần thể hoang dã nào của giống trà này, nguồn gốc chính xác của chúng vẫn chỉ là giả thuyết.[11][12]
Đối với giống trà Assam Trung Quốc (C. sinensis var. assamica), các khác biệt di truyền tạo thành những nhánh riêng biệt cho thấy chúng có thể mang hai nguồn gốc khác nhau: một dòng từ nam Vân Nam (Tây Song Bản Nạp, Phổ Nhĩ) và một dòng từ tây Vân Nam (Lâm Thương, Bảo Sơn). Nhiều loại trà Assam nam Vân Nam đã được lai tạo với loài cận huyết Camellia taliensis. Ngược lại, trà Assam tây Vân Nam lại chia sẻ nhiều điểm tương đồng về di truyền với giống trà Assam Ấn Độ (cũng thuộc C. sinensis var. assamica). Điều này gợi ý rằng trà Assam tây Vân Nam và trà Assam Ấn Độ có thể cùng xuất phát từ một cây mẹ tại khu vực tiếp giáp giữa tây nam Trung Quốc, Ấn Độ - Myanmar và Tây Tạng. Tuy nhiên, do trà Assam Ấn Độ không chia sẻ kiểu gen đơn bội (haplotypes) với trà Assam tây Vân Nam, nhiều khả năng trà Assam Ấn Độ đã được thuần hóa một cách độc lập. Một số giống trà Assam Ấn Độ còn cho thấy dấu hiệu lai với loài Camellia pubicosta.[11][12]
Nếu giả định mỗi thế hệ kéo dài 12 năm, các ước tính cho thấy trà lá nhỏ Trung Quốc đã phân tách khỏi trà Assam vào khoảng 22.000 năm trước, tương ứng với thời kỳ Cực đại Băng hà cuối cùng. Trong khi đó, sự phân tách giữa trà Assam Trung Quốc và trà Assam Ấn Độ diễn ra muộn hơn, cách đây khoảng 2.800 năm.[13][14]
Ghi chép sớm nhất
[sửa | sửa mã nguồn]
Cư dân Đông Á cổ đại đã sử dụng trà như một loại thực phẩm trong nhiều thế kỷ, thậm chí có thể là hàng thiên niên kỷ, trước khi chuyển sang dùng như một loại thức uống. Họ thường nhai lá trà sống, thêm vào các món canh, rau, hoặc ủ men để nhai tương tự như tục ăn trầu.[16]
Tục uống trà có thể đã khởi nguồn tại vùng Vân Nam, nơi trà ban đầu được dùng cho mục đích dược liệu. Tại Tứ Xuyên, người ta tin rằng "Từ thuở ấy, trà được chắt lấy tinh hoa, nước cốt đậm đà giữ trọn hương vị, không pha lẫn thảo mộc. Trà trở thành thức uống tỉnh thần, vị đắng mà thanh, không còn chỉ là phương thuốc đơn thuần nữa".[17]
Truyền thuyết Hoa Hạ cho rằng Thần Nông (miền Trung và Bắc Trung Quốc) chính là vị thủy tổ phát minh ra trà, từ thuở năm 2737 trước Công nguyên, dù có chứng cứ cho thấy tục uống trà có lẽ từ vùng Tây Nam truyền sang.[18] Những ghi chép văn bản sớm nhất về trà đều xuất phát từ Trung Quốc. Chữ đồ (荼) xuất hiện trong Kinh Thi và các cổ thư khác dùng để chỉ một loại "khổ thái" (rau đắng); rất có thể từ này bao hàm nhiều loài thực vật khác nhau như rau diếp dại, rau cúc đắng, hay nghể, cũng như cây trà.[19] Sách Hoa Dương Quốc Chí chép rằng người nước Ba từng dâng trà lên Chu Vương. Sau khi Tần thôn tính Ba Thục, người phương Bắc mới bắt đầu biết thưởng trà. Cố Viêm Vũ trong Nhật Tri Lục từng nhận định: "Người Tần sau khi chiếm Thục mới biết uống trà."[2] Lại có ghi chép về việc tướng quân Lưu Côn thời Tần viết thư xin "chân trà", ấy cũng là một trong những dấu tích sớm của trà trong sử sách.[20]
Bằng chứng vật lý sớm nhất về trà[21] được phát hiện vào năm 2016 tại lăng mộ Hán Cảnh Đế ở Tây An, cho thấy trà thuộc chi Camellia đã được các hoàng đế triều Hán thưởng thức từ thế kỷ thứ 2 TCN.[22] Trước đó, trong sách Đồng Ước của Vương Bảo (năm 59 TCN) cũng đã ghi lại phương pháp nấu trà sớm nhất còn lưu trong sử sách.[23] Theo khế ước, tiểu đồng phụng sự có hai trọng trách: một là “châm trà mãn trà cụ”, hai là “mãi trà ư Vũ Dương”.[2] Giai đoạn này cũng ghi nhận canh tác trà sớm nhất, diễn ra tại Mông Sơn, cận kề Thành Đô.[24]
Trong tịch y thư của danh y Hoa Đà, ghi chép cổ truyền có niên đại thế kỷ thứ ba sau Công nguyên, chép rằng: "Thường ẩm khổ đồ, tư tứ minh sảng" (Thường uống trà đắng, tư duy thông suốt.).[25] Song, trước thời Đại Đường, trà đạo chủ yếu lưu hành tại Giang Nam, tập trung quanh vùng Kiến Khang.[26] Bấy giờ, vương công quý tộc Bắc triều thường xem khinh trà, coi đó là thứ thức uống quê mùa, thấp kém, không sánh bằng nê chưởng (sữa lên men) của người phương Bắc.[27][28]
Đến thời nhà Đường, trà mới thực thịnh hành, từ đó lan rộng sang Cao Ly, Nhật Bản cùng An Nam. Vào thế kỷ thứ tám, Lục Vũ soạn bộ Trà Kinh, chuyên luận về trà đạo và nghệ thuật chế trà. Cũng trong tác phẩm này, chữ "trà" (茶) hiện đại lần đầu xuất hiện, được giản hóa từ chữ "đồ" (荼) cổ.[29] Lục Vũ từ đó được tôn làm "Trà thánh", ảnh hưởng sâu rộng đến văn hóa ẩm trà của hậu thế.[30]
Phát triển
[sửa | sửa mã nguồn]
Trải qua nhiều triều đại, nghệ thuật chế biến và hình thái của trà cũng không ngừng biến đổi. Dưới thời Hán và Lục triều, trà thường được hấp, giã nhuyễn, ép thành bánh, sấy nhẹ lửa rồi phơi gió. Khi dùng, người ta bẻ miếng bánh trà đun sôi, pha thêm vỏ quýt, táo tàu, bạc hà, gừng hoặc hành lá để tăng hương vị.[31] Đến thời Đường, trà dạng bánh vẫn thịnh hành nhưng kỹ thuật đã dần thay đổi.[32] Sang thời Tống, trà lá rời (tán trà) bắt đầu xuất hiện và được ưa chuộng. Từ đời Nguyên, Minh, kỹ thuật chao xao, vò, phơi đã giữ được sắc xanh cho lá trà, ngăn chặn quá trình oxy hóa làm trà đổi màu thâm sẫm. Sang thế kỷ 15, trà Ô Long được sáng chế bằng cách để lá héo úa (ôxy hóa) một phần trước khi sao, tạo nên hương vị đặc trưng.[26]
Trong khi đó, khẩu vị phương Tây lại chuộng trà đen (hồng trà), loại trà được oxy hóa hoàn toàn. Còn hoàng trà là một phát hiện tình cờ dưới thời Minh, khi những lá trà xanh để sót lên men nhẹ, chuyển màu vàng và cho ra hương vị độc đáo riêng biệt.[33]
Lan rộng ra toàn cầu
[sửa | sửa mã nguồn]Vào thế kỷ 16, các giáo sĩ và thương nhân phương Tây đến Trung Hoa lần đầu được biết đến trà, gọi theo âm Hán là chá.[34] Ghi chép sớm nhất về trà trong văn liệu châu Âu xuất hiện năm 1545, trong tác phẩm Delle navigationi e viaggi của người Venezia là Ramusio, với từ chiai để chỉ trà.[35] Năm 1607, Công ty Đông Ấn Hà Lan vận chuyển chuyến hàng trà đầu tiên từ Ma Cao đến Java. Hai năm sau, họ mua lô trà từ Hirado (Nhật Bản) chuyển về châu Âu.[36] Từ Hà Lan, trà nhanh chóng trở thành thức uống thời thượng, rồi được lan tỏa sang Đức, Pháp và vùng Tân Amsterdam (nay là New York, Mỹ).[37]

Năm 1567, người Nga lần đầu tiếp xúc với trà qua chuyến thăm Trung Hoa của hai nhà thám hiểm người Cossack là Petrov and Yalyshev.[38] Năm 1638, Sa hoàng Mikhail I được tặng 65–70 kg trà từ một vị Hãn Mông Cổ.[39] Tương truyền, vào khoảng năm 1636, sứ thần Starkov của Nga được Altyn Khan tặng 250 pound trà, dù ban đầu ông đã từ chối vì không hiểu giá trị của "thứ lá khô" này, nhưng về sau trà đã chính thức được du nhập vào nước Nga. Đến năm 1679, Nga ký hiệp định thường kỳ nhập trà từ Trung Quốc bằng đoàn lạc đà, đổi lấy lông thú. Từ đó, trà dần trở thành thức uống mang tính biểu tượng của đất nước này.
Trà xuất hiện lần đầu trong văn thư tiếng Anh qua thư tín của Richard Wickham, chủ một thương điếm Đông Ấn tại Nhật, vào năm 1615, khi ông gửi lời nhờ mua "loại chaw (trà) thượng hạng" từ một thương nhân ở Ma Cao. Đến năm 1637, thương nhân kiêm nhà du hành Peter Mundy khi đến Phúc Kiến đã mô tả trà là: "chaa – chỉ là nước với một thứ cỏ đun sôi".[40][41]
Ở Luân Đôn, trà bắt đầu được bán trong tiệm cà phê từ năm 1657. Samuel Pepys nếm thử trà năm 1660, và khi Catherine xứ Braganza kết hôn với Quốc vương Charles II năm 1662, bà đã mang thói quen thưởng trà vào hoàng cung Anh. Tuy vậy, mãi đến thế kỷ 18, trà mới thực sự phổ biến tại quần đảo Anh và vẫn là thức uốnɡ xa xỉ tại đây cho đến cuối thế kỷ. Người Anh ưa thêm đường và sữa vào hồng trà, và đến thập niên 1720, hồng trà đã vượt qua lục trà về mức độ ưa chuộng.[42]
Việc buôn lậu trà trong thế kỷ 18 đã giúp công chúng có thể tiếp cận trà với giá phải chăng hơn.. Đến năm 1785, triều đình Anh Quốc bãi bỏ thuế trà, chấm dứt hoạt động buôn lậu. Ban đầu, tại Anh và Ireland, trà chỉ xuất hiện trong những dịp quan trọng như lễ hội, tang lễ hay hội họp gia đình. Sang thế kỷ 19, giá trà hạ dần, nhất là khi trà Ấn Độ ồ ạt nhập khẩu; đến cuối thế kỷ, trà đã trở thành thức uống thường nhật của mọi giai tầng xã hội.[43]

Sự hưng thịnh của trà còn ghi dấu ấn trong nhiều sự kiện trọng đại: Đạo luật Trà năm 1773 châm ngòi Sự kiện Tiệc trà Boston, dẫn đến Cách mạng Hoa Kỳ. Gánh nặng thâm hụt thương mại từ nhập khẩu trà cũng đưa Anh đến Chiến tranh Nha phiến với nhà Thanh. Trước đó, Hoàng đế Khang Hi đã ban chiếu chỉ cấm ngoại hóa, năm 1685 quy định mọi giao dịch với Trung Hoa phải thanh toán bằng bạc.[44] Để cân bằng thương mại, thương nhân phương Tây tìm đến thuốc phiện – thứ hàng hóa có thể đổi lấy bạc để mua trà và các sản vật phương Đông.
Vào năm 1836, người Anh vì muốn phá thế độc tôn về trà của Trung Nguyên, bèn đem giống trà lá nhỏ vào gieo trồng tại đất Ấn Độ.[45] Năm 1841, Archibald Campbell mang hạt giống trà từ vùng Kumaun về thử nghiệm trồng tại Darjeeling. Đến năm 1856, vườn trà Alubari được khai trương, đánh dấu sự ra đời của danh trà Darjeeling nức tiếng về sau.[46] Năm 1848, Robert Fortune vâng mệnh Công ty Đông Ấn, lặng lẽ sang Trung Hoa trong khoảng lặng giữa hai cuộc Chiến tranh Nha phiến, với sứ mệnh bí mật đưa cây trà về Anh quốc.[47] Những cây trà Trung Hoa ấy sau được đem lên trồng ở vùng Hi Mã Lạp Sơn, song vì thủy thổ không hợp, phần lớn đều khô héo mà chết. May thay, người Anh lại tìm được một giống trà bản địa tại Assam và vùng Đông Bắc Ấn, bèn đem lai ghép với giống trà lá nhỏ của Trung Hoa. Lại học theo kỹ nghệ canh tác của người Hoa, chính quyền thực dân Anh lúc bấy giờ ban đất tại Assam cho bất cứ người Âu châu nào cam kết trồng trà để xuất khẩu, khiến ngành trà Ấn Độ từ đó mà hưng thịnh.[48] Ban đầu, trà chỉ là thức uống riêng của giới Anh-Ấn quyền quý. Nhưng đến thập niên 1950, nhờ chiến dịch quảng bá hiệu quả của Hội đồng Trà Ấn Độ, trà thực sự trở thành thức uống thân thuộc khắp xứ Ấn. Năm 1867, nghề trà cũng theo chân người Anh mà truyền đến xứ Tích Lan (Sri Lanka ngày nay).[49]
Trồng và thu hoạch
[sửa | sửa mã nguồn]Camellia sinensis là loài thực vật thường xanh mọc chủ yếu trong các vùng khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới.[50] Nhiều giống cũng có thể thích nghi với khí hậu biển và được trồng đến tận phía bắc như Pembrokeshire ở Đảo Anh lục địa[51] và Washington ở Hoa Kỳ.[52]


Cây trà được nhân giống từ hạt và cắt; nó mất khoảng 4 đến 12 năm để cây ra hạt giống, và khoảng 3 năm trước khi một cây mới sẵn sàng cho thu hoạch.[50] Ngoài khu 8 hay vùng khí hậu ấm hơn, cây trà cần ít nhất 1270 mm lượng mưa mỗi năm và môi trường đất chua.[53] Nhiều cây trà chất lượng cao được trồng ở những độ cao lên đến 1.500 m (4.900 ft) so với mực nước biển. Ở độ cao này, cây phát triển chậm hơn, chúng cho ra mùi vị đặc biệt hơn.[54]
Tùy vào tình trạng thu hái phần búp mà người ta có thể làm ra các loại trà với mùi vị khác nhau như trà búp (1 tôm 2 lá), trà tôm nõn (1 tôm 1 lá), trà lộc đỉnh (nõn chè nguyên chất) và trà đinh ngọc (chồi non tinh khiết)[55]
Hai giống thường được trồng là Camellia sinensis var. sinensis, được dùng làm trà ở Trung Quốc, Đài Loan và Nhật Bản, và giống Camellia sinensis var. assamica, được dùng trong Pu-erh và trà Ấn Độ (không phải Darjeeling). Trong các giống thực vật này, có nhiều chủng và giống vô tính hiện đại. Kích thước lá là tiêu chuẩn chính trong việc phân loại cây trà, với 3 cách phân loại cơ bản là,[56] Assam, đặc trưng bởi lá lớn nhất; trà Trung Quốc, đặc trưng bởi lá nhỏ nhất; trà Campuchia, đặc trưng bởi lá có kích thước trung bình.
Cây chè lớn cao đến 16 m (52 ft) nếu không bị tác động,[50] nhưng các loại cây trồng thường được tỉa cành để độ cao của chúng ngang với thắt lưng nhằm để tuốt (thu hoạch). Do vậy, khi tỉa thường xuyên và thân thấp thì có nhiều chồi non và làm tăng chất lượng trà.[57] Chỉ có 1-2 inch phần lá trên cùng của cây được chọn để hái.[58] Một cây trưởng thành cho lá trong vòng 7 đến 15 ngày trong mùa phát triển.
Nhiều loại trà được phân loại dựa theo từng lứa hái riêng biệt. Chẳng hạn, trà Darjeeling được chia thành trà lứa đầu (loại này thường có giá rất cao), lứa hai, lứa mùa mưa và lứa mùa thu. Riêng với trà Assam, lứa hái thứ hai – hay còn gọi là trà "tippy" (tức trà nhiều búp) – lại được xếp vào hàng thượng hạng, vượt trội hơn lứa đầu nhờ những búp non màu vàng óng xuất hiện trên lá.
Về mặt canh tác, cây chè có thể bị tấn công bởi nhiều loại dịch hại, trong đó có bọ xít muỗi thuộc chi Helopeltis. Cần lưu ý đây là loài thuộc bộ Cánh nửa (true bugs), không nên nhầm lẫn với các côn trùng bộ Hai cánh thuộc họ Culicidae (loài muỗi thông thường). Bọ xít muỗi gây hại cho lá chè thông qua cả việc chích hút nhựa cây lẫn đẻ trứng vào bên trong mô thực vật; trong trường hợp này, việc phun thuốc trừ sâu tổng hợp có thể được xem là biện pháp xử lý phù hợp.[59] Ngoài ra, các loài sâu ăn lá thuộc bộ Cánh vẩy (Lepidoptera) và nhiều loại bệnh hại khác cũng là những đe dọa đối với sự phát triển của cây chè.
Thành phần hóa học
[sửa | sửa mã nguồn]Về mặt vật lý, trà mang đặc tính của cả dung dịch lẫn huyền phù. Nó là dung dịch chứa các hợp chất tan trong nước được chiết xuất từ lá trà, tiêu biểu là các nhóm polyphenol và axit amin.[60]
Caffeine chiếm khoảng 3% trọng lượng khô của trà; hàm lượng này tương đương 30 đến 90 miligam trong mỗi tách 250 ml, tùy thuộc vào chủng loại, thương hiệu[61] và phương pháp pha chế.[62] Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng hàm lượng caffeine trong một gam trà đen dao động từ 22 đến 28 mg, trong khi ở trà xanh là từ 11 đến 20 mg.[63] Ngoài ra, trà còn chứa một lượng nhỏ theobromine và theophylline, vốn là các hợp chất thuộc nhóm xanthine có tác dụng kích thích tương tự như caffeine.[64]
Vị chát đặc trưng của trà chủ yếu do sự hiện diện của các polyphenol. Đây là nhóm hợp chất dồi dào nhất trong lá trà, chiếm tới 30–40% thành phần cấu tạo.[65] Polyphenols in tea include flavonoids, epigallocatechin gallate (EGCG), and other catechins.[66][67] Các polyphenol trong trà bao gồm flavonoid, epigallocatechin gallate (EGCG) và nhiều loại catechin khác.[68][69] Mặc dù đã có các nghiên cứu lâm sàng sơ bộ về khả năng phòng ngừa bệnh tật của trà xanh và trà đen, hiện vẫn chưa có bằng chứng xác thực nào khẳng định polyphenol trong trà có tác dụng trực tiếp đối với sức khỏe hay giúp làm giảm nguy cơ mắc bệnh ở người.[70][71]
Lợi ích sức khỏe
[sửa | sửa mã nguồn]Mặc dù trong suốt lịch sử tiêu thụ Camellia sinensis, con người luôn tin rằng thức uống này mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe, song hiện không có bằng chứng chất lượng cao nào xác nhận việc uống trà đem lại những lợi ích đáng kể, ngoại trừ khả năng gia tăng sự tỉnh táo nhờ hàm lượng caffeine trong lá.[72][73] Các nghiên cứu lâm sàng được thực hiện vào đầu thế kỷ 21 cũng khẳng định chưa có bằng chứng khoa học nào chỉ ra rằng việc tiêu thụ trà có tác động điều trị đối với bất kỳ loại bệnh nào hay giúp cải thiện sức khỏe tổng thể.[74]
Về mặt dinh dưỡng, trà đen và trà xanh hầu như không chứa các dưỡng chất thiết yếu với hàm lượng đáng kể, ngoại trừ khoáng chất mangan. Một tách trà cung cấp khoảng 0,5 mg mangan.[75] Bên cạnh đó, florua đôi khi cũng xuất hiện trong trà. Đặc biệt, một số loại "trà bánh" (brick tea) được làm từ lá già và cành cây thường chứa hàm lượng florua cao, đủ để gây rủi ro cho sức khỏe nếu tiêu thụ quá nhiều.[76]
Sản xuất
[sửa | sửa mã nguồn]| Quốc gia | Sản lượng chè năm 2022 (triệu tấn) |
|---|---|
| 14.53 | |
| 5.97 | |
| 2.33 | |
| 1.40 | |
| 1.30 | |
| 1.12 | |
| 0.60 | |
| 0.44 | |
| 0.36 | |
| 0.33 | |
| Thế giới | 29.76 |
| Nguồn: (FAO)[77] | |
Hoạt động canh tác chè phân bố chủ yếu tại khu vực Châu Á và Châu Phi, bên cạnh các vùng trồng trọt quy mô nhỏ hơn ở Nam Mỹ và khu vực quanh Biển Đen, Biển Caspi. Bốn cường quốc sản xuất chè hàng đầu—bao gồm Trung Quốc, Ấn Độ, Kenya và Sri Lanka—chiếm tổng cộng 81% sản lượng toàn cầu. Ngoài ra, hoạt động sản xuất quy mô nhỏ còn hiện diện tại các địa phương như đảo São Miguel (thuộc quần đảo Azores, Bồ Đào Nha) hay vùng Guria (Georgia).
Năm 2022, tổng sản lượng chè thế giới đạt 29,8 triệu tấn, trong đó Trung Quốc dẫn đầu với 49% và Ấn Độ chiếm 20% thị phần. Các quốc gia sản xuất chè đáng chú ý khác bao gồm Kenya, Sri Lanka và Thổ Nhĩ Kỳ.[78]
Bảo quản
[sửa | sửa mã nguồn]Điều kiện lưu trữ là yếu tố quyết định thời hạn sử dụng của trà; trong đó, trà đen có khả năng bảo quản lâu hơn trà xanh. Một số loại đặc thù như trà hoa có thể chỉ duy trì chất lượng trong khoảng một tháng, trong khi các loại khác như trà phổ nhĩ (pu-erh) lại gia tăng phẩm chất theo thời gian lưu trữ. Để đảm bảo độ tươi và ngăn ngừa nấm mốc, trà cần được bảo quản cách ly khỏi nhiệt độ cao, ánh sáng, không khí và độ ẩm.
Quy chuẩn bảo quản yêu cầu trà phải được giữ ở nhiệt độ phòng trong vật chứa kín khí. Trà đen, nếu được đóng gói trong túi và đặt trong hộp kín cản quang, có thể lưu trữ tới hai năm. Ngược lại, trà xanh dễ bị biến chất nhanh hơn, thường có tuổi thọ dưới một năm. Các loại trà có kết cấu lá cuộn chặt (như trà Gunpowder) sẽ giữ được lâu hơn so với loại trà có cánh lá mở (như trà Chun Mee).
Thời hạn bảo quản của tất cả các loại trà có thể được kéo dài thông qua việc sử dụng tác nhân hút ẩm, gói hút oxy, đóng gói chân không hoặc bảo quản lạnh trong hộp kín khí (riêng đối với trà xanh, việc làm lạnh hoặc đông lạnh cần được thực hiện cẩn trọng nhằm giảm thiểu sự biến động nhiệt độ).[79]
Chế biến và phân loại
[sửa | sửa mã nguồn]Trà được phân loại dựa trên quy trình chế biến.[80] Có ít nhất sáu loại trà chính được sản xuất:
- Bạch trà (Trà trắng): Đã qua làm héo và không bị oxy hóa;
- Hoàng trà (Trà vàng): Không làm héo, không oxy hóa nhưng được ủ để chuyển vàng;
- Lục trà (Trà xanh): Không làm héo và không bị oxy hóa;
- Trà Ô long: Đã qua làm héo, làm dập và oxy hóa một phần;
- Hồng trà (Trà đen): Đã qua làm héo, đôi khi được nghiền nát và oxy hóa hoàn toàn (trong văn hóa trà Trung Hoa và các nước Đông Á khác, loại này được gọi là hồng trà [hóngchá], tức "trà đỏ");
- Hắc trà (trà lên men): Là loại trà xanh đã trải qua quá trình lên men/ủ (được gọi là Trà Phổ Nhĩ nếu xuất xứ từ vùng Vân Nam, Tây Nam Trung Quốc, hoặc gọi là Hắc trà [hēichá] - tức "trà đen" theo cách phân loại trong văn hóa trà Trung Hoa).
Sau khi thu hoạch, lá của cây C. sinensis sẽ nhanh chóng bắt đầu héo và oxy hóa nếu không được làm khô ngay lập tức. Quá trình oxy hóa enzyme được kích hoạt bởi các enzyme nội bào của thực vật, khiến lá trà dần chuyển sang màu sẫm hơn do sự phân hủy của chất diệp lục và sự giải phóng tanin. Quá trình sẫm màu này được ngăn chặn tại một giai đoạn định trước thông qua phương pháp gia nhiệt, nhằm bất hoạt các enzyme xúc tác. Trong quy trình sản xuất trà đen, việc hãm oxy hóa bằng nhiệt được thực hiện đồng thời với công đoạn sấy khô. Nếu không kiểm soát chặt chẽ độ ẩm và nhiệt độ trong quá trình chế biến và đóng gói, sự phát triển của các loại nấm mốc và vi khuẩn gây hại có thể khiến trà không còn an toàn để tiêu thụ.
Phối trộn và phụ gia
[sửa | sửa mã nguồn]
Sau công đoạn chế biến cơ bản, trà có thể trải qua các bước xử lý bổ sung trước khi được đem bán.[81] Ngoài ra, khi tiêu thụ, người dùng thường kết hợp lá trà cơ bản và nước với các thành phần khác trong quá trình pha chế hoặc thưởng thức. Các ví dụ điển hình về quy trình xử lý bổ sung trước khi bán bao gồm: phối trộn (blending), tạo hương (flavouring), ướp hương (scenting) và tách caffeine. Trong khi đó, các thành phần thường được thêm vào tại thời điểm tiêu thụ bao gồm sữa, đường và chanh.
Phối trộn trà là quá trình kết hợp các loại trà khác nhau để tạo ra thành phẩm cuối cùng. Quá trình này có thể kết hợp các mẻ trà từ cùng một vùng canh tác hoặc từ nhiều vùng địa lý khác nhau. Mục đích của việc phối trộn là nhằm đạt được sự đồng nhất về chất lượng, cải thiện hương vị, nâng cao giá trị thương mại, hoặc kết hợp cả ba yếu tố trên.
Trà tạo hương và trà ướp hương là các dạng cải biến nhằm gia tăng đặc tính của trà nền. Việc này có thể được thực hiện bằng cách bổ sung trực tiếp các tác nhân tạo hương, chẳng hạn như gừng, đinh hương, lá bạc hà, bạch đậu khấu, cam bergamot (thành phần chính trong trà Earl Grey), vani và bạc hà lục (spearmint). Ngoài ra, do trà có đặc tính dễ lưu giữ mùi, người sản xuất có thể đặt trà tiếp xúc gần với các nguyên liệu tỏa hương để lá trà hấp thụ hương thơm đó, tương tự như quy trình sản xuất trà nhài truyền thống.[82]
Việc thêm sữa vào trà tại Châu Âu được ghi nhận lần đầu tiên vào năm 1680 bởi nữ văn sĩ Madame de Sévigné.[83] Tại các nền văn hóa có thói quen tiêu thụ chế phẩm từ sữa, nhiều loại trà thường được thưởng thức cùng với sữa theo phương thức truyền thống. Các ví dụ điển hình bao gồm trà Masala Chai của Ấn Độ và các loại trà phối trộn kiểu Anh. Đây thường là những giống trà đen có hương vị đậm đà, đủ mạnh để hương vị trà vẫn rõ nét khi pha cùng sữa, chẳng hạn như trà Assam hay trà phối trộn Đông Friesian. Sữa được cho là có khả năng trung hòa lượng tanin dư thừa và làm giảm độ axit trong trà.[84][85]
Người Hán thường không có tập quán uống trà với sữa, tuy nhiên người Mãn Châu lại duy trì thói quen này, và tầng lớp thượng lưu của triều đại nhà Thanh (Đế quốc Trung Hoa) cũng tiếp nối tập tục đó. Trà sữa kiểu Hồng Kông có nguồn gốc từ thói quen uống trà của người Anh. Người Tạng và các dân tộc khác tại vùng Himalaya có truyền thống uống trà pha với sữa hoặc bơ bò yak (bò Tây Tạng) và muối.
Tại các quốc gia Đông Âu, cũng như ở Nga và Ý, trà thường được phục vụ kèm với nước cốt chanh. Ở Ba Lan, trà truyền thống được dùng kèm một lát chanh và làm ngọt bằng đường hoặc mật ong; món trà pha sữa tại đây được gọi là bawarka ("kiểu Bavaria") trong tiếng Ba Lan và rất phổ biến.[86] Tại Úc, trà pha sữa được gọi là "white tea" (trà trắng).
Trình tự các bước pha chế một tách trà là chủ đề gây nhiều tranh luận và có sự khác biệt lớn tùy thuộc vào văn hóa cũng như sở thích cá nhân. Một số quan điểm cho rằng nên đổ sữa vào tách trước khi rót trà, bởi nhiệt độ cao của trà mới hãm có thể làm biến tính protein trong sữa tươi—tương tự như sự thay đổi hương vị ở sữa tiệt trùng UHT—dẫn đến việc thức uống bị giảm sút chất lượng hương vị.[87] Ngược lại, những người khác quả quyết rằng nên thêm sữa vào sau khi đã rót trà, vì trà đen thường cần được hãm ở nhiệt độ gần sôi nhất có thể. Việc thêm sữa trước sẽ làm giảm nhiệt độ thức uống ngay trong giai đoạn hãm trà quan trọng (nếu pha trực tiếp trong tách thay vì dùng ấm), khiến hương vị tinh tế của loại trà ngon không thể bộc lộ hoàn toàn. Bằng cách thêm sữa sau cùng, việc hòa tan đường trong trà sẽ dễ dàng hơn, đồng thời đảm bảo lượng sữa thêm vào vừa đủ thông qua việc quan sát màu sắc của trà.[88] Về mặt lịch sử, trình tự pha trà từng được xem là dấu hiệu phân định giai cấp: chỉ những người giàu có, đủ khả năng sở hữu đồ sứ chất lượng cao, mới tự tin rằng tách trà của họ chịu được nước sôi đổ trực tiếp mà không cần lót trước một lớp sữa để giảm nhiệt.[89] Xét về vật lý, chênh lệch nhiệt độ càng cao thì quá trình truyền nhiệt diễn ra càng nhanh, do đó, sữa được thêm vào càng sớm thì thức uống sẽ càng lâu nguội. Một nghiên cứu năm 2007 công bố trên tạp chí European Heart Journal (Tạp chí Tim mạch Châu Âu) đã phát hiện rằng một số tác dụng có lợi của trà có thể bị mất đi khi pha thêm sữa.[90]
Đóng gói
[sửa | sửa mã nguồn]Trà túi lọc
[sửa | sửa mã nguồn] Bài chi tiết: Trà túi lọc
Năm 1907, thương nhân trà người Mỹ Thomas Sullivan bắt đầu phân phối các mẫu thử trà đựng trong những túi lụa nhỏ có dây rút. Người tiêu dùng nhận thấy họ có thể đơn giản để nguyên trà trong túi và tái sử dụng chiếc túi này cho những lần thay trà mới. Tuy nhiên, tiềm năng của phương thức phân phối và đóng gói này đã không được nhận thức đầy đủ mãi cho đến giai đoạn sau.
Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, trà là mặt hàng bị phân phối theo định mức tại Vương quốc Anh. Năm 1953, sau khi chế độ phân phối tem phiếu tại Anh kết thúc, nhà sản xuất trà Tetley (trụ sở tại Yorkshire) đã tung ra sản phẩm trà túi lọc tại thị trường này và ngay lập tức gặt hái thành công vang dội.
Loại "túi trà kim tự tháp" (hay gói sachet), được Lipton[91]và PG Tips/Scottish Blend giới thiệu vào năm 1996,[92] là nỗ lực nhằm giải quyết một trong những luận điểm phản đối của giới sành trà đối với túi lọc giấy thông thường. Với hình dáng khối tứ diện ba chiều, loại túi này tạo ra không gian rộng hơn, cho phép lá trà nở ra tối đa trong quá trình hãm.[93] Tuy nhiên, một số loại túi trà kim tự tháp đã vấp phải chỉ trích vì thiếu thân thiện với môi trường, do vật liệu tổng hợp cấu thành chúng không có khả năng phân hủy sinh học tốt như lá trà rời hay túi lọc giấy truyền thống.[94]
Trà rời
[sửa | sửa mã nguồn]
Lá trà được đóng gói rời trong hộp thiếc, túi giấy hoặc các vật chứa khác như rương đựng trà. Một số loại trà nguyên lá, chẳng hạn như lá trà Gunpowder cuộn tròn với đặc tính khó vỡ vụn, thường được đóng gói hút chân không trong bao bì tráng nhôm để giữ độ tươi trong quá trình lưu kho và bán lẻ.
Trà rời được đong đếm riêng cho từng lần sử dụng, cho phép sự linh hoạt và khả năng kiểm soát hương vị tối ưu, dù phải đánh đổi bằng sự tiện lợi so với trà túi lọc. Các dụng cụ như rây lọc, quả cầu lọc trà, bình ép trà, ấm pha trà có lưới lọc và túi vải lọc giúp ngăn lá trà trôi nổi trong nước và hạn chế tình trạng hãm quá lâu (over-brewing). Một phương pháp truyền thống sử dụng loại tách trà có nắp gồm ba phần gọi là gaiwan (bát trản), trong đó nắp được giữ nghiêng để chắt nước trà sang một tách khác khi thưởng thức.
Trà nén
[sửa | sửa mã nguồn]
Trà gạch (tea bricks) hay trà nén là sản phẩm được tạo ra nhằm tối ưu hóa sự thuận tiện trong vận chuyển, lưu kho và quá trình ủ (lão hóa). So với trà lá rời, loại trà này thường có thời hạn bảo quản lâu hơn mà không bị hư hỏng. Để pha chế, người dùng sử dụng dao nhỏ để tách lá trà ra khỏi bánh trà, sau đó hãm phần trà vừa tách trong nước.
Dưới thời nhà Đường, theo mô tả của Lục Vũ (Lu Yu), trà nén được nghiền thành bột mịn, hòa với nước nóng và múc ra bát, tạo thành một hỗn hợp "sủi bọt".[95] Đến thời nhà Tống, phương pháp pha chế thay đổi: bột trà được đánh trực tiếp với nước nóng ngay trong bát. Mặc dù phương pháp đánh trà bột này không còn được thực hành tại Trung Quốc ngày nay, nó đã được các thiền sư du nhập vào Nhật Bản và hiện vẫn được áp dụng để pha chế matcha (mạt trà) trong nghi thức Trà đạo Nhật Bản.[96] Ngày nay, trà Phổ Nhĩ của Trung Quốc thường được phân phối dưới dạng nén này, và một số loại trà khác đôi khi cũng áp dụng quy cách tương tự.
Trà nén từng là hình thức phổ biến nhất của trà tại Trung Quốc dưới triều đại nhà Đường.[97] Tuy nhiên, đến đầu thời nhà Minh, loại hình này đã bị trà lá rời thay thế.[98] Mặc dù vậy, trà nén vẫn duy trì sự phổ biến tại các quốc gia vùng Himalaya và trên các thảo nguyên Mông Cổ. Tại Mông Cổ, trà nén từng phổ biến đến mức chúng được sử dụng như một hình thức tiền tệ. Đối với các dân tộc vùng Himalaya, trà nén được tiêu thụ bằng cách pha trộn với bơ làm từ sữa bò yak và muối để tạo thành món trà bơ đặc trưng.[99]
Trà hòa tan
[sửa | sửa mã nguồn]Trà hòa tan —với những đặc tính tương đồng với cà phê hòa tan sấy thăng hoa (freeze-dried)—được xem là giải pháp thay thế cho trà pha hãm truyền thống và có thể được thưởng thức ở cả dạng nóng hoặc lạnh. Công nghệ này được phát triển từ thập niên 1930;tập đoàn Nestlé đã giới thiệu sản phẩm thương mại đầu tiên vào năm 1946, và đến năm 1953, thương hiệu Redi-Tea đã cho ra mắt dòng trà đá hòa tan. Các loại phụ gia hương liệu như chai (hỗn hợp gia vị), vani, mật ong hoặc trái cây được sử dụng rất phổ biến trong trà hòa tan, tương tự như sữa bột.
Trà đóng chai và trà đóng lon
[sửa | sửa mã nguồn]Trà đóng lon là dạng thương phẩm được pha chế sẵn để uống liền (ready-to-drink). Hình thức sản phẩm này được giới thiệu lần đầu tại Nhật Bản vào năm 1981. Tuy nhiên, sản phẩm trà đóng chai đầu tiên đã xuất hiện từ năm 1969, do công ty trà PT. Sinar Sosro của Indonesia ra mắt dưới thương hiệu Teh Botol Sosro (tức Trà đóng chai Sosro).[100] Đến năm 1983, Bischofszell Food Ltd.—một doanh nghiệp có trụ sở tại Thụy Sĩ—đã trở thành đơn vị tiên phong trong việc thực hiện quy trình đóng chai trà đá trên quy mô công nghiệp.[101]
Văn hóa trà
[sửa | sửa mã nguồn] Xem thêm: Trà đạo, Trà đạo Nhật Bản, và Trà Việt NamTrong nhiều nền văn hóa, trà được thưởng thức tại các sự kiện xã hội mang tính nghi thức cao, điển hình như các buổi tiệc trà. Các nghi lễ trà đạo đã hình thành và phát triển trong nhiều nền văn hóa khác nhau, tiêu biểu là truyền thống Trung Hoa và Nhật Bản. Mỗi truyền thống đều áp dụng những kỹ thuật cụ thể cùng các quy tắc lễ nghi nghiêm ngặt trong khâu pha chế và dâng trà, nhằm phục vụ việc thưởng thức trà trong một không gian tinh tế. Một hình thức trà lễ nổi bật của Trung Quốc là Trà Công phu (Gongfu tea), với đặc trưng sử dụng các loại ấm tử sa Nghi Hưng cỡ nhỏ và trà ô long.

Tại Anh Quốc, 63% dân số có thói quen uống trà hàng ngày.[102]Theo tập quán, chủ nhà thường mời trà ngay khi khách vừa đến. Trà được tiêu thụ cả tại gia đình lẫn bên ngoài, thường là tại các quán cà phê hoặc phòng trà. Hình ảnh những buổi trà chiều với bánh ngọt được bày biện trên đồ sứ tinh xảo đã trở thành một nét văn hóa đặc trưng của người Anh). Tại vùng tây nam nước Anh, nhiều quán cà phê phục vụ món cream tea (trà kem), bao gồm bánh nướng (scones), kem đông (clotted cream) và mứt, dùng kèm với một ấm trà.

Tính đến năm 2016, Ireland là quốc gia có mức tiêu thụ trà bình quân đầu người lớn thứ hai thế giới, chỉ sau Thổ Nhĩ Kỳ.[103] Các loại trà phối trộn nội địa rất được ưa chuộng tại Ireland, bao gồm trà Buổi sáng Ireland (Irish breakfast tea), được phối từ trà Rwanda, Kenya và Assam. Mức tiêu thụ trà trung bình hàng năm tại quốc gia này dao động từ 2,7 kg đến 4 kg mỗi người. Tại Ireland, trà thường được dùng kèm với sữa hoặc đường và được hãm lâu hơn để có hương vị đậm đà.[104]
Trà Thổ Nhĩ Kỳ đóng vai trò quan trọng trong nền ẩm thực quốc gia và là thức uống nóng phổ biến nhất, bất chấp lịch sử lâu đời gắn liền với cà phê của nước này. Năm 2004, Thổ Nhĩ Kỳ sản xuất 205.500 tấn trà (chiếm 6,4% tổng sản lượng toàn cầu), đưa nước này trở thành một trong những thị trường trà lớn nhất thế giới,[105]với 120.000 tấn tiêu thụ nội địa và phần còn lại dành cho xuất khẩu.[106] Năm 2010, Thổ Nhĩ Kỳ ghi nhận mức tiêu thụ trà bình quân đầu người cao nhất thế giới, đạt 2,7 kg.[107]Tính đến năm 2013, mức tiêu thụ trà bình quân đầu người của Thổ Nhĩ Kỳ đã vượt quá 10 tách mỗi ngày và đạt 13,8 kg cả năm.[108] Tại đây, trà được canh tác chủ yếu ở tỉnh Rize, nằm bên bờ Biển Đen.
Nước Nga sở hữu một bề dày lịch sử lâu đời và phong phú về trà, khởi nguồn từ năm 1638 khi thức uống này lần đầu tiên được dâng lên Sa hoàng Michael. Các buổi họp mặt xã giao sẽ bị xem là khiếm khuyết nếu thiếu vắng trà, theo truyền thống trà ở Nga được pha chế trong những chiếc bình samovar đặc trưng.
Tại Pakistan, cả trà đen và trà xanh đều rất thịnh hành, với tên gọi địa phương lần lượt là sabz chai và kahwah. Loại trà xanh phổ biến thường được dùng sau mỗi bữa ăn tại vùng Balochistan và tỉnh Khyber Pakhtunkhwa. Tại miền trung và miền nam Punjab cũng như vùng đô thị Sindh, loại trà pha sữa và đường (đôi khi bổ sung hạt dẻ cười, bạch đậu khấu, v.v.), thường được gọi là chai, được tiêu thụ rộng rãi. Đây là thức uống phổ biến nhất trong các hộ gia đình tại khu vực này. Trong khi đó, tại các vùng phía bắc Pakistan như Chitral và Gilgit-Baltistan, người dân lại sử dụng một loại trà bơ mặn mang phong cách Tây Tạng.
Văn hóa trà tại Ấn Độ phát triển rất mạnh mẽ; đây là thức uống nóng phổ biến nhất trên toàn quốc. Trà được tiêu thụ hàng ngày trong hầu hết các gia đình, dùng để đãi khách, và được sử dụng với số lượng lớn trong cả không gian sinh hoạt tư gia lẫn môi trường công sở.[109] Trà Ấn Độ được pha chế bằng cách thêm sữa, có thể kết hợp hoặc không kết hợp với các loại gia vị, và thường được làm ngọt. Đôi khi trà được phục vụ kèm bánh quy; người dùng thường nhúng bánh vào nước trà và ăn trước khi thưởng thức trà. Thông thường, trà được uống theo từng "khẩu phần" trong các tách nhỏ (được gọi là cutting chai nếu bán tại các quầy hàng rong) thay vì dùng trong một tách lớn.
Ở Việt Nam, người dân hãm trực tiếp lá chè tươi vừa hái (không qua sao khô hay lên men) để uống trong ngày. Nước chè tươi có màu xanh lục, vị chát nhẹ và hậu ngọt, rất phổ biến ở các vùng nông thôn và trong các sinh hoạt cộng đồng. Trà xanh sao khô (thường gọi là trà Bắc) là thức uống tiêu chuẩn trong tiếp khách và nghi lễ. Người sành trà thường ưu tiên các loại trà cánh móc câu, nước xanh vàng, vị tiền chát hậu ngọt, và thường thưởng thức bằng bộ ấm chén gốm sứ nhỏ. Nghệ thuật ướp hương của Việt Nam đạt đến trình độ tinh xảo, tiêu biểu là trà hoa nhài, trà hoa bưởi và đặc biệt là trà sen. Trà sen Tây Hồ (Hà Nội) được coi là "thiên cổ đệ nhất trà". Trong xã hội hiện đại, trà đá đã trở thành một biểu tượng văn hóa đường phố đặc trưng, đặc biệt là tại các đô thị lớn như Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Các quán trà đá vỉa hè là không gian xã hội bình dân, nơi mọi tầng lớp từ sinh viên, người lao động đến nhân viên văn phòng gặp gỡ và trò chuyện. Bên cạnh đó, các biến thể hiện đại như trà chanh, trà tắc và trà sữa (ảnh hưởng từ Đài Loan) cũng đang chiếm thị phần lớn trong thói quen tiêu dùng.
Tại Hoa Kỳ, 80% lượng trà được tiêu thụ dưới dạng trà đá.[110] Trà ngọt (Sweet tea) là thức uống bản địa của vùng Đông Nam Hoa Kỳ và được xem là biểu tượng trong nền ẩm thực nơi đây, nhờ vào đặc tính mát lạnh sảng khoái cùng hương vị đậm đà do sử dụng một lượng lớn chất làm ngọt.[111]
-
Trà Thổ Nhĩ Kỳ được phục vụ trong một chiếc ly nhỏ đặc trưng và đĩa đi kèm. -
Đồ dùng pha trà kiểu Anh -
Trà đá với một lát chanh -
Trà masala Ấn Độ -
Trà sữa trân châu -
Trà dâm bụt -
Trà Thái
Xem thêm
[sửa | sửa mã nguồn]- Trà (thực vật)
- Trà sen
- Nấm thủy sâm, thức uống được sản xuất từ vi khuẩn và nấm men được trồng trên trà
- Ngày Chè Quốc tế
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Fuller, Thomas (ngày 21 tháng 4 năm 2008). "A Tea From the Jungle Enriches a Placid Village". The New York Times. New York. tr. A8.
- ^ a b c Mair & Hoh 2009, tr. 29–30.
- ^ Macfarlane, Alan; Macfarlane, Iris (2004). The Empire of Tea. The Overlook Press. tr. 32. ISBN 978-1-58567-493-0.
- ^ Saikia, Gautam Kumar (ngày 19 tháng 9 năm 2021). "Origin And Distribution Of The Tea Plant". teaorb.com. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2023.
- ^ "Yunnan da Bai Silver Needles – Tea Trekker".
- ^ Liu et al. (2012)
- ^ Su, Mong-Huai; Hsieh, Chang-Fu; Tsou, Chih-Hua (2009). "The confirmation of Camellia formosensis (Theaceae) as an independent species based on DNA sequence analyses" (PDF). Botanical Studies. 50: 477–485 – qua eJournal.
- ^ Saikia, Gautam Kumar (ngày 19 tháng 9 năm 2021). "Origin And Distribution Of The Tea Plant". teaorb.com. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2023.
- ^ Bennett Alan Weinberg; Bonnie K. Bealer (2001). The World of Caffeine: The Science and Culture of the World's Most Popular Drug. Psychology Press. tr. 63. ISBN 978-0-415-92722-2. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2016.
- ^ Saikia, Gautam Kumar (ngày 19 tháng 9 năm 2021). "Origin And Distribution Of The Tea Plant". teaorb.com. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2023.
- ^ a b Meegahakumbura, MK; Wambulwa, MC; Thapa, KK; và đồng nghiệp (2016). "Indications for three independent domestication events for the tea plant (Camellia sinensis (L.) O. Kuntze) and new insights into the origin of tea germplasm in China and India revealed by nuclear microsatellites". PLOS ONE. 11 (5) e0155369. Bibcode:2016PLoSO..1155369M. doi:10.1371/journal.pone.0155369. PMC 4878758. PMID 27218820.
- ^ a b Meegahakumbura MK, Wambulwa MC, Li MM, và đồng nghiệp (2018). "Domestication origin and breeding history of the tea plant (Camellia sinensis) in China and India based on nuclear microsatellites and cpDNA sequence data". Frontiers in Plant Science. 8 2270. Bibcode:2018FrPS....8.2270M. doi:10.3389/fpls.2017.02270. PMC 5788969. PMID 29422908.
- ^ Meegahakumbura, MK; Wambulwa, MC; Thapa, KK; và đồng nghiệp (2016). "Indications for three independent domestication events for the tea plant (Camellia sinensis (L.) O. Kuntze) and new insights into the origin of tea germplasm in China and India revealed by nuclear microsatellites". PLOS ONE. 11 (5) e0155369. Bibcode:2016PLoSO..1155369M. doi:10.1371/journal.pone.0155369. PMC 4878758. PMID 27218820.
- ^ Meegahakumbura MK, Wambulwa MC, Li MM, và đồng nghiệp (2018). "Domestication origin and breeding history of the tea plant (Camellia sinensis) in China and India based on nuclear microsatellites and cpDNA sequence data". Frontiers in Plant Science. 8 2270. Bibcode:2018FrPS....8.2270M. doi:10.3389/fpls.2017.02270. PMC 5788969. PMID 29422908.
- ^ Yee, L.K., Tea's Wonderful History, The Chinese Historical and Cultural Project, Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 8 năm 2002, truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2013, year 1996–2012
- ^ Driem, George van (2019). "The Primordial Origins of Tea". The tale of tea: a comprehensive history of tea from prehistoric times to the present day (bằng tiếng Anh). Leiden; Boston: Brill. tr. 20. ISBN 978-90-04-38625-9.
- ^ Heiss & Heiss 2007, tr. 6–7.
- ^ Yee, L.K., Tea's Wonderful History, The Chinese Historical and Cultural Project, Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 8 năm 2002, truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2013, year 1996–2012
- ^ Mair & Hoh 2009, tr. 264–65.
- ^ Kit Boey Chow; Ione Kramer (1990). All the Tea in China. Sinolingua. tr. 2–3. ISBN 978-0-8351-2194-1. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2016.
- ^ "Archaeologists discover world's oldest tea buried with ancient Chinese emperor". The Independent. Independent Print Limited. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2017.
- ^ Houyuan Lu; và đồng nghiệp (ngày 7 tháng 1 năm 2016). "Earliest tea as evidence for one branch of the Silk Road across the Tibetan Plateau". Nature. 6 18955. Bibcode:2016NatSR...618955L. doi:10.1038/srep18955. PMC 4704058. PMID 26738699.
- ^ "World's oldest tea found in Chinese emperor's tomb". Phys.org. ngày 28 tháng 1 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2016. The oldest written reference to tea is from the year 59 BC.
- ^ Mair & Hoh 2009, tr. 30–31.
- ^ Bennett Alan Weinberg, Bonnie K. Bealer (2001). The World of Caffeine: The Science and Culture of the World's Most Popular Drug. Routledge. tr. 28. ISBN 978-0-415-92722-2. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2015.
- ^ a b Benn 2015, tr. 42.
- ^ Andrew Chittick (2020). The Jiankang Empire in Chinese and World History. Oxford University Press. tr. 75–76. ISBN 978-0-19-093754-6.
- ^ Scott Pearce; Audrey G. Spiro; Patricia Buckley Ebrey, biên tập (2001). Culture and Power in the Reconstitution of the Chinese Realm, 200–600. Harvard University Asia Center. tr. 22. ISBN 0-674-00523-6.
- ^ Benn 2015, tr. 22.
- ^ Miranda Brown (ngày 2 tháng 3 năm 2022). "The Medieval Influencer Who Convinced the World to Drink Tea—Not Eat It". Atlas Obscura.
- ^ Albert E. Dien (2007). Six Dynasties Civilization. Yale University Press. tr. 362. ISBN 978-0-300-07404-8.
- ^ Mair & Hoh 2009, tr. 39–41.
- ^ Mair & Hoh 2009, tr. 118.
- ^ Bennett Alan Weinberg; Bonnie K. Bealer (2001). The World of Caffeine: The Science and Culture of the World's Most Popular Drug. Psychology Press. tr. 63. ISBN 978-0-415-92722-2. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2016.
- ^ Mair & Hoh 2009, tr. 165.
- ^ Mair & Hoh 2009, tr. 106.
- ^ Mair & Hoh 2009, tr. 169.
- ^ "Russian Tea History". www.apollotea.com. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2019.
- ^ Great Soviet Encyclopedia. Советская энциклопедия. 1978. tr. vol. 29, p. 11.
- ^ Paul Chrystal (2014). Tea: A Very British Beverage. Amberley Publishing Limited. ISBN 978-1-4456-3360-2. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2015.
- ^ Peter Mundy Merchant Adventurer, 2011, ed. R.E. Pritchard, Bodleian Libraries, Oxford
- ^ "Tea". In Our Time. ngày 29 tháng 4 năm 2004. BBC Radio 4. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2015.
- ^ "A Social History of the Nation's Favourite Drink". United Kingdom Tea Council. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 7 năm 2009.
- ^ Goldstone, Jack A. (2016). Revolution and Rebellion in the Early Modern World: Population Change and State Breakdown in England, France, Turkey, and China, 1600–1850; 25th Anniversary Edition (bằng tiếng Anh). Routledge. ISBN 978-1-315-40860-6.
- ^ Colleen Taylor Sen (2004). Food Culture in India. Greenwood Publishing Group. tr. 26. ISBN 978-0-313-32487-1. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2016. Ironically, it was the British who introduced tea drinking to India, initially to anglicized Indians. Tea did not become a mass drink there until the 1950s when the India Tea Board, faced with a surplus of low-grade tea, launched an advertising campaign to popularize it in the north, where the drink of choice was milk.
- ^ Mair & Hoh 2009, tr. 214.
- ^ Sarah Rose (2010). For All the Tea in China. Penguin Books. tr. 1–5, 89, 122, 197.
- ^ Colleen Taylor Sen (2004). Food Culture in India. Greenwood Publishing Group. tr. 26. ISBN 978-0-313-32487-1. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2016. Ironically, it was the British who introduced tea drinking to India, initially to anglicized Indians. Tea did not become a mass drink there until the 1950s when the India Tea Board, faced with a surplus of low-grade tea, launched an advertising campaign to popularize it in the north, where the drink of choice was milk.
- ^ "TED Case Studies – Ceylon Tea". American University, Washington, DC. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2013.
- ^ a b c "Camellia Sinensis". Purdue University Center for New Crops and Plants Products. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2010.
- ^ Turner, Robin (ngày 3 tháng 10 năm 2009). "Duo plant tea in Wales". Wales Online. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2011.
- ^ "Tea" (PDF). The Compendium of Washington Agriculture. Washington State Commission on Pesticide Registration. 2010. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 10 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2011.
- ^ Jim Rolfe & Yvonne Cave (2003). Camellias: A Practical Gardening Guide. Timber Press. ISBN 0-88192-577-2.
- ^ Pruess, Joanna (2006). Tea Cuisine: A New Approach to Flavoring Contemporary and Traditional Dishes. Globe Pequot. ISBN 1-59228-741-7.
- ^ "Các loại chè Thái Nguyên phổ biến và cao cấp hiện nay - Trà Tân Cương Thái Nguyên". ngày 13 tháng 6 năm 2025. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2025.
- ^ Mondal, T.K. (2007). "Tea". Trong Pua, E.C.; Davey, M.R. (biên tập). Biotechnology in Agriculture and Forestry. Quyển 60: Transgenic Crops V. Berlin: Springer. tr. 519–520. ISBN 3-540-49160-0.
- ^ Britannica Tea Cultivation. Truy cập June 2007.
- ^ Elizabeth S. Hayes (1980). Spices and Herbs: Lore and Cookery. Courier Dover Publications. tr. 74. ISBN 0-486-24026-6.
- ^ Saikia, Gautam Kumar (ngày 19 tháng 9 năm 2021). "Origin And Distribution Of The Tea Plant". teaorb.com. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2023.
- ^ Yang, Ziyin; Baldermann, Susanne; Watanabe, Naoharu (ngày 1 tháng 10 năm 2013). "Recent studies of the volatile compounds in tea". Food Research International. Tea – from bushes to mugs: composition, stability and health aspects. 53 (2): 585–599. doi:10.1016/j.foodres.2013.02.011. ISSN 0963-9969.
- ^ Weinberg, Bennett Alan & Bealer, Bonnie K. (2001). The World of Caffeine: The Science and Culture of the World's Most Popular Drug. Routledge. tr. 228. ISBN 978-0-415-92722-2.
- ^ Hicks MB, Hsieh YP, Bell LN (1996). "Tea preparation and its influence on methylxanthine concentration" (PDF). Food Research International. 29 (3–4): 325–330. doi:10.1016/0963-9969(96)00038-5. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 3 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2013.
- ^ Chatterjee A, Saluja M, Agarwal G, Alam M (2012). "Green tea: A boon for periodontal and general health". Journal of Indian Society of Periodontology. 16 (2): 161–167. doi:10.4103/0972-124X.99256. PMC 3459493. PMID 23055579.
- ^ Graham, HN (1992). "Green tea composition, consumption, and polyphenol chemistry". Preventive Medicine. 21 (3): 334–350. doi:10.1016/0091-7435(92)90041-f. PMID 1614995.
- ^ Harbowy, ME (1997). "Tea Chemistry". Critical Reviews in Plant Sciences. 16 (5): 415–480. doi:10.1080/713608154.
- ^ Ferruzzi, MG (2010). "The influence of beverage composition on delivery of phenolic compounds from coffee and tea". Physiol Behav. 100 (1): 33–41. doi:10.1016/j.physbeh.2010.01.035. PMID 20138903. S2CID 207373774.
- ^ Williamson G, Dionisi F, Renouf M (2011). "Flavanols from green tea and phenolic acids from coffee: critical quantitative evaluation of the pharmacokinetic data in humans after consumption of single doses of beverages". Mol Nutr Food Res. 55 (6): 864–873. doi:10.1002/mnfr.201000631. PMID 21538847.
- ^ Yang, Ziyin; Baldermann, Susanne; Watanabe, Naoharu (ngày 1 tháng 10 năm 2013). "Recent studies of the volatile compounds in tea". Food Research International. Tea – from bushes to mugs: composition, stability and health aspects. 53 (2): 585–599. doi:10.1016/j.foodres.2013.02.011. ISSN 0963-9969.
- ^ Yang, Ziyin; Baldermann, Susanne; Watanabe, Naoharu (ngày 1 tháng 10 năm 2013). "Recent studies of the volatile compounds in tea". Food Research International. Tea – from bushes to mugs: composition, stability and health aspects. 53 (2): 585–599. doi:10.1016/j.foodres.2013.02.011. ISSN 0963-9969.
- ^ "Green Tea". National Center for Complementary and Integrative Health, US National Institutes of Health, Bethesda, MD. 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2014.
- ^ "Summary of Qualified Health Claims Subject to Enforcement Discretion:Green Tea and Cancer". Food and Drug Administration, US Department of Health and Human Services. tháng 10 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2014.
- ^ "Black tea". MedlinePlus, US National Library of Medicine. ngày 30 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2018.
- ^ "Green Tea". National Center for Complementary and Integrative Health, US National Institutes of Health, Bethesda, MD. 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2014.
- ^ "Black tea". MedlinePlus, US National Library of Medicine. ngày 30 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2018.
- ^ "Tea, brewed, prepared with tap water [black tea], one cup, USDA Nutrient Tables, SR-21". Conde Nast. 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2014.
- ^ Fung KF, Zhang ZQ, Wong JW, Wong MH (1999). "Fluoride contents in tea and soil from tea plantations and the release of fluoride into tea liquor during infusion". Environmental Pollution. 104 (2): 197–205. doi:10.1016/S0269-7491(98)00187-0.
- ^ "Tea leaves production in 2022, Crops/Regions/World list/Production Quantity/Year (pick lists)". UN Food and Agriculture Organization, Corporate Statistical Database (FAOSTAT). 2024. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2024.
- ^ "World tea production in 2019; Crops/World Regions/Production Quantity from picklists". Food and Agriculture Organization of the United Nations, Statistics Division (FAOSTAT). 2020. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2022.
- ^ "Green Tea Storage" (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 27 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2009.
- ^ Liu Tong (2005). Chinese tea. Beijing: China Intercontinental Press. tr. 137. ISBN 978-7-5085-0835-1.
- ^ Tony, Gebely (tháng 10 năm 2016). Tea: a user's guide. Eggs and Toast Media, LLC. tr. Chapter 6. ISBN 978-0-9981030-0-6. OCLC 965904874.
- ^ Gong, Wen (2007). Lifestyle in China (bằng tiếng Anh). 五洲传播出版社. ISBN 978-7-5085-1102-3.
- ^ "Brief Guides - The Perfect Introduction - Brief Guide to Tea". www.briefguides.co.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 8 năm 2006. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2025.
- ^ "Some Tea and Wine May Cause Cancer" - Nutrition Health Review, Issue 56, Fall 1990 | Online Research Library: Questia Reader". www.questia.com (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2025.
- ^ Tierra, Michael (1990). The Way of Herbs. Pocket Books. ISBN 978-0-671-72403-0.
- ^ "Từ điển Glosbe - Tất cả các ngôn ngữ ở một nơi". glosbe.com. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2025.
- ^ "How to make a perfect cuppa". BBC News (bằng tiếng Anh). ngày 25 tháng 6 năm 2003. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2025.
- ^ Kruszelnicki, Karl S. (ngày 3 tháng 2 năm 2000). "Biscuit Dunking Physics". www.abc.net.au (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2025.
- ^ Dubrin, Beverly (2010). Tea Culture: History, Traditions, Celebrations, Recipes & More. Charlesbridge Publishing. tr. 24. ISBN 978-1-60734-363-9. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2016.
- ^ Lorenz, M.; Jochmann, N.; von Krosigk, A.; Martus, P.; Baumann, G.; Stangl, K.; Stangl, V. (ngày 7 tháng 6 năm 2006). "Addition of milk prevents vascular protective effects of tea". European Heart Journal (bằng tiếng Anh). Quyển 28 số 2. tr. 219–223. doi:10.1093/eurheartj/ehl442. ISSN 0195-668X.
- ^ "Lipton Institute of Tea – Interview of Steve, Tea technology manager, Chapter: A Culture of Innovation". Lipton. 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2008.
- ^ "PG tips - About Us". www.pgtips.co.uk (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 1 năm 2007. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2025.
- ^ "Change brewing for reshaped tea market". The Independent (bằng tiếng Anh). ngày 24 tháng 2 năm 1996. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2025.
- ^ Smithers, Rebecca; correspondent, consumer affairs (ngày 2 tháng 7 năm 2010). "Most UK teabags not fully biodegradeable, research reveals". The Guardian (bằng tiếng Anh). ISSN 0261-3077. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2025. {{Chú thích báo}}: |last2= có tên chung (trợ giúp)
- ^ Mair & Hoh 2009, tr. 50.
- ^ Mair & Hoh 2009, tr. 62.
- ^ Mair & Hoh 2009, tr. 48.
- ^ Mair & Hoh 2009, tr. 110.
- ^ Mair & Hoh 2009, tr. 124–36.
- ^ "PT. Sinar Sosro >> Produk >> Tehbotol Sosro". www.sosro.com. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2025.
- ^ GmbH, Media Motion. "bina.ch > Bischofszell Nahrungsmittel — Gutes aus der Schweiz : About ourselves". www.bina.ch (bằng tiếng Đức). Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2025.
- ^ "• UK: average cups of tea per day 2017 | Statista". www.statista.com. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2019.
- ^ "Tea consumption per capita worldwide by country, 2016". Statista (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2025.
- ^ "Wayback Machine" (PDF). agritrade.iift.ac.in. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 11 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2025.
- ^ "World tea production reaches new highs". fao.org. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2014.
- ^ About Turkey: Geography, Economics, Politics, Religion and Culture, Rashid and Resit Ergener, Pilgrims' Process, 2002, ISBN 0-9710609-6-7, p. 41
- ^ "Capacity Building Program on International Trade" (PDF) (Thông cáo báo chí). Ministry of Agriculture. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 11 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2013.
- ^ "En çok çay ve karpuz tüketiyoruz - Ekonomi Haberleri - Son Dakika Haberler". CNN TÜRK (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). ngày 14 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2025.
- ^ "A majority of Indians think theirs is a tea-drinking nation". yougov.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2025.
- ^ "Tea".
- ^ Powers, Sean. "Sweet Tea: A History Of The 'Nectar Of The South'". gpbnews.org (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2025.
Tài liệu
[sửa | sửa mã nguồn]- Claud Bald: Indian Tea. A Textbook on the Culture and Manufacture of Tea. Fifth Edition. Thoroughly Revised and Partly Rewritten by C.J. Harrison. Thacker, Spink & Co., Calcutta 1940 (first edition, 1933).
- Kit Chow, Ione Kramer (1990): All the Tea in China, China Books & Periodicals Inc. ISBN 0-8351-2194-1 References are to Czech translation by Michal Synek (1998): Všechny čaje Číny, DharmaGaia Praha. ISBN 80-85905-48-5
- Cook, Eleanor. A Reader's Guide to Wallace Stevens. 2007: Princeton University Press.
- John C. Evans (1992): Tea in China: The History of China's National Drink, Greenwood Press. ISBN 0-313-28049-5
- Harler, C.R.: The Culture and Marketing of Tea. Second edition. Oxford University Press, New York and Bombay, Reprinted 1958 (First edition 1933, second edition 1956).
- Eelco Hesse (1982), Tea: The eyelids of Bodhidharma, Prism Press.
- Hobhouse, Henry (2005). "Seeds of Change: Six Plants that Transformed Mankind". Shoemaker & Hoard. ISBN 1-59376-049-3. {{Chú thích tạp chí}}: Chú thích magazine cần |magazine= (trợ giúp)
- Lu Yu (陆羽): Cha Jing (茶经) (The classical book on tea). References are to Czech translation of modern-day edition (1987) by Olga Lomová (translator): Kniha o čaji. Spolek milců čaje, Praha, 2002. (in Czech)
- Roy Moxham (2003), Tea: Addiction, Exploitation, and Empire
- Nye, Gideon (1850). Tea: and the tea trade Parts first and second. New York: Printed by G.W. Wood.
- Jane Pettigrew (2002), A Social History of Tea
- Stephan Reimertz (1998): Vom Genuß des Tees: Eine heitere Reise durch alte Landschaften, ehrwürdige Traditionen und moderne Verhältnisse, inklusive einer kleinen Teeschule (In German)
- Yamamoto, T; Kim, M; Juneja, L R (1997). "Chemistry and Applications of Green Tea". CRC Press. {{Chú thích tạp chí}}: Chú thích magazine cần |magazine= (trợ giúp).
- James Norwood Pratt (2005), Tea Dictionary
- Kiple, Kenneth F.; Ornelas, Kriemhild Coneè, biên tập (2000). The Cambridge World History of Food. Quyển 1. Cambridge: Cambridge University Press. ISBN 0521402166..
- Mondal, T.K. (2007). "Tea". Trong Pua, E.C.; Davey, M.R. (biên tập). Biotechnology in Agriculture and Forestry. Quyển 60: Transgenic Crops V. Berlin: Springer. tr. 519–535. ISBN 3540491600..
- Sanyal, Amitava (ngày 13 tháng 4 năm 2008). "How India came to be the largest tea drinking nation". Hindustan Times. New Delhi. tr. 12. [liên kết hỏng].
- Karmakar, Rahul (ngày 13 tháng 4 năm 2008). "The Singpho: The cup that jeers". Hindustan Times. New Delhi. tr. 12. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2011..
- Lester Packer, Choon Nam Ong, Barry Halliwell (2004): Herbal and Traditional Medicine: Molecular Aspects of Health, CRC Press, ISBN 0-8247-5436-0
- Nutrition, CS (1999). "Tea and Health". Nutrition (Burbank, Los Angeles County, Calif.). Quyển 15 số 11–12. tr. 946–949. PMID 10575676.
- Journal of Epidemiology and Community Health, M; Tunstall-Pedoe, H (1999). "Coffee and tea consumption in the Scottish Heart Health Study follow up: conflicting relations with coronary risk factors, coronary disease, and all cause mortality". Journal of epidemiology and community health. Quyển 53 số 8. tr. 481–487. doi:10.1136/jech.53.8.481. ISSN 0143-005X. PMC 1756940. PMID 10562866.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]
Tư liệu liên quan tới Tea tại Wikimedia Commons- Trà trên DMOZ
- Tea trên chương trình In Our Time của BBC. (Nghe tại đây)
- Hiệp hội trà Việt Nam
- Hiệp hội trà xanh thế giới
| |||||||||||||||||
|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
| Loạiphổ biến |
| ||||||||||||||||
| Tổng hợp |
| ||||||||||||||||
| Văn hóa trà |
| ||||||||||||||||
| Lịch sử trà |
| ||||||||||||||||
| Sản xuất vàphân phối |
| ||||||||||||||||
| Chế biến |
| ||||||||||||||||
| Sức khỏe |
| ||||||||||||||||
| Thức uốnglàm từ trà |
| ||||||||||||||||
| Xem thêm |
| ||||||||||||||||
| |||||||||||||||||
- ^ Trà thảo mộc không được làm từ Camellia sinensis vì vậy về mặt kỹ thuật không được gọi là trà.
| |||||
|---|---|---|---|---|---|
| Thời La Mã |
| ||||
| Trung cổ |
| ||||
| Thế kỷ 16 |
| ||||
| Thế kỷ 17 |
| ||||
| Thế kỷ 18 |
| ||||
| Thế kỉ 19 |
| ||||
| Thế kỷ 20 |
| ||||
| Thế kỷ 21 |
| ||||
| Liên quan |
| ||||
| |||||||
|---|---|---|---|---|---|---|---|
| Món ăn |
| ||||||
| Món ăn phụ |
| ||||||
| Đồ ăn nhẹ |
| ||||||
| Đồ uống |
| ||||||
| Đồ ngọt & món tráng miệng |
| ||||||
| Đồ gia vị |
| ||||||
| Thành phần |
| ||||||
| |||||||
| Cơ sở dữ liệu tiêu đề chuẩn | |
|---|---|
| Quốc tế |
|
| Quốc gia |
|
| Khác |
|
Bài viết này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn. |
- x
- t
- s
Từ khóa » Trá đồ
-
Trà Lipton, Ô Long, Đào, Móc Câu Thơm Ngon, Giá Tốt
-
Trà đồ Giá Tốt Tháng 7, 2022 Đồ Dùng Nhà Bếp Và Hộp đựng Thực Phẩm
-
Thức Uống - Phúc Long Coffee & Tea House
-
Đồ Uống Trà - Tôi Yêu Trà
-
Những Bộ đồ Trà Thời Nguyễn - Bảo Tảng Tỉnh Thanh Hóa
-
Tra Cước Và Thời Gian Vận Chuyển - Viettel Post
-
Tra Cứu Hành Trình đơn Hàng - Viettel Post
-
Green Tea - Chè, Trà Sữa & Đồ Ăn Vặt - Freeship - Loship
-
Tàu Tuần Tra Cảnh Sát - My Kingdom
-
Cách Uống Trà Xanh Như Thế Nào để Tốt Cho Sức Khỏe?
-
Trả Hồ Sơ Vụ Nguyên Trưởng Công An Quận Đồ Sơn Làm Sai Lệch Hồ ...
-
CÁCH LÀM TRÀ TẮC NGON GIẢI KHÁT TẠI NHÀ HAY ĐỂ KINH ...
-
Trà Dâu Tươi - Đồ Uống Thanh Nhiệt, Thơm Ngon | VTC14 - YouTube