Trần Dần: Một đời - Thơ - Amvc
Có thể bạn quan tâm
Nam Dao giới thiệu
Trần Dần: một đời - thơ
1926- Sinh ở Nam Định trong một gia đình khá giả. Học trung học ở Hà Nội, đậu Tú Tài, làm thơ từ thiếu thời, yêu Beaudelaire, Verlaine.
1943- Trần Dần (TD) quan hệ với nhóm Hàn Thuyên ( Trương Tửu, Lương Đức Thiệp…).
1945- Hồ Chí Minh đọc Tuyên Ngôn Độc Lập, khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tổ chức bầu cử Quốc Hội lập Hiến.
1946- Cùng Trần Mai Châu, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Định, Vũ Hoàng Chương …ra tạp chí Dạ Đài, đăng tuyên ngôn của phái Tượng Trưng, ngay sau đó thì kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp bùng nổ.
1947- 48- TD tham gia kháng chiến ở Nam Định, rồi chiến đấu ở Thượng Lào và Tây Bắc.
1949-50- TD phụ trách văn công ở trung đoàn Sơn La, được kết nạp vào đảng CS Đông Dương , tham gia lập nhóm Sông Đà, vẽ tranh lập thể và làm thơ lối bậc thang. Bị chê là khó hiểu lập dị, TD xin chuyển về phòng Văn Nghệ Quân Đội thuộc Tổng Cục Chính Trị.
1951-53- TD công tác ở cục Quân Huấn và Ủy Ban Trung Ương Hội Văn Nghệ Quân Đội, phụ trách đào tạo và tập huấn chính trị cho văn công. Luật Cải Cách Ruộng Đất (CCR Đ) được ban hành. Stalin qua đời. TD bị phê bình là giảng sai chính sách Văn Nghệ của Đảng.
1954- tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, viết tiểu thuyết Người người lớp lớp. Hiệp định Geneve. TD được cử sang Trung Quốc viết chuyện phim Điện Biên Phủ, cuối năm về Hà Nội.
1955- tháng 3 tham gia phê bình tập thơ Về Việt Bắc của Tố Hữu, tháng 4 cùng Hoàng Cầm, Đỗ Nhuận, Tử Phác… đệ trình Dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hóa yêu cầu tự do sáng tác, trả quyền lãng đạo văn nghệ cho văn nghệ sĩ. TD quyết định kết hôn với Bùi Thị Ngọc Khuê có gia đình di cư vào Nam bất chấp phản đối của lãnh đạo các cấp. Viết đơn xin giải ngũ và đơn xin ra khỏi Đảng, TD bị giam 3 tháng theo quân kỷ để kiểm thảo, viết Nhất định thắng và Cách Mạng tháng tám. Sau, TD đi tham quan CCRĐ đợt 5 ở Bắc Ninh.
1956- Hoàng Cầm cho đăng Nhất định thắng trên Giai Phẩm mùa Xuân. Giai phẩm bị tịch thu. Hội Văn Nghệ tổ chức phê bình : TD bị qui kết đi ngược đường lối của Đảng, bị giam 3 tháng tại Hỏa Lò. TD dùng dao cạo cứa cổ định tự tử. Cùng năm, Đại Hội 20 của Đảng CS Liên Xô với báo cáo Krút-Sép chống tệ sùng bái Stalin, mở màn cho các cuộc nổi dậy ở Ba Lan, Hung …Tháng 9, báo Nhân Văn số 1 ra đời, có bài Con người Trần Dần của Hoàng Cầm. Tháng 10, ban thường vụ Hội Văn Nghệ Việt Nam ra thông báo công nhận sai lầm trong vụ phê bình bài thơ Nhất định thắng. Cùng lúc , Giai Phẩm mùa Xuân tái bản, với bài thơ này.
1957- Tháng 2 , Đại Hội Văn Nghệ toàn quốc lần thứ 2 tại Hà Nội với gần 500 đại biểu, đích thân Trường Chinh kêu gọi đập nát luận điệu phản động của Nhân Văn-Giai Phẩm (NV-GP).
Sau đó, nhóm văn nghệ sĩ tham gia NV-GP này phải đi lao động cải tạo, bị khai trừ khỏi Hội nhà văn, không được xuất bản trong thời hạn từ 1, 2 đến 3 năm. TD sống âm thầm, bút bị bẻ không chỉ 3 năm mà cho đến năm 1988, tức hơn 29 năm sau, mới có phép được tham gia sinh hoạt văn học một cách công khai. Năm 1994, TD xuất bản tiểu thuyết thơ Cổng Tỉnh viết từ 1960, được giải thưởng Hội Nhà Văn năm 1995. Ông từ giã thế gian này hai năm sau, ngày 17-1-1997. Năm 2007, Trần Dần và những văn nghệ sĩ trong NV-GP là Hoàng Cầm, Lê Đạt và Phùng Quán được trao Giải Thưởng Nhà Nước, vinh quang chỉ sau có Giải Thưởng Hồ Chí Minh. Năm 2008, tập Trần Dần-Thơ đã được in, nhưng lại không cho phép phát hành. Lý do là, như đùa, tập thơ vi phạm qui trình hành chính xuất bản. Theo lời vị Giám Đốc Nhà Xuất Bản Đà Nẵng, ông Nguyễn Hữu Chiến, người đã quyết định thu hồi giấy phép xuất bản vì trong tập Trần Dần-Thơ có chút ít tiếng Pháp và nhất là viết ‘’sai ‘’ chính tả Việt Nam[1], không đáp ứng tiêu chuẩn của UBND TP Đà Nẵng (?).
Tình yêu là một bước ngoặt
Gặp Bùi Thị Ngọc Khuê, bước ngoặt ấy là một bước nhảy nhổm dị kỳ của định mệnh TD. Nói gì về tình yêu TD cũng chẳng bằng những lời thơ của chính TD :
Tình Yêu
Gửi em K*, những ngày phải xa nhau – anh bị giữ lại để « giáo dục » về nhiều chuyện và cả chuyện yêu K nữa.
Em ơi
anh không ngủ được
bốn đêm rồi!
Nhớ em
đường phố Sinh Từ
đen cả mũi
mùi than
mùi bụi.
Nhớ gian nhà
bây giờ
lùi lũi
một mình em
Em ạ,
Tình yêu không phẳng lặng bao giờ
Nó đè sóng,
đè mưa,
nổi bão...
Tình yêu
không phải chuyện
đưa cho nhau
ngày một bó hoa
Nó là chuyện
những đêm giòng
không ngủ
tóc tai bù
như những rặng cây to
nó vật vã
những đêm trời động gió.
Tình yêu
không phải là
kề vai mơ
sầu mộng dưới trăng mòn
mà phải sống
phải cởi trần
mưa nắng
phải mồ hôi
chảy đẫm
tận buồng gan.
Tình yêu không phải
chuyện ngàn năm
kề sát má
mà bỗng dưng -
một quả tim chung
phải bổ nó
làm
đôi
người một nửa
người
ôm một nửa...
Tình yêu
không phải là
những chiếc toa đen
con tàu cuộc sống
tùy chuyến đi
mà cắt bỏ
hoặc nối thêm
Mà tự nó là
một ĐẦU TÀU HỎA
có nghìn toa
buổi - sáng
buổi – không đèn
Triệu mã lực
con tàu điên
tàu dại
nó đâm bừa
gãy cẳng
ngày đêm
nó hú chết
thời gian
khoảng cách
nó rú lên
trên trái đất
chưa người
chưa xã hội
chưa luân thường
ước lệ...
Tình yêu không phải
chuyện bạ sao yêu
cũng được
nó lạ lùng
như giữa một trời sao
triệu triệu ánh
Chỉ có anh
đã khản tiếng
kêu gào
mới gọi được
vì – sao – em
hay khóc
Và có em
đi mãi đến mê
người
mới dừng lại
ôm mình anh
buồn tủi
vì – sao – anh
rốc lửa
xém bên trời...
Tình yêu
không phải
có hoặc không
cũng được !
mà nó như là
những vần thơ
những bắp thịt
những đường gân
tổ quốc
Em ơi
em lại khóc
em à?
Gian nhà vắng
con chó nằm nó rú...
Anh mới đấm lên trời
dăm quả đấm
bây giờ anh
ngồi
chết
một gian buồng
bốn bức tường
nó giữ chịt người
anh
để giáo dục anh về nhiều chuyện
và chuyện yêu
- là câu chuyện chúng mình...
Em đọc kỹ
trang thơ này nhé
Em đếm xem
bao chữ
bao vần
cũng tựa bao đêm
em ngắm trời sao
em đã thấy
một vì sao
ngất ngưởng
vì – sao – anh
nó chuyển bốn bên trời
đuôi nó cháy
- đúng là
vì sao dữ
Anh cho phép
em khóc nhiều
khóc nữa
Em ơi
tình yêu em
không có tuổi bao giờ
mươi thế kỷ
vì sao
anh
vẫn cháy...
1955
Nhất định thắng, ván đầu.
Đánh ván đầu khi TD bị quân kỷ phải đi tham quan CCRĐ ở Bắc Ninh. Ai dám xin ra khỏi Đảng và giải ngũ vì…tình yêu ? TD mím môi :
bây giờ anh
ngồi
chết
một gian buồng
bốn bức tường
nó giữ chịt người
anh
để giáo dục anh về nhiều chuyện
và chuyện yêu
- là câu chuyện chúng mình...
Em đọc kỹ
trang thơ này nhé
…
A, câu chuyện chúng mình? Thuở ấy, ai nấy hô đấu tranh giai cấp, ‘’chúng mình’’ phải là vô sản công nông tiên phong trên con đường cách mạng như một tất yếu của lịch sử chứ! Còn cái ‘’ chúng mình’’ của bọn tạch tạch sè trí thức tiểu tư sản thành thị thì phải xóa cho sạch hoặc bôi cho đen để quần chúng nhân dân dẫu mắt có mở cũng chẳng thấy gì ngoài bóng cờ đỏ.
Về Hà Nội, TD đưa Nhất định thắng ra. Hoàng Cầm đề nghị thêm đoạn cuối để ‘’giữ’’ lập trường, sau in trong Giai Phẩm mùa Xuân. Còn Nguyễn Đình Thi, đang ngấp nghé thành quan lãnh đạo văn nghệ, viết bức thư sau.
Thư Nguyễn Đình Thi gửi Trần Dần
Trần Dần,
Tôi chữa tạm bài của Dần như thế này. cắt những đoạn trên thảm thiết và vô chính trị (hàng ế- thất nghiệp-người đi Nam vv..)
Vắng hẳn công nhân Hà Nội (chỉ có bộ đội thành ra không thấy lực lượng quần chúng) Nói chung như trong thư tôi đã nhận xét.
Chữa thế này cũng còn yếu.
Và cũng mới là cố ngoi lên chứ chưa vững được.
Còn vấn đề đăng báo, cũng cần cân nhắc thêm nữa.
Chúc cậu khoẻ mạnh, cố gắng - Phải đem cái khoẻ làm thơ mà phục vụ thực sự hơn.
Tôi gửi trả để anh xem có ý gì thêm thì anh chữa thêm rồi gửi lại cho tôi.
Nếu viết về cuộc sống ở thành phố mà anh không nhìn thấy công nhân thì còn thấy gì được!
Do thiếu quần chúng lao động nên bài thơ dù muốn hét vẫn yếu và chơi vơi.
Dần cố lên cố lên.
Thi.
Mình đau phổi thật rồi, sau Quốc khánh này sẽ nghỉ.
Giai Phẩm mùa Xuân bị tịch thu khi TD còn ở Bắc Ninh trong đợt tham quan CCRĐ. Bài thơ Nhất định thắng bị đấu trong một hội nghị của Hội Văn Nghệ qui tụ 150 văn nghệ sĩ. TD đi tù Hỏa Lò. Ngày 7-03-1956, báo Văn Nghệ đăng bài Vạch trần tính chất phản động trong bài thơ ‘’Nhất định thắng’’của Trần Dần do Hoài Thanh chấp bút. TD cứa cổ nhưng không chết. A, cái lưỡi dao cùn, không đứt được mà đau!
Bài thơ oan nghiệt:
Nhất định thắng
Tôi ở phố Sinh Từ
Hai người
Một gian nhà chật.
Rất yêu nhau sao cuộc sống không vui ?
Tổ quốc hôm nay
tuy gọi sống hòa bình
Nhưng mới chỉ là năm thứ nhất
Chúng ta còn muôn việc rối tinh...
Chúng ta
Ngày làm việc, đêm thì lo đẫy giấc
Vợ con đau thì rối ruột thuốc men
Khi mảng vui - khi chợt nhớ - chợt quên
Trăm cái bận hàng ngày nhay nhắt.
Chúng ta vẫn làm ăn chiu chắt
Ta biết đâu bên Mỹ miếc tít mù
Chúng còn đương bày kế hại đời ta ?
Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc
Đất hôm nay tầm tã mưa phùn
Bỗng nhói ngang lưng
máu rỏ xuống bùn
Lưng tôi có tên nào chém trộm ?
A ! Cái lưỡi dao cùn !
Không đứt được - mà đau !
Chúng định chém tôi làm hai mảnh
Ôi cả nước ! Nếu mà lưng tê lạnh
Hãy nhìn xem: có phải vết dao ?
Không đứt được mà đau !
Lưng Tổ Quốc hôm nay rớm máu
Tôi đã sống rã rời cân não
Quãng thời gian nhưng nhức chuyện đi Nam
Những cơn mưa rơi mãi tối xầm
Họ lếch thếch ôm nhau đi từng mảng
Tôi đã trở nên người ôm giận
Tôi đem thân làm ụ cản đường đi
- Dừng lại !
- Đi đâu ?
- Làm gì ?
Họ kêu những thiếu tiền, thiếu gạo
Thiếu cha, thiếu Chúa, thiếu vân vân
Có cả anh nam chị nữ kêu buồn
- Ở đây
khát gió, thèm mây...
Ô hay !
Trời của chúng ta gặp ngày mây rủ
Nhưng trời ta sao bỏ nó mà đi ?
Sau đám mây kia
là cả miền Nam
Sao nỡ tưởng non bồng của Mỹ !
Tôi muốn khóc giữ từng em bé
- Bỏ tôi ư ? - từng vạt áo - gót chân
Tôi muốn kêu lên - những tiếng cộc cằn...
- Không ! Hãy ở lại !
Mảnh đất ta hôm nay dù tối
Cũng còn hơn
non bồng Mỹ
triệu lần...
Mảnh đất dễ mà quên ?
Hỡi bạn đi Nam
Thiếu gì ư?
Sao chẳng nói thực thà ?
Chỉ là:
- thiếu quả tim, bộ óc !
Những lời nói sắp thành nói cục
Nhưng bỗng dưng tôi chỉ khóc mà thôi
Tôi nức nở giữa trời mưa bão.
Họ vẫn ra đi.
- Nhưng sao bước rã rời ?
Sao họ khóc ?
Họ có gì thất vọng ?
Đất níu chân đi,
gió cản áo quay về.
Xa đất Bắc tưởng như rời cõi sống.
Tưởng như đây là phút cuối cùng
Trăng trối lại : - Mỗi lùm cây - hốc đá
- Mỗi căn vườn - gốc vả - cây sung
Không nói được, chỉ còn nức nở
Trắng con ngươi nhìn lại đất trời
Nhìn cơn nắng lụi, nhìn hạt mưa sa
Nhìn con đường cũ, nhìn ngôi sao mờ
Ôi đất ấy - quên làm sao được ?
Quên sao nơi ấm lạnh ngọt bùi
Hôm nay đây mưa gió dập vùi
- Mưa đổ mãi lên người xa đất Bắc...
Ai dẫn họ đi ?
Ai ?
Dẫn đi đâu ? - mà họ khóc mãi thôi
Trời vẫn quật muôn vàn tảng gió
Bắc Nam ơi, đứt ruột chia đôi
Tôi cúi xuống - quỳ xin mưa bão
Chớ đổ thêm lên đầu họ
- Khổ nhiều rồi !
Họ xấu số - Chớ hành thêm họ nữa
Vườn ruộng hoang sơ - Cửa nhà vắng chủ
Miền Nam muôn dặm,
non nước buồn thương
Họ đã đi nhưng trút lại tâm hồn
Ơi đất Bắc ! Hãy giữ gìn cho họ.
Tôi ở phố Sinh Từ
Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ.
Gặp em trong mưa
Em đi tìm việc
Mỗi ngày đi lại cúi đầu về
- Anh ạ,
họ vẫn bảo chờ...
Tôi không gặng hỏi, nói gì ư ?
Trời mưa, trời mưa
Ba tháng rồi
Em đợi
Sống bằng tương lai
Ngày và đêm như lũ trẻ mồ côi
Lũ lượt dắt nhau đi buồn bã…
Em đi
trong mưa
cúi đầu
nghiêng vai
Người con gái mới mười chín tuổi
Em ơi.
Em có biết đâu
Ta khổ thế này
vì sao ?
Em biết đâu
Mỹ miếc, Ngô nghê gì ?
Khổ thân em mưa nắng đi về lủi thủi
Bóng chúng
đè lên
số phận
từng người
Em cúi đầu đi, mưa rơi
Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ.
Đất nước khó khăn này
sao không thấm được vào Thơ ?
Những tủ kính tôi dừng chân dán mũi
Các thứ hàng ế ẩm đợi người mua
Nhưng mà sách - hình như khá chạy
À quyển kia của bạn này - bạn ấy
Quyển của tôi tư lự nét đăm đăm
Nó đang mơ : - Nếu thêm cả miền Nam
Số độc giả sẽ tăng dăm bẩy triệu
Tôi đã biến thành người định kiến
Tôi ước ao tất cả mọi người ta
Đòi thống nhất phải đòi từ việc nhỏ
- Từ cái ăn
cái ngủ
chuyện riêng tư
- Từ suy nghĩ
nựng con
và tán vợ.
Trời mưa mãi lây rây đường phố
Về Bắc Nam tôi chưa viết chút nào
Tôi vẫn quyết Thơ phải khua bão gió
Nhưng hôm nay
tôi bỗng cúi đầu
Thơ nó đi đâu ?
Sao những vần thơ
Chúng không chuyển, không xoay trời đất ?
Sao chúng không chắp được cõi bờ ?
Non nước sụt sùi mưa
Tôi muốn bỏ thơ
làm việc khác
Nhưng hôm nay tôi mê mải giữa trời mưa
Chút tài mọn
tôi làm thơ chính trị.
Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ.
Em ơi ! - ta ở phố Sinh Từ
Em đương có chuyện gì vui hử
À cái tin trên báo - Ừ em ạ
Hôm nay bọn Mỹ miếc, lũ Ngô nghê
Chúng đang phải dậm chân đấm ngực !
Vượt qua đầu chúng nó,
mọi thứ hàng
Những tấn gạo vẫn vượt đi
Những tấn thư, tài liệu
Vẫn xéo qua đầu chúng, giới danh gì ?
Ý muốn dân ta
là lực sĩ khổng lồ
Đè cổ chúng mà xóa nhòa giới tuyến
Dân ta muốn trời kia cũng chuyển
Nhưng
Trời mưa to lụt cả gian nhà
Em tất tả che mưa cản gió
Con chó mực nghe mưa là rú
Tiếng nó lâu nay như khản em à
Thương nó nhỉ - nó gầy - lông xấu quá
Nó thiếu ăn - Hay là giết đi ư ?
Nó đỡ khổ - Cả em đỡ khổ.
Em thương nó - Ừ thôi chuyện đó
Nhưng hôm nay em mới nghĩ ra
Anh đã biến thành người định kiến
Mực ơi!
đừng oán chủ, Mực à!…
Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ.
Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc
Tai bỗng nghe những tiếng thì thầm
Tiếng người nói xen tiếng đời ầm ã.
- Chúng phá hiệp thương
- Liệu có hiệp thương
- Liệu có tuyển cử
- Liệu tổng hay chẳng tổng ?
- Liệu đúng kì hay chậm vài năm ?
Những câu hỏi đi giữa đời lỏng chỏng.
Ôi xưa nay Người vẫn thiếu tin Người
Người vẫn thường kinh hoảng trước tương lai
Người quên mất Mỹ là sư tử giấy
Người vẫn vội - Người chưa kiên nhẫn mấy
Gan người ta chưa phải đúng công nông
Người chửa có dạ lim trí sắt
Người mở to đôi mắt mà trông !
A tiếng kèn vang
quân đội anh hùng
Biển súng
rừng lê
bạt ngàn con mắt
Quân ta đi tập trận về qua
Bóng cờ bay đỏ phố đỏ nhà...
Lá cờ ấy là cờ bách thắng
Đoàn quân kia muôn trận chẳng sờn gan
Bao tháng năm đói rét nhọc nhằn
Từ đất dấy lên
là quân vô sản
Mỗi bước đi lại một bước trưởng thành
Thắng được chiến tranh
giữ được hòa bình
Giặc cũ chết - lại lo giặc mới
Đoàn quân ấy - kẻ thù sợ hãi
Chưa bao giờ làm mất bụng dân yêu
Dân ta ơi ! chiêm nghiệm đã nhiều
Ai có LÝ ? Và ai có LỰC ?
Tôi biết rõ đoàn quân sung sức ấy
Biết nhân dân
Biết Tổ Quốc Việt Nam này
Những con người từ ức triệu năm nay
Không biết nhục
Không biết thua
Không biết sợ !
Hôm nay
Cả nước chỉ có một lời hô:
THỐNG NHẤT
Chúng ta tin khẩu hiệu ta đòi
- Giả miền Nam !
Tôi ngửa mặt lên trời
Kêu một tiếng - bỗng máu trời rơi xuống
Vài ba tia máu đỏ rớt vào tôi
Dân ta ơi !
Những tiếng ta hô
Có sức đâm trời chẩy máu.
Không địch nào cưỡng nổi ý ta
Chúng ta đi - như quả đất khổng lồ
Hiền hậu lắm - nhưng mà đi quả quyết...
Hôm nay
Những vần thơ tôi viết
Đã giống lưỡi lê : đâm
Giống viên đạn : xé
Giống bão mưa : gào
Giống tình yêu : thắm
Tôi thường tin ở cuộc đấu tranh đây
Cả nước đã bầu tôi toàn phiếu
Tôi là người vô địch của lòng tin.
Sao bỗng đêm nay,
tôi cúi mặt trước đèn ?
Gian nhà vắng chuột đêm nó rúc.
Biết bao nhiêu lo lắng hiện hình ra.
Hừ ! Chúng đã biến thành tảng đá
chặn đường ta !
Em ơi thế ra
Người tin tưởng nhất như anh
vẫn có những phút giây ngờ vực
Ai có lý ? Và ai có lực ?
Ai người tin ? Ai kẻ ngã lòng tin ?
Em ơi
Cuộc đấu tranh đây
cả nước
cả hoàn cầu
Cả mỗi người đêm ngủ vẫn lo âu
Có lẫn máu, có xót thương, lao lực.
Anh gạch xóa trang thơ hằn nét mực
Bỗng mắt anh nhìn thấy ! lạ lùng thay !
Tảng đá chặn đường này !
Muôn triệu con người
muôn triệu bàn tay
Bật cả máu ẩy đá lăn xuống vực !
Anh đã nghĩ : không có đường nào khác
Đem ngã lòng ra
mà thống nhất Bắc Nam ư ?
Không không !
Đem sức gân ra !
Em ơi em !
Cái này đỏ lắm, gọi là TIM
Anh cho cuộc đấu tranh giành THỐNG NHẤT[2].
Hôm nay
Trời đã thôi mưa
thôi gió
Nắng lên
đỏ phố
đỏ nhà
Đỏ mọi buồng tim lá phổi
Em ơi đếm thử bao nhiêu ngày mưa !
Bây giờ
Em khuân đồ đạc ra phơi
Em nhé đừng quên
Em khuân tất cả tim gan chúng mình
phơi nắng hết.
Em nhìn
cao tít
trời xanh
Dưới phố bao nhiêu cờ đỏ !
Hôm nay em đã có việc làm
Lương ít - sống còn khó khăn !
Cũng là may…
Chính phủ muôn lo nghìn lắng
Thực có tài đuổi bão xua mưa
không thì còn khổ !
Em treo cờ đỏ đầu nhà
Lá cờ trừ ma
Xua được bóng đen chúng nó…
Đúng rồi ! Đó là công sức của dân ta
lùa mây đuổi gió
Những vết thương kháng chiến đỏ lòm
Đã mím miệng, lên da lên thịt.
Tôi bỗng nhói ở nơi lồng ngực
Em ơi
Chúng đốt phố Ga-li-ê-ni
và nhiều phố khác.
Anh đã sống ở Sài-Gòn thuở trước
Cảnh miền Nam thành một góc tim anh
Chúng đốt tận đâu
mà lửa xém tim mình
Tim nó bị thui đen một nửa
Từ dạo ấy
mà em chẳng rõ.
- Em hãy đỡ cho anh khỏi ngã
Đứng đây
Một lúc!
Cờ bay
đỏ phố
đỏ nhà
Màu cờ kia là thang thuốc chữa cho anh.
Em có thấy bay trên trời xanh
Hàng triệu tâm hồn?
Em ơi
Hôm nay
trời xanh
xanh đục
Nắng lên
đỏ phố
đỏ cờ…
Ta ở phố Sinh Từ
Em này
Hôm nay
đóng cửa
Cả nhà ra phố
mít tinh
Chúng ta đi
nổi bão
biểu tình
Vung cờ đỏ
hát hò
vỡ phổi.
Hỡi những người
thành phố,
thôn quê
Đói no lành rách
Người đang vui
Người sống đang buồn
Tất cả!
Ra đường!
Đi!
hàng đoàn
hàng đoàn
Đòi lấy tương lai:
HOÀ BÌNH
THỐNG NHẤT
ĐỘC LẬP
DÂN CHỦ
Đó là tim
là máu đời mình
Là cơm áo! Là ái tình
Nhất định thắng!
1955
Con người Trần Dần
Cuối tháng 2 năm 1956, báo cáo Krút-Sép tại Đại Hội 20 ĐCS Liên Xô chống Stalin là một quả bom trong khối XHCN. Những văn nghệ sĩ bị giết, tù được phục hồi danh dự. Hà Nội chậm chân, TD vẫn trong Hoả Lò.Tháng 5, Mao phát động ‘’ Trăm Hoa đua nở’’. Tháng 6, nổi dậy ở Ba Lan. Tháng 8, Hội Văn Nghệ Việt Nam cũng học tập chống tệ sùng bái cá nhân Stalin như ở Liên Xô. Tháng 9, Ban Chấp Hành Trung Ương họp hội nghị 10, trọng tâm chính trị là Sửa Sai trong CCRĐ. Ngày 15, Nhân Văn số 1 ra đời, có bài của Hoàng Cầm Con người Trần Dần, đề phụ là Tiến đến việc xét lại mộtvụ án văn học : Trần Dần.
Nhân văn, ngày 20 tháng 9 năm 1956, trang 2.
Tiến tới xét lại một vụ án văn học:
Con người Trần Dần
Hồi ký của Hoàng Cầm
Ít lâu nay, nhất là trong giới văn nghệ, vấn đề Trần Dần được nhiều người nhắc tới. Đó không phải là chuyện ngẫu nhiên, mà chính là vì vấn đề Trần Dần không còn là một vấn đề riêng của anh hay của một số người nào, mà là một vấn đề chung, có liên quan đến quyền chính đáng tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do sáng tác của tất cả mọi người.
Theo tinh thần đó, chúng tôi đăng bài sau đây.
L.T.S.
Lần đầu tiên tôi biết Trần Dần là trong một trại hè của các đoàn văn công quân đội năm 1951. Dáng người thấp, hơi thô, tay chân chắc nịch, lúc nói chuyện thường ồn ào, giọng cười thẳng thắn, ròn rã. Đôi mắt sếch với cặp mày rậm làm cho khuôn mặt anh dữ tợn, nhưng đến khi anh há toác mồm ra cười thì trông lại như một đứa trẻ con.
Tôi biết tiếng anh thì từ lâu. Ở bộ đội Sơn La, từ đầu năm 1947, nổi tiếng có một anh Trần Dần nào đó thường vẽ và làm thơ có nhiều cái rất lạ, anh em văn nghệ xung quanh thì rất thích, nhưng đồn rằng bộ đội thì không hiểu và một số cán cán bộ chính trị ở đơn vị thì lấy làm bực mình.
Tới trại hè 1951, các đoàn văn công nỗ lực rèn luyện để sắp sửa phục vụ một chiến dịch lớn. Trần Dần phụ trách huấn luyện cho mấy trăm anh chị em: sáng tạo đạo diễn và diễn viên. Trong bóng rợp một rừng nứa, giọng anh rủ rỉ như lời tâm sự, giảng về văn nghệ nhân dân. Văn nghệ do dân, vì dân, có Đảng lãnh đạo. Giọng anh thấm thía từng ngày lên lớp. Mấy trăm anh chị em lần đầu tiên được học một tài liệu dài đến gần hai tháng, đều vui trong lòng như một người đi trong đêm rét, chợt nhìn thấy lửa ấm của một túp nhà. Học xong tài liệu văn nghệ nhân dân, anh chị em say sưa công tác hơn vì người giảng viên Trần Dần đã thổi vào tâm tư mọi người một cái tự hào dân tộc. Đến bây giờ tôi còn nhớ hai câu Lỗ Tấn mà Trần Dần đọc ra để dẫn chứng cho tài liệu:
Hoành mi lễnh đối thiên phu chỉ
Phủ thủ cam vi nhụ tử ngưu
Học xong phần lý luận, có thể nói hầu hết anh chị em văn công đều yêu mến Trần Dần như một người bạn từ lâu lắm. Những người có chuyện riêng gỡ mãi không ra, đều tìm đến hỏi Trần Dần. Một anh sắp lấy vợ, một chị bị ép lấy chồng, một diễn viên già có vợ ở vùng tạm bị chiếm, đều đến tìm ở Trần Dần – không phải là một câu giả lời thoả đáng – nhưng chính là một sự an ủi, một câu nói chí tình, và để nghe ở anh cái giọng cười quen thuộc, giọng cười vô tư, rất yêu đời.
Dần dần, anh chị em gọi đùa Trần Dần là “thầy tướng” và lắm khi tin anh như một người đau khổ ngày trước tin ở số mệnh, đã đặt cho anh một cái tên “Trần Dần cốc tử”.
Hồi ấy Trần Dần yêu một nữ diễn viên văn công. Vốn tính cương trực, lỗ mãng, anh không biết cách nào khéo léo để lấy lòng yêu của người đàn bà. Anh không biết nói đẹp, nói hay, chỉ non thề bể, xem “lá rụng, hoa tàn” để vừa ý một cô gái rất đỏng đảnh. Gặp cô, anh “tấn công” luôn, rất thô kệch. Cô ấy sợ, và chạy trốn. Anh đuổi không kịp.
Rồi anh thất vọng to, và cũng biết khóc. Một lần bất chợt anh ôm đầu khóc, tôi kéo mấy anh bạn vào xem : “Vào đây xem voi chảy nước mắt các cậu ơi!”. Mãi về sau, hình ảnh cô gái đó đột hiện lên, tươi roi rói, đẹp và anh dũng trong những trang đầy nhiệt tình của cuốn truyện Người người lớp lớp.
Sau chiến thắng Điện Biên phủ, Trần Dần thức thâu đêm suốt sáng để viết bản thảo lần thứ 3 cuốn truyện về những người đã sáng tạo ra chiến thắng lịch sử lớn lao đó. Dạo ấy, tôi thấy anh gầy rộc đi, mắt trũng trong một quầng thâm rộng. Nhưng mắt anh có những tia sáng mới. Anh biết đang luyện ngòi bút cho thật sắc sảo, “có sắc sảo mới diễn tả được con người và cuộc đời”. Anh rất ghét lối viết dễ dãi, tạm bợ, tả bộ đội chỉ thấy súng nổ, lửa bốc, chỉ thấy uỳnh oàng mà chẳng thấy người. Anh gọi những loại văn đó là: văn chương khói lửa mịt mù. Nhìn vào trang sách, độc giả tìm kiếm mãi mà vẫn chưa thấy một người, chưa thấy việc đời, chỉ thấy lổn nhổn những bộ máy lắp đi lắp lại và một lô danh từ, hình ảnh trống rỗng, thùng rỗng kêu to.
- Nhưng cái hướng chính của tôi không phải là tiểu thuyết. Hướng đi của tôi là thơ. Tôi sẽ tìm tòi trong thơ và cố gắng tạo ra một lối diễn tả riêng biệt – không phải lập dị – nhưng độc đáo.
Trần Dần đã nói với tôi như vậy sau khi anh viết xong Người người lớp lớp. Hồi đó, anh có đưa tôi xem một tập thơ làm từ lâu: Tiếng trống tương lai.
Đọc lần đầu tiên, tôi không thích. Tôi cho Trần Dần là lập dị. Đọc lần thứ hai, thứ ba, tôi vẫn không thấy thích, nhưng dần dần tìm ra được nhiều cái mới lạ, khác với nếp cũ thông thường. Tuy nhiên, tôi vẫn không thích cái lối thơ ấy. Dần dà, đọc thêm nhiều bài thơ anh làm về sau, tôi càng cảm thấy “cái anh chàng này khác thường”. Khác thường, theo ý tôi, chưa chắc đã là hay. Dù sao đọc thơ Trần Dần, rồi suy nghĩ nhiều về trách nhiệm người làm thơ trước cuộc đời: đi sâu vào đời sống có suy nghĩ của con người, tìm cách diễn tả riêng, tạo ra một thế giới riêng cho thơ của mình. Tôi thấy thơ Trần Dần có phần đau xót, u ám, nhiều khi rất buồn vừa cộc cằn lại vừa có cái tự hào sôi nổi, nhiệt tình, thẳng thắn, táo bạo.
Nhưng giọng thơ của anh vẫn không lọt được vào tâm hồn tôi – một người làm thơ theo một dòng khác. Dù sao tôi vẫn trân trọng và quý mến những cái tìm tòi của Trần Dần trong thơ. Tôi cũng nghĩ như anh thường nói: Mỗi người làm thơ một kiểu. Có thơ như tiếng sáo, có thơ như tiếng kèn, có thơ tiếng trống. Đừng bắt thơ ai cũng phải giống ai. Có thế mới thành một cuộc “hoà âm” lớn của thi ca. Độc giả của thơ cũng ví như những người xem xiếc. Có người thích kiểu tung cầu, kiểu đứng trên lưng ngựa. lại có người thích xem dạy hổ, leo giây. Nhiều khi sợ đến rùng mình, nhắm mắt. Mỗi dòng thơ thích hợp cho một loại độc giả. Có như thế mới trăm hoa đua nở được. Gò bó th theo ý thích chủ quan của một vài người, thơ sẽ thành hoa giấy đóng hộp bầy trong tủ kính.
Hồi đó tôi chưa biết Mai-a-cốp-sky. Khi Hoà bình lập lại, về Hà Nội, đọc Mai-a, tôi thấy hơi thơ và cách diễn tả của Trần Dần có nhiều chỗ giống Mai-a. Tôi trách anh:
- Sao anh lại bắt chước Mai-a? Bắt chước thì không thể nào độc đáo được.
Trần Dần nói:
- Tâm hồn có giống nhau thì mới ảnh hưởng nhau sâu sắc được chứ! Mình bị ảnh hưởng Mai A thực, nhưng cái chính là mình chịu ảnh hưởng thực tế Cách mạng Việt Nam. Do đó mình sẽ dần dần trở thành mình.
Viết xong Người người lớp lớp, Trần Dần được phân công viết phần thuyết minh cho cuốn phim Chiến thắng Điện Biên Phủ và anh được cử sang Trung Quốc làm nhiệm vụ đó. Nhưng đi kèm bên cạnh anh lại là một cán bộ chính trị có quyền tối hậu quyết định. Anh cán bộ này, đáng lẽ phạm vi công tác là góp ý kiến vào nội dung bản thuyết minh và bảo đảm cho nó không phạm những sai lầm về đường lối chính sách của Đảng trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, thì đã lợi dụng uy quyền của mình đi quá xa vào phạm vi văn học: bắt Trần Dần phải viết như ý mình, từng câu từng chữ, lạm dụng danh từ chính trị khô khan rỗng tuếch để nhét cho kỳ được vào bản thuyết minh.
Đầu tiên, Trần Dần rất phục tùng người cán bộ chính trị khi dự thảo thuyết minh, và hoàn toàn theo sát những vấn đề chính trị sẽ đặt ra khi thuyết minh. Đến khi thấy anh cán ấy “lên gân” và thọc bàn tay cứng lạnh vào phạm vi viết văn thì Trần Dần bắt đầu có phản ứng. Nhưng anh vẫn bình tĩnh, đề nghị cấp trên xét lại vấn đề. Đến khi “anh cán bộ chính trị vẫn là tối hậu quyết định cả từng câu chữ” thì Trần Dần xin thôi không làm công việc đó nữa, nhường cả phần “văn chương” cho đồng chí cán bộ.
Sau việc này sự mâu thuẫn giữa văn nghệ sỹ và cán bộ chính trị bắt đầu phát triển khá mạnh trong con người Trần Dần. Anh vẫn cố dẹp đi, nhiều lúc anh thơ thẩn ít cười ít nói nhưng vốn là người chân thực – cái chân thực nhiều khi đến thô lỗ – lắm khi anh đã cục cằn, thốt ra những lời gay gắt thiếu lịch sự. Anh thường bàn với anh em, khi thấy nhiều thắc mắc quanh việc này: “Ôi già! cái con số cán bộ chính trị bóp chết nghệ thuật thì không ít đâu. Làm thế nào để Trung ương Đảng biết rõ tình hình và đề ra những chính sách cụ thể cho Văn nghệ sỹ, đó là nhiệm vụ của mỗi đứa chúng mình. Tin Đảng – yêu Đảng, đi theo Đảng đến cùng thì phải có phần góp ý kiến cho Đảng, Đảng cần nhiều trái tim, chứ Đảng không cần đến những con người máy, giật thế nào làm thế ấy”.
Đó là động lực thúc đẩy Trần Dần, rồi đến Tử Phác, Đỗ Nhuận, Hoàng Cầm, Trúc Lâm, Hoàng Tích Linh, và rất đông anh em công tác văn nghệ trong bộ đội dự thảo ra bản “đề nghị Chính sách Văn nghệ” trình bày với cấp trên, hồi đầu năm 1955, tại Hà Nội.
Bản dự thảo sắp được thông qua. Một vài cán bộ cao cấp trong quân đội tỏ ý tán thành những điểm chính trong bản đề nghị đó, và nhất là hoan nghênh tinh thần xây dựng của bản đề nghị.
Trong thời gian bản dự thảo còn bàn đi bàn lại, thì bỗng có một người đàn bà đến rất nhanh trong đời sống riêng của Trần Dần. Một chị ngoài 20 tuổi, đi đạo, ở Hà Nội mới giải phóng. Trần Dần gặp người đó, và hai người yêu nhau. Lúc mới yêu, người ta dễ say. Trần Dần lại là người chưa từng được yêu bao giờ, dù anh đã gần 30 tuổi. Anh mê man với tình yêu đó buổi đầu và đã đôi ba lần làm trái với nội quy sinh hoạt của Bộ đội. Cái tật xấu nhất của Trần Dần là thường bừa bãi trong sinh hoạt: quần áo, sách vở, vất lung tung, bạ đâu ngủ đấy. Trong sự giao thiệp với người đàn bà này, anh cũng rất bừa bãi. Mới quen lần đầu, đã điềm nhiên vác ba lô đến ở chơi nhà người ta vài ngày, rồi cười đùa ầm ĩ. Anh đã xấn xổ đòi tình yêu. Người thiếu nữ có lẽ vì sợ đôi mắt sếch của anh, nên đã đi từ nhượng bộ này đến nhượng bộ khác, và đến lúc nhượng bộ cuối cùng: Chị đã trao cả cuộc đời mình cho anh. Nhân lúc đang ốm yếu, được phép nghỉ, anh đã đến ở nhà người yêu hàng nửa tháng liền, và anh đề nghị cấp trên cho anh được cưới.
Một người con gái mới lớn, đã sống trong không khí tôn giáo, sống trong vùng tạm chiếm lâu năm, lại có được uỷ quyền cho thuê mấy cái nhà, bây giờ bỗng dưng yêu một anh cán bộ quân đội. Vấn đề gì đặt ra ở đây?
Trần Dần vẫn yêu đắm đuối và ngang ngạnh. Anh đề nghị đơn vị đi sát giúp đỡ anh. Lý lịch người thiếu nữ, theo ý anh, không có gì là mờ ám. Một công dân còn trẻ, chưa hiểu việc đời lắm, trình độ chính trị rất thập, nhưng biết yêu Lá cờ vinh quang của Tổ Quốc, ngày giải phóng Thủ đô, cũng đã chạy ra đường, vẫy chào Quân Đội, miệng hoan hô không biết mỏi.
Trần Dần càng ngày càng không thể rứt được tình yêu dù anh biết mối tình đó sẽ gặp nhiều trắc trở. Quả nhiên: không ai “tán thành” tình yêu của anh, trừ một vài người bạn thân. Có người lên giọng đạo đức:
- Thằng Dần sa ngã rồi. Mới về Hà Nội đã hư hỏng, hoà bình chủ nghĩa thật.
Có người nghiêm nét mặt, đề cao cảnh giác:
- Cẩn thận! Kẻo sa lưới địch! Nó đang âm mưu tấn công vào hàng ngũ ta.
Tình yêu của Dần với cô gái Hà Nội đã làm cho anh em chung quanh bàn tán sôi nổi. Nhưng không ai chịu khó đi tìm chân lý. Những câu chuyên nói cho vui mồm, những lời dèm pha, chế diễu, những “nhận định” cao siêu, những “lập trường”, “quan điểm”, những giai cấp tính, tư tưởng tính, “tư sản” và “vô sản”v.v... Người ta rút những câu to lớn trong hàng chục pho sách chính trị để quy kết cho một mối tình.
Trần Dần gục mặt vào tay, đau đớn. Tôi đã gặp anh ngồi lặng hàng giờ trong một căn phòng quần áo bàn ghế bừa bãi ở nhà người thiếu nữ đó. Giữa anh và chị, có một niềm tủi cực, cay đắng, xót xa. Chị đã thôi không trang điểm, xếp áo màu vào tủ, có cái thì đem cắt ngắn, nhuộm nâu. Đã tan đi từ lâu lắm tiếng cười ròn rã. Trong giọng nói đã thấy ngấn nước mắt. Có vài căn nhà được uỷ quyền cho thuê, chị đã nghe lời anh đem giao lại cho uỷ ban nhà cửa. Đầu tiên, khi nghe người yêu bàn việc đó, chị K. ngạc nhiên, mắt đen tròn mở to:
- Thế rồi sống bằng gì hở anh? Sao lại giả nhà cho Chính phủ hở anh? – Chính phủ có kết tội những người có nhà cho thuê không ở anh?
Rất nhiều câu hỏi. Anh đã bàn:
- Không! Chính phủ vẫn bảo đảm cho người có nhà cho thuê. Nhưng chúng mình phải làm lấy mà sống. Không nhờ vào đâu cả, ngoài bốn cánh tay của mình, đủ sống thì thôi.
Trần Dần hết sức giải thích cho người yêu và hướng người yêu vào con đường “làm lấy mà sống” “đừng nhờ vả ai”. Hình ảnh người con gái đi tìm việc trong mưa, về sau tôi gặp lại rất đau xót, trong bài thơ Nhất định thắng in trong tập Giai phẩm mùa xuân 1956.
Mối tình đó kéo lê những ngày lo sợ, buồn phiền. Trần Dần không ngờ yêu lại khổ đến thế này. Cùng thời gian đó, bản đề nghị chính sách Văn nghệ thảo luận chưa xong. Giời sang hè, mùa mưa tầm tã. Trần Dần và người yêu vẫn sống trong một góc nhà thiếu ánh sáng. Bữa cơm không vui. Bụi phố Sinh Từ rắc vào nhà như sương, bụi phủ trắng mặt bàn ghế. Ăn vội vàng, Trần Dần lại về đơn vị để rồi lại được nghe những lời phê phán, những tiếng sì sào. Và người thiếu nữ lại chân đất, áo ngắn, đi tìm việc làm, có hôm từ sáng đến tối mới về:
Em đi trong mưa... cúi đầu... nghiêng vai (1)
Đến ngày họp bàn về dự thảo chính sách, Trần Dần được anh em cử ra trình bày. Nguyện vọng của bao nhiêu văn nghệ sĩ quân đội. Làm thế nào để sáng tác hay, phục vụ được sâu sắc. Anh nói say mê, nhiệt tình. Trong cách nói, nhiều khi bốc. Mặt anh khi đỏ gay, khi tái lại:
- Giả văn nghệ cho anh em cho văn nghệ sĩ! Phân rõ ranh giới giữa cán bộ chính trị và Văn Nghệ Sĩ! Văn nghệ sĩ phải có sự lãnh đạo của Đảng, nhưng không thể biến thành cái máy v.v...
Đột nhiên, trong không khí hào hứng của gần ba mươi anh em văn nghệ sĩ đang sẵn sàng cởi mở hết để xây dựng một trong những chính sách lớn của Đảng, bỗng có một câu quật lại:
- Tinh thần bản đề nghị chính sách này là một thứ tư tưởng tự do của tư sản – nó chứng tỏ tư tưởng tư sản đã bắt đầu tấn công vào các đồng chí!
Giá câu nói ấy ở mồm một người thường thì cũng sẽ thường thôi. Nhưng lại là ở một cán bộ có đủ thẩm quyền xét lại hay bác bỏ những đề nghị của văn nghệ sĩ, thì bắt đầu có một sự động cựa lớn. Những người trước kia tán thành bản dự án bỗng trở nên hoang mang.
Thêm vào đó, câu chuyện tình chưa được công nhận. Bóng người con gái hiền lành, hay khóc, người yêu của Trần Dần bỗng thành một thứ gì ám ảnh: Một bóng ma đáng sợ. Người nào muốn tỏ ra “lập trường vững chắc” không bị “tư sản tấn công” đều phải ghét người con gái ấy đi. Tình cảm day dứt đến cực độ, như một cành cây non bị quật lên quật xuống trong trận bão khổng lồ, Trần Dần không còn biết bộc bạch cùng ai.
Nói gì bây giờ cũng khó lọt tai những người “vững lập trường” lòng lim dạ sắt. Trần Dần gần như phát điên. Hết đứng lại ngồi, lại chạy ra phố, lại về đơn vị, ở đâu anh cũng thấy những dây trói vô hình mỗi ngày một thít chặt vào trái tim anh.
Cùng một thời gian ấy, những sự kiện lớn trong phong trào Văn nghệ rồn rập tới: Phê bình tập thơ Việt Bắc, Trần Dần nhận định thơ Tố Hữu nhỏ bé nhạt nhẽo trước cuộc sống vĩ đại và mắc một sai lầm nghiêm trọng là sùng bái cá nhân, thần thánh hoá lãnh tụ.
Và truyện Người người lớp lớp phát hành hàng vạn cuốn được hoan nghênh. Và cuộc phê bình Vượt Côn đảo cũng sôi nổi không kém cuộc phê bình Việt Bắc. Trần Dần viết một bài phê bình Vượt Côn đảo giọng trâm trọc cục cằn, khiến nhiều người phản đối. Trong một không khí hết sức căng thẳng của văn nghệ lúc bấy giờ, lại bị quy kết là thoát ly chính trị, tư sản tấn công, hoà bình chủ nghĩa v.v... rất nhiều anh em đều bị cuốn vào một chỗ mịt mù, chân lý gần như bị ngập bởi các thứ thành kiến, chụp mũ hung hăng. Con run bị xéo quằn lên. Trần Dần có lúc oang oang ăn to nói lớn, có lúc tranh luận sôi nổi, có lúc nóng nảy văng tục, có lúc lần lì ngồi một só, khi thì ngâm thơ giọng buồn thấm thía, khi lại cao đàm hùng biện, khi lại vò đầu bứt tóc, nhiều lúc ứa nước mắt, ôm mặt nằm cò queo một mình, có lúc nấc lên, đầu bù tóc rối.
Tấm thảm kịch đã đi đến một chỗ thắt nút quằn quại. Người yêu của anh bắt đầu có mang. Và đột nhiên anh bị giữ ở đơn vị để kiểm thảo cùng với Tử Phác, quanh quẩn trong một gian phòng. Một tháng, rồi hai tháng, ba tháng. Những ngày đầu tiên, như cơn sốt rét đột ngột đến, anh kêu rên:
Tôi có tội gì? Tôi có tội gì mà giữ tôi lại? Người yêu anh bỗng thấy anh không về nữa. Những trận ốm nghén đầu tiên đã quật chị xuống như con bệnh nặng. Mặt choắt lại, người chỉ còn da với xương. Một mình ở một căn nhà bừa bộn với một con chó gầy còm, không cha mẹ, không anh em, không bạn bè, chỉ có bà hàng xóm bán thuốc thỉnh thoảng chạy đi chạy lại nấu cho bát cháo. Tôi đến gặp chị mếu máo, trông già đi hàng chục tuổi. Chị hỏi:
- Sao anh Dần không về với tôi nữa hở anh?
Tôi giải thích: Anh ấy bận công tác ít lâu thôi. Chị đang ốm, có cần gì, chúng tôi sẽ giúp chị.
Chị oà lên khóc:
- Bộ đội có cho tôi lấy anh ấy không?
Tôi lại khuyên nhủ:
- Có chứ! Ai cấm đâu!
Chị bỗng khóc to hơn:
- Phải rồi, không ai cấm tôi và anh ấy lấy nhau. Bộ đội người ta không cấm nhưng anh Dần bỏ tôi rồi! Tôi bụng mang dạ chửa thế này, anh ấy bỏ tôi rồi!
Rồi chị gào lên:
- Bạc như vôi ấy giời ơi! Anh ấy không muốn ăn ở với tôi nữa thì cứ bảo cho tôi biết, việc gì phải lấy cớ công tác này công tác nọ.
Tôi thấy chua chát lạ lùng, nhưng chỉ nói tránh đi:
- Anh ấy bận công tác thật đấy mà!
Chị vẫn một mực:
- Anh ấy nói dối! Cả anh nữa anh cũng nói dối!
Thôi tôi chết đi! Tôi chết đi cho anh ấy đỡ bận! Mà đỡ phiền cả các anh...
Một số bạn thân của Trần Dần phải cắt canh nhau đến ở đấy, giải thích, an ủi, giúp đỡ một người con gái mới yêu lần đầu mà đã bị dao cắt ruột gan.
Trong những ngày u uất đó, anh không được biết tin người yêu, ngồi vò võ trong phòng kiểm thảo. Qua lúc đầu tiên đột ngột, tâm trí anh dần dần bình tĩnh lại.
Ba tháng hết nằm lại ngồi, anh đã trải qua một đoạn đời đau khổ. Nhưng ở Trần Dần luôn có tình yêu sự sống rất mãnh liệt nó đã ngăn anh không đến chỗ huỷ hoại cuộc đời còn rất trẻ của mình. Anh viết bài thơ Nhất định thắng (vào khoảng tháng tư năm 1955).
Một lần tôi vào thăm anh, với một món quà nhỏ: một túm nhãn tôi mua ngoài phố.
Anh vồ lấy ăn ngấu nghiến rồi cười oang oang: “Thi đua với các cậu làm thơ nhé!”
Thấy tôi rơm rớm nước mắt, anh bỗng hạ thấp giọng:
- Đừng buồn cho mình. Mình cũng nhiều khuyết điểm lắm: có tư kiêu, có nóng nảy, có tự do vô kỷ luật thật.
Nhưng không bao giờ không trung thành với Đảng, dù bị mắc tiếng oan dù bị kỷ luật. và mình tin những cái độc đoán của một vài cá nhân rồi đây sẽ không còn nữa. Đảng là một khối sáng suốt. tương lai chúng mình, Đảng sẽ đảm bảo, dù bây giờ Đảng có thể là chưa hiểu mình.
Anh lại đọc thơ Mai-a, đọc truyện Sê-cốp, Goóc-ki. Anh lại nằm nghiền ngẫm tập truyện Đất vỡ hoang và Trên sông Đông êm đềm của Sô-lô-cốp.
Cánh cửa có chắn song sắt khép lại, tôi lùi ra và cảm thấy gian phòng kia không còn chật hẹp, tù hãm nữa đối với một con người đầy lòng tin như Trần Dần.
Hết 3 tháng kiểm thảo, anh lại được về với người yêu. Chị ấy lúc đầu còn giận dỗi:
- Thôi anh đi đâu thì đi, mặc xác tôi. Nhưng chẳng bao lâu, mắt lại sáng, má lại tròn, tiếng cười trở lại về trong gian nhà bề bộn những bàn ghế quần áo và ống chỉ, dao kéo. Chị đã bắt đầu may sẵn áo cho đứa con đang cựa trong bụng. Chị đã xin được việc làm:
Trời đã thôi mưa ... thôi gió
Đã thấy nắng lên trên màu cờ đỏ (2)
Rồi Trần Dần đi tham quan Cải cách Ruộng đất. Bài thơ Nhất định thắng gửi Lê Đạt giữ từ lâu, anh cũng gần như quên đi, óc còn mải nghĩ về những mặt khác của cuộc sống để chuẩn bị cho những bài thơ khác sẽ ra đời.
Đã gần đến Tết ta. Một số anh em đã thấy say sưa sáng tác. Tôi chạy đi chạy lại gom góp sáng tác của dăm ba người bạn và nghĩ rằng phải xuất bản một tập văn thơ mùa Xuân để đóng góp với mùa xuân mới của văn nghệ đang sắp nở.
Và nhận thấy cái kỷ luật “cấm sáng tác” do 1 vài người công bố đối với Trần Dần là một điều vô lý, sai chính sách của Đảng, và đang lúc Trần Dần đi công tác xa tôi không biết anh có sáng tác gì mới không, tôi bèn tìm lại bài thơ Nhất định thắng và cho đăng vào cái Giai phẩm mùa xuân mà tôi là người soạn bài.
Cứ để bông hoa đó nở thì nào đã hại gì ai mà có thể có lợi. Nhưng hoa chưa kịp nở, thì đã bị rập vùi. Giai phẩm mùa xuân bị kết tội, bài thơ Nhất định thắng bị kết tội. Người ta cho rằng cái bè phái độc quyền trong giới văn nghệ bị công kích “bắt đầu từ cuộc phê bình thơ Việt Bắc đã tìm cách giả thù:
Trần Dần – Tử Phác đều bị tống giam.
Cái nút thứ hai khốc liệt hơn, của tấm thảm kịch Trần Dần.
Những ngày mùa xuân 1956, tôi đau đớn như có búa nện vào óc, có đinh đóng vào tim, và có dây trói chặt vào chân tay.
Mùng hai Tết, tôi ăn bữa cơm cuối cùng với Trần Dần. Giữa hai tợp rượu, đã thấy những con bão đe doạ, mà lần này chắc ghê gớm hơn lần trước. Chị K... không hiểu biết gì vẫn vui vẻ ngồi bóc bánh, rồi xếp dọn ba lô cho chồng để anh ăn xong thì lại đi công tác.
Không khí giới văn nghệ như sắp sửa có trận bão. Không biết từ đâu cái tin “Trần Dần phản động” “trong Giai phẩm có mấy tên phản động” bỗng truyền ra rất nhanh. Những tin không hay rồn đến, bổ vây tôi và anh Trần Dần còn đang ăn rở miếng bánh trưng Tết. Chị K... tái mặt, để rơi đôi đũa, nước mắt đã vòng quanh:
- Thế nào thế các anh? Phen này lại bị bắt nữa thì tôi sống thế nào được? Các anh rủ nhau làm những chuyện gì mà khổ sở thế không biết!
Trần Dần cũng tái mặt, anh cắn chặt môi, sốc ba lô lên vai, an ủi vợ:
- Em đừng lo. Tin đồn bậy bạ đấy thôi. Anh đi công tác đây. Gần đến tháng đẻ, em đừng lo nghĩ gì cả.
Nhưng chị K... không thể bình tĩnh được. Chị tiễn chồng ra cửa, khóc oà lên:
- Anh đi... anh có về nữa không, anh ơi!
Cổ tôi bỗng nghẹn nước mắt. Tôi cố cười:
- Ồ cái chị này lẩn thẩn. Thôi để anh ấy đi nào...
Trần Dần ngửng mặt bước đi. Nhìn anh đi rồi, ruột tôi bỗng thắt lại:
- Chuyến này mà nó có làm sao thì chỉ tại mình. Đang tự dưng bày ra cái giai phẩm. Nhưng bên cạnh cái lo sợ đó, riêng tôi vẫn thấy tự hào về Giai phẩm. Tuy chưa phải là những sáng tác xuất sắc, nhưng ít ra nó cũng nêu được một vấn đề gì. Có vấn đề xã hội trong thơ Văn Cao, có vấn đề chống công thức trong thơ Lê Đạt. Và tuy tôi không hoàn toàn thích bài thơ Nhất định thắng của Trần Dần, tôi cũng đưa in, vì tôi thấy ít ra nó cũng khác với lối làm thơ một chiều. Dù sao thì ít ra cũng có vài ba con cá quẫy mạnh trên mặt ao tù bấy lâu phẳng lặng...
Từ những ngày Tết mưa lã chã, cái bè phái độc quyền trong văn nghệ bắt đầu họp đứng họp ngồi để tìm cách đối phó với cái Giai Phẩm. Một không khí ngạt thở đè nặng lên những anh em có bài trong tập sách đó. Rồi đến một đêm, bài thơ Nhất định thắng bị đem ra luận tội.
Y như một xóm đang đêm tối bỗng có tiếng kêu cướp ! cướp ! cướp đã đến. Lập tức mọi người mắt nhắm mắt mở, vơ lấy giáo, mác, gậy gộc, chạy sô ra ngõ, gặp một cái bóng đen. Cả làng hầm hè đánh. Roi gậy, giáo, mác, gạch củ đậu thi nhau nện xuống cái bóng người. Một trận đòn nhừ tử. Cái tâm lý đánh cướp này là tâm lý chung của những người muốn bảo vệ nhà cửa, xóm làng của mình. Cái bóng đen gục xuống. Mọi người lại về nhà đi ngủ. Sáng hôm sau, mặt trời mọc, đi ra ngõ thì ra cái “bọn cướp” đó chỉ là một anh đang đêm nực nội mò đi hóng mây hóng gió.
Những người đã cầm gậy đánh, đều rất có lý:
- Hô lên là cướp thì ông đừng giã bỏ mẹ đi à?
Họ là những người yêu làng yêu nước, họ không có lỗi gì. Nhưng lỗi ở những ai hô cướp?
Kẻ nào hô ra hai tiếng “phản động” đầu tiên để gọi cả làng ra đánh chết Trần Dần?
Tôi có suy nghĩ mãi, lòng như dao chém. Thôi thế là đêm luận tội này đã đóng cái án tử hình xuống một bài thơ, xuống một con người, đồng thời là một sự đe doạ nặng nề chung cho anh em văn nghệ sĩ đang muốn tìm những lối sáng tác khác với cái bè phái kia.
Sau cuộc lên án đó, tôi không được biết tin gì về anh. Tôi đoán biết lần này thì anh sẽ thực sự ngồi tù. Vợ anh gần đến tháng ở cữ, vật vã khóc ngày khóc đêm vì quả nhiên, sau cái ngày mùng 2 Tết ấy, anh đi không về nữa.
Tôi cũng ân hận hết ngày ấy qua ngày khác, luôn luôn thấy mình là thằng làm hại bạn:
- Dần ơi, bây giờ mày nằm trong nhà tù nào, mày có trách tao không?
Lúc này tôi lo sợ hơn lần trước anh bị giam lỏng hơn ba tháng. Lần này cái bè phái độc quyền văn nghệ kia nó quyết liệt hơn trước, trong không khí văn nghệ đã nghe thấy máu, lửa. Tôi lo ngày lo đêm đến con người anh. Lần trước, anh còn chịu được và còn có thể bình tĩnh. Đến lần này, liệu anh có đủ can đảm chịu đựng hay không? Tôi đã nghĩ đến cái phút đau đớn cực độ, anh không thiết sống nữa thì một lưỡi dao, một cái đập đầu vào tường... tôi sẽ mất một người bạn, và chúng ta mất tác giả Người người lớp lớp, tương lai mất một nhà thơ.
Khi chị K... ốm nghén, bơ vơ trong một căn nhà, chống gậy sang nhà hàng xóm xin từng ngụm nước, là lúc người yêu của chị đi 3 tháng không về.
Khi chị K... đau quằn quại, cho ra đời đứa con gái đầu tiên của một mối tình cay đắng, là lúc người yêu của chị lại đi... không biết bao giờ về.
Đứa bé ra đời, còm rom như một con mèo ốm. Nó quặt quẹo, sài đẹn mấy lần tưởng chết. Chị K... nuôi con bằng nước mắt nhiều hơn bằng sữa.
Tin anh vẫn mịt mù. Lần này chị không còn hiểu lầm anh là “phụ bạc” nữa, chị đã biết sự thực. Chị không oán thán nữa, chị ôm con mà khóc. Có lần tôi đến thăm, chị kể lể:
- Giá đừng biết nhau, đừng yêu nhau thì anh ấy đỡ khổ, tôi cũng đỡ khổ và không đến nỗi phải cho ra đời một đứa bé khổ sở thế này. Liệu nó có mất bố không hở anh? Liệu tôi có goá chồng sớm không hở anh?
Tôi như bị kim chích vào tim. Bé đứa bé thấy nhẹ bỗng, mặt mũi nó nhăn nhúm, méo mó, tôi đã khóc và suy nghĩ rất lâu về giá trị con người. Đặt tên cháu bé là gì để kỷ niệm những ngày bố cháu và cả nhân phẩm văn nghệ sĩ bị trà đạp xuống bùn đen?
Hôm nay
Trời đã thôi mưa thôi gió
Nắng lên đỏ phố đỏ nhà
Đỏ mọi buồng tim lá phổi
Em ơi! Đếm thử bao nhiêu ngày mưa ... (3)
Sau khi học tập nghị quyết của Đại hội lần thứ 20 Đảng Cộng sản Liên Xô, cái tin vui từ lòng tôi tự dưng to ra:
- Trần Dần chắc sẽ được về!
Quả nhiên, một buổi chiều sang hè anh đã về. Tin đó đến với tôi không đột ngột lắm, vì tôi tin chắc ở ánh sáng Đảng Cộng sản Liên Xô, tin ở chân lý mà Đảng ta nắm rất vững.
Anh đã về. Gặp anh, tôi không nói gì được. Vẻ mặt anh vẫn vui, nhưng có hằn thêm những nét khắc khổ. Da mặt xanh, người gầy rộc. Nói chưa được một câu, anh đã cười, vẫn giọng cười hồn nhiên, khoe với tôi 4 bài thơ anh đã làm trong lúc bị giam, và khoe rằng sở dĩ anh được về là nhờ có sự sáng suốt của Trung ương Đảng.
Tôi đọc kỹ bốn bài thơ đó, và nhìn anh kinh ngạc. Tôi không thể nghĩ được rằng trong cảnh bị giam đau đớn thế, anh lại có đủ bình tĩnh làm những bài thơ sáng sủa chan chứa lòng yêu đời, yêu Đảng như thế này. Tôi thấy quí và kính phục người bạn mà tôi cho là rất anh dũng. Tôi khoan khoái đọc to mấy đoạn thơ của anh, anh ngửa mặt lên, tôi chợt nhìn thấy ở cổ anh một vết sẹo dài nằm ngang cuống họng, thịt mới liền, còn đỏ tươi.
Tôi hiểu cả, không hỏi thêm anh điều gì... Trước mắt tôi, là một người có sức mạnh chống chọi với tủi nhục, với thành kiến, cả đến những lời vu cáo đanh thép nhất cũng đã rụng dưới chân anh như cỏ héo.
Trước mắt tôi là một người chí tình, tha thiết, đã có những phút yếu đuối, tiêu cực, đã có những phút bốc lên quá nóng nẩy cục cằn, đã tự do bừa bãi nhưng không lúc nào ngừng hoạt động vì tiền đồ rực rỡ của Văn nghệ.
Trước mắt tôi là một người con dũng cảm của Đảng, có thuỷ có chung, biết tin yêu Đảng vô bờ bến, biết căm ghét những cái thối nát đang làm hại đến uy tín của Đảng, của Quân đội.
Trước mắt tôi là Trần Dần.
Trước mắt tôi lúc viết bài này là một chuyện kéo bè để vu cáo trắng trợn, một vụ án văn chương vô cùng oan ức, một tài năng và một tâm hồn trong sạch bị dầy xéo.
Trước mắt tôi là lòng tin vào ánh sáng của Đảng. ánh sáng đó sẽ soi rọi vào bất cứ chỗ nào đang cần bảo vệ giá trị con người.
Hoàng Cầm
(1) (2) (3) – Trích trong bài thơ Nhất định thắng.
Những ván chiêm bao
Nhân Văn và Giai Phẩm được mùa năm 1956, cho đến khi chính phủ Nagy ở Hung tuyên bố trung lập vào tháng 10. Hồng quân Liên Xô xua xe tăng vào Budapest, cày nát giấc mơ tự chủ, giữ cho vững thành trì XHCN bằng giá những vi phạm căn bản về chủ quyền dân tộc. Tháng 12, Việt Nam phổ biến Sắc lệnh về chế độ báo chí, ủy ban nhân dân Hà Nội ra lệnh đóng cửa báo Nhân Văn. Trường Chinh vừa mất chức Tổng Bí Thư sau CCRĐ, nay thành Chủ Tịch Quốc Hội, cướp cờ văn hóa công nông bằng thủ pháp kêu gọi 500 đại biểu trong Đại Hội văn nghệ toàn quốc lần thứ 2 tháng 2 năm 1957 đấu tranh đập nát NV-GP, biểu tượng phản cách mạng. Hội Liên Hiệp Nghệ Thuật được thành lập, và chẳng ai khác ông Nguyễn Đình Thi được ‘’ trên’’ ban nhiệm vụ lãnh đạo. Năm 1958, ra rồi đóng báo Văn do Hội Nhà Văn trách nhiệm, tổ chức lớp học Thái Hà đấu tranh tư tưởng văn nghệ sĩ. Hội Liên Hiệp văn học nghệ thuật họp tổng kết và ngày 5 tháng 6 phổ biến nghị quyết của 800 văn nghệ sĩ hoan ngênh thắng lợi cuộc đấu NV-GP. Tháng 7, lại Nguyễn Đình Thi, lần này trúng tổng thư ký Hội Nhà Văn, giữ chức vị này liền mấy chục năm sau. Hội thông báo khai trừ TD và đình chỉ xuất bản trong thời hạn 3 năm, nhưng ‘’ cho’’ cái ân sủng đi lao động cải tạo ở nông trường cho sáng mắt sáng lòng, bắt đầu là Chí Linh, sau Thái Nguyên cho đến khi TD ốm nặng . Về Hà Nội, TD sống và viết âm thầm, bắt đầu những ván chiêm bao suốt một cuộc mộng du gần 30 năm không ngơi không nghỉ, ứa ra những con chữ : Thơ? một cái tôi -không-biết-cái gì. Un je-ne-sais-quoi?...Tôi vẫn vô tích sự một ván-đời… vẫn thui thủi một mình- thui thủi chiêm bao…Lời lang thang ván chiêm bao? Ván chiêm bao? Cứ thế tới ngày tận thế…Mỗi người thăm…thẳm…một chiêm bao.
TD thăm thẳm những chiêm bao của một nhà nghệ sĩ vứt đời mình vào những sáng tạo độc sáng. Trong cô đơn cùng cực, ông viết, miệt mài, thổi sự sống vào những con chữ thình lình cựa quậy trong tâm, ý thức những người đọc ông, chẳng chỉ Thơ, mà còn Tiểu thuyết, dưới những dạng thật mới, không có chút liên quan gì tới nền văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa ‘’ nháy nháy’’. Tôi nhớ đã đọc bản thảo ‘’ Những ngã tư, những cột đèn’’ chẳng hạn. Tôi tin ngoài Thơ, ông còn những tiểu thuyết chưa được phát hiện. Tôi chắc chắn Di cảo Trần Dần rất đồ sộ.
Tôi gặp họa sĩ Trần Trọng Vũ, con trai út Trần Dần, khi anh còn là sinh viên trường Mỹ Thuật Hà Nội. Thuở đó, tôi rất thích bức anh vẽ TD ngồi trên ghế đá giữa một Hà Nội mùa đông leo lét đèn, trong lòng là một cái lồng chim, hình tượng gợi nhớ tranh Chagall. Nhưng khi được gia đình TD tặng, tôi lại xin bức họa trên giấy, vẽ một chai rượu đỏ đã vơi một nửa để cạnh một ngọn đèn dầu sắp cạn. Viết đàng sau bức tranh :’’ Rượu máu, cạn nửa chai. Ngọn đèn dầu vơi đầy một nửa. Quơ tay đưa lên đầu, bàng bạc tóc điểm mầu… lấm tấm thời gian ‘’, tôiđưa TD đọc. Anh không nói gì. Đến khi chia tay, anh nhỏ giọng ‘’ …thơ không cần lyrique, phải phá nó! ‘’. Sau này, đọc những sáng tác cuối đời anh, tôi mới thực sự hiểu anh nói gì.
Trần Trọng Vũ đã gửi cho tôi tập Trần Dần-Thơ ở dạng bản thảo từ 3 năm nay. Tập thơ thật sang, đẹp, và nhung nhúc những con chữ chuyên chở tâm huyết của một người sống chết với Thơ. Tôi thật không ngờ tập thơ bị ‘’ ngưng phát hành’’ ngày hội thơ ở Văn Miếu cuối tháng 2 năm nay, năm 2008, tức hơn mười năm TD đã giã từ cõi tạm này. Tôi xin Vũ chọn cho một số bài anh thích để giới thiệu với bạnđọc. Nhưng trước đó, tôi xin nhắc, ông Hồ Chí Minh đã mượn lời Quản Trọng bảo trồng cây mười năm nhưng trồng người phải trăm năm. Đám hậu duệ của ông, giữa hai cơn hò hét ‘’ dzô đi anh! tham nhũng trăm phần trăm !’’ có lẽ nên nhủ lòng rằng giết một công trình văn hóa chỉ cần ký một chữ, nhưng tácđộng đó là giết nhiều người, chẳng phải mười hay trăm, mà có thể cả ngàn năm. Ngay ở cái thế giới kỹ thuật số này, chúng ta đừng quên vẫn còn bia miệng, một hình thức bảo lưu trí nhớ tập thể.
Thơ Trần Dần
Cột đèn câm
Vào đời
tất cả
chỉ có vé: đồng hạng
mọi thứ đặc quyền đều
sặc sụa bất công.
Tôi có vệ tinh
rồi có nhà ga xanh
nhà ga tím
trong một vũ trụ
chẳng hiền lành.
Cái lồng chim quá chật
tôi bay đâu
cũng đụng đầu.
Tôi có khả năng im lặng
như một cột đèn câm
đầu phố thơ ngây.
Yêu
Em đã quên ư?
lòng ngã tư mưa lằng nhằng cột điện.
Tình yêu của anh như câu cổ tích
kể trong một tối mưa dầm.
Đừng yêu
Gạch ngói ruổi rong
những mơ mộng nhớ thương.
Các vì sao, ai bắt vít trên trời?
những đinh vít long lanh bằng bạc.
Em nhé! đừng yêu!
đừng yêu những đại lộ gió!
Phố này. Hàng cây này. Cột điện.
Căn nhà thi sĩ đổ. Mùa mưa.
Chiều
vô
nghĩa
Gió thổi quá tay Lạnh cây Bàng bé ... Chiều thu cổ lỗ sĩ Công viên đông chí Sương sa cà khịa Cho tôi một ngày chức năng vô lý! Để tôi ngồi vô nghĩa nhấtVô tri ...
Đoạn kết
Cấp cứu! Cấp cứu!
Ô tô chẹt lá chết …
Một cặp đi ngang đường bẹt
Hãy để tôi đi tìm tia trăng vườn quít!
Điện thoại kêu thét
Con cốc đi xa
Chương ba tiểu thuyết
Hành trình! … Hành trình! …
Không thấy sương bay thành vệt …
Thuở trần gian
Đêm chín phía. Ngày chín nghĩa. Vô vị địa - gió lĩa xĩa - chiều lịa xịa. Lá lĩa tĩa - chữ lữ. Trăng Á mặt trời Âu đều chẳng chiếu, vào chỗ nào là chỗ khách thơ đau.
Đừng ngoảnh lại đàng sau. Con đường in vết sẹo đôi chân.
Gặp một sân ga im lặng trắng - không bao giờ ! và không bao giờ ? khách thơ có chỗ, ở trong huyên náo địa dư-ngườI ?
Khách thơ chẲng thích gì quẢ đẤt.
Anh lẠc hành tinh rỒi ! TỘi nghiỆp !
Hồi quả đất
Trên kia nến thắp các vì sao. Ắt sao ấy phải cho ai cần thiết đấy! Mật mã trời sao chỉ là Á-Y N-Á-Y Á-Y N-Á-Y- biết là áy náy hộ vì ai?
Lại đằm thắm trăng sao. Lại nồng nàn sớm tối. Lại những người bất hợp tác quả đất ... ai biết nguồn cơn của họ.
Ai đưa tôi đến chỗ này? Bên kia trời Á bên này trời Âu. Trời nào cũng một màu sàu. Chỗ nào cũng một nghẹn ngào khôn nguôi.
Ai cũng có hành tinh vũ trụ - mà địa cầu một chặng chẳng bằng gang ... phong cảnh loài người đâu buồn bã quá. Để không người khởi nổi lời ca.
Ai bắt định mệnh hoàng hôn cứ phi buồn rầu? Anh đã hoạ mi quả đất? Ai bắt anh sơn ca sử biến? Thật có gì là sử hay không?
Tôi vẫn sống chẳng khẩu phần yêu, không khẩu phần mộng. Ai chia phần thuần vét đĩa, cho ta. Anh cứ sống, bậc hai của sống. Sống bằng yêu, bằng mộng, bằng thơ. Rồi lúc gặp nhau, địa đầu vũ trụ. Kinh vĩ tuyến côxmic. Ta cùng ôn lại thuở trần gian ... hồi quả đất, bọn mình eo óc thế ... mưa bồng sông gió mông quạnh lạnh ...
Cả những con đường cũng biết ước mơ. Thế kỷ còn một thẹo. Sao còn khua khoắng lắm chiêm bao? Mất cắp - thiên đường, loài người đòi lại. Công cuộc này.
Đã chán cái nghỀ gây sỰ chỮ. Còn mỐi quan tâm: không hỢp tác địa cẦu.
2 bài thơ rất ngắn
Thế jới tợ cái chăn
kéo đuôi hở đầu ...
chỉ kín một phần ba.
Lạ kìa đang sống đã là ma
đêm nào cũng xa xỉ sao sa
gió tha người, ở các ngã ba …
Vài Kể kệ
Hạnh phúc tự tìm. Chân lí ở am tâm.
Lệnh: thôi đi những hạnh phúc-quần đùi may sẵn! giầy dép-đóng sẵn! số? cỡ? Hạnh phúc chẳng mua ở công ti-may mặc-sẵn? Những silip sách chẳng vừa ... Coóc sê giáo khoa ca mà thịt hở ...
Chỉ tâm im, mà bể lặng, bão ngàn.
Tí mật hoen dầu lưỡi kiếm?
Biết: Không liếm thú vui, không phải sợ đứt lưỡi.
Chỉ vì không thú thú vui người.
Anh đau ở chỗ nào ? Chỗ nào ?
Đã là sao, là á-y n-á-y thâu đêm. Để lúc ngày lên, nhòa tự xóa.
Anh đau ở chỗ nào ? Chỗ nào ? Ai biết chỗ nào đau ?
Những thành phố trắng phau, tênh hênh đêm
nghìn bờ biển lạ …
Anh đau ở chỗ nào? Nào?
Cả không gian một vết cắn bội số mà nhân sinh sẹo trắng đỏ đen vàng. Tôi. Mày. Nó. Khi cái nghiệp chung cùng vô số sẹo trong ngoài. Lại còn quốc tế sẹo thâm xì. Mà sẹo sông. Núi sẹo. Cỏ cây. Gian nhà điểm tô sẹo buckê hoa. Vết thương bội số. Anh đau ở chỗ nào? Ám ảnh:
Bàn tiệc sẹo.
Bệnh sống vẫn tự chữa về đêm
em hãy đi về cảng cổ. Mộ vàng.
Ti tỉ chúng sinh. Tôi bình thông đáy với muỗi. Rĩn. Con đỏ, với ngôi sáng sao, lọ mực mẻ, tỉ tỉ, tất. Với sợi cỏ vô tình chân dẫm úa.
Chú í một tị! Án mạng muỗi. Sợi cỏ!
Tiền đề:
Con cá câm lòng biển mỗi quẫy đều động đại dương.
Cường khẩu. Cường khẩu. Tôi bị cướp trắng địa đường.
Những phố thắp đèn chùm ba đèn chùm bẩy sáu. Những cảng vụng tầu thắp í ới tầu khơi. Những nữ khỏa thân tay chiêu đãi nách. Sách. Ảnh. Những âm ti yach thủy tiên nằm.
Tôi 1980
tôi mẤt địa chỈ tôi. Thư đi chẲng tỚi
sinh tôi làm gì / tôi không hợp grammaire nào cả / sinh tôi đã có grammaire cho tất cả / ắt là không zuýt cho tôi / tôi không thích mọi grammaire quần đùi may sẵn / ví dụ một ngày tôi lại đọc là / KHÔNG / ai cũng có ngày / ngày của mình / tôi không có ngày nào hết ? / bất công này. Tôi kiện ai đây / không ai sử kiện cho ai / tất cả đều muốn đi kiện mà / không quan tòa. không luật. Cũng không pháp đình.
tôi sống ? hay tôi trôi ? không ai trả lời tôi cả. Mọi người đều bận ngiệp lăn trôi.
tôi không hợp mọi cái gì đã. Mà sinh tôi đã quả cầu rồi.
tôi hết chịu nổi những con động vật kinh tế. chính trị-kinh tế. động vật người mới người hùng - người côsmic. Làm người - lại không muốn làm người. Cho nên tôi chọn Tư Mã.
tôi trôi vào vỰk ngỰk
tôi đã chọn 1 số mệnh không thường. Thế đấy những việc trần tôi làm. thế đấy. Bây jờ xét xử tôi đi.
trời đất đã chia cho tôi 1 ngiệt mệnh không thường. Tôi đã chọn tự zo thế đấy hồi ở quả đất. Bây jờ ngiêm xử tôi đi. tôi đã xong việc ở quả đất thế đấy. Thế đấy. Bây jờ fán xử tôi đi. tôi xong fận sự ở quả đất ... thế đấy. Thế. bây jờ án xử. Quyết án tôi đi.
tôi không iên Ổn vỚi tôi. May mẮn quá
Một chút sổ bụi 1981
tôi Ở đây… tôi đang Ở cẢ đẰng kia. Trên kia. DưỚi nỌ … tôi Ở mỌi chỖ nào có mỘt Ải đẦu thơ.
hai mẮt đen ngàn lỆ nhé … tôi vẪn thõng tay trong chỢ bỤi đông ngưỜi …
Nhân sinh
những Khói và Chờ
(nhân loại còn có khói để mà tin)
Thu không
bước lặng
tôi về cõi lặng.
Giật mình.
tôi có cái đầu vương cách
làm bằng – 88 quỉ cách.
Thơm mùi hôi nách nhân sinh.
tôi có cái đầu cải táng
đi tới háng. Những bà cô xả láng.
tôi trốn HÈ trong khói HÈ ...
Tình sử
xin một giọt mưa thu
trời cuối thu rồi em ở đâu?
Tôi đứng trời trồng trước cổng nhà em
như thế gọi là tình sử.
Em biết thế nào là núi lửa ngủ ?
Thế nào là lạc thiên đen ?
Vui trời - vui đất mây đen.
Đáng lí em không nên đẹp thế
đẹp quá bên kia - tận thế.
Để Tư Mã về gạt lệ
vào trong.
Đưa nhau VỀ zưới trăng
ông giăng huyền thự
em VỀ cháy khói
jấc kê đen.
Cuộc chia nước mắt đầy tay
như thế gọi là tình sử.
(Im lặng hôm nay là tự sát
tôi chẳng bao giờ mang
tội ác quyên sinh)
Bước chân số mệnh ngùi ngùi
cô đơn tay đôi
Còn cách nào hơn VỀ với loài người.
Viết ?
một độc ác cần thiết. Một tai ngiệt nhu cầu. Một ảo lâu sa mạc.
sự vật vốn phức và trừu . Có những người dễ tính cứ đòi dễ, dễ hiểu. Họ không hiểu mỗi sự vật từng sự việc đều khó, vốn phức và trừu … ? một biện chứng dễ dàng thường không dẫn bất cứ ai … đi xa.
Ôi nÓi chuyỆn vĂn vỚi bỌn ĐỌc chưa thÔng viẾt chưa thẠo. ĐỐi thoẠi ĐẦu gỐi cÒn Í ngiã hơn.
sao để tâm bận những cái chẳng đáng bận tâm ? địa ngục tha thứ ? tôi mua từ xứ zữ. Ở lá đa nào. Tôi cũng tha thứ tới ứ hự địa đồ đen.
Hồi chuông Thiên Mụ ? tôi nge từ bú vú. Ở canh ba nào. tôi cũng chuông tới rú. Thịt đồng đen.
3 bài thơ mini
tôi tắt nốt những mặt trời rù
Trên rù rù những đám đông đen
*
tôi chót dại đỗ lầm hải cảng
để con tầu thiếu máu xanh xao
*
tôi đã hát những ngày mai - không hát
bây giờ ? tôi hát - lạc quan đen
1 bài thơ mini
Đừng phun thuốc muỗi. Chết thuyền quyên.
Dân chủ khú mất rồi. Hỏng cả vại dưa ngon.
6 bài thơ mini
chúng mình cùng một chiêm bao
Hơi ấm một thầm thào - sợ có mùi?
*
Xuân qua đông tới vào trong
LỆ có còn đâu mà vãi ngoại ?
Bao nhiêu nước mắt-CHẢY-vào trong
*
Ấy XIN các người
để cho tôi im lặng
*
AI PHÂN PHỐI ? khói bạch hàng đèn
trong khói NGÃ TƯ ĐÊM.
*
Ai ?
Ai nấu điện cho - những đô thành thoi thóp điện ?
Cho thế giới buồn phiền … ai nấu giấc kê đen ?
*
Càng chết tôi càng - bất tử
EO ÔI ?
chết vẫn không yên.
Những dòng cuối
hoa soi ? hoa sói. hoa sòi. hoa khói ? ga cuỐi của lòng. Tim cuỐi ? hai bàn chân cuỐi ? <Đây rồi phố cuỐi - khóc đi thôi>
tuổi cuỐi ? hai bàn chân cuỐi vẫn ra đi ? tuổi cuỐi đi về xứ cuỐi. Có còn tia cuỐi nào không ?
tim cuỐi lê về phố cuỐi. Hay là tia khói cuỐi đã tan đi ? nghĩ gì. Xá gì khi khói - cuỐi đã bay đi ? mây cuỐi của lòng. Con mắt cuỐi vẫn chong chong.
đắm đuối cuỐi - cuỐi chân mây ? khói cuỐi cay xè đôi mắt cuỐi ? tuổi cuỐi ? GA cuỐi của lòng. Nghe hát thương hoa …
bóng cuỐi ? cuỐi ? cuỐi ? nhảy qua bóng cuỐi của mình.
mùa quả cuỐi - cho nhau ngày hạ cuỐi ? - chân trời bóng cuỐi chung đôi ? - ngã ba tim …
người tuổi cuỐi nô cô cô người cuỐi tuổi ? là tô lồ tồ ngày - năm tháng hạc hà bay ? - mêli mêlô gì khúc cuỐi thương hoa - vết máu ngã ba tim ?
ngã ba tim - từ ngã ba tuổi - từ đèn ngã ba ? - ông già hòe ? ông già kòe ? tôi iêu ông già hòe ? không iêu ông già kòe ? - tôi êu ông già kòe ? tôi iêu ông già hòe ?
tìm gì ? ráng lạc ngã ba tim ? tìm gì ? tìm ? cô lộ ngã ba tim ? tìm gì ? Tư Mã ngã ba tim ? tìm gì ? nam nữ - ngã ba tim ?
mùng khói ? ba sinh - mùng khói ? ngỡ rằng bén khói để bay đi ? ngỡ rằng khói bén để bay đi ? ngỡ rằng él-khói để bay đi ?
ba sinh mùng khói ? đâu dè él-khói chẳng bay đi ? đâu dè bén khói chẳng bay đi ?
cho tôi ngồi phố khói ? ga khói của lòng ? bướm khói liệng sân ga ? tàu khói - chung nhau màu tuổi khói ? đâu dè mắt khói chói chiêm bao. Mây bay ? chung đôi ngồi kể khói ? mưa rất xưa mà thu rất xanh - mắt khói thế này - mắt khói để cho ai ?
uẩn khúc ga cuối
ga cuỐi cỦa lòng
chẲng nói -
sỢ rẰng như khói
- nói bay đi …
sỢ rẰng như nói
- khói bay đi...
ga cuỐi cỦa lòng …
Từ khóa » Sóc Nâu Rap Về Trần Dần
-
Rap Về Trần Dần - Trần Dần Ft. Sóc Nâu | RV Underground - YouTube
-
Rap Về Trần Dần - Trần Dần Ft. Sóc Nâu - YouTube
-
Trần Dần Ft. Sóc Nâu | Jin - YouTube
-
CÔ ĐƠN 16 + - Rap Về Trần Dần - Trần Dần Ft. Sóc Nâu | RV...
-
Thế Giới Rap - Sóc Nâu Rap Về Trần Dần | Facebook
-
Rap Về Trần Dần - Trần Dần Ft Sóc Nâu - SoundCloud
-
Trần Dần Ft Sóc Nâu - Long Bee - SoundCloud
-
Rap Về Trần Dần - Trần Dần Ft. Sóc Nâu | RV Underground On Make ...
-
Tại Sao Em Buồn - Sóc Nâu, Quyên, Dưa Hấu - NhacCuaTui
-
BECK'STAGE R2 FREESTYLE - TRẬN 18: SÓC NÂU Vs CHÚ TUẤN ...
-
Những Bản Rap Của Dế Choắt, Sóc Nâu Và Mai Ngô Hot Nhất Trên ...
-
Sóc Nâu (King Of Rap) Trở Lại đầy Cảm Xú
-
Nhạc Trần Dần Chế - Mp3 Indir Dur
-
Lại Nhớ Em Rồi - Khang Ft. Tion | RV Underground - 동영상 통계
-
Quán Quân King Of Rap Tuyên Chiến Với Tage (Rap Việt), Orange ...
-
Rap Việt Và King Of Rap: Khán Giả Yêu Rap Phát 'rồ' Theo Từng Tập Lên ...
-
GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ LOÀI VOỌC CHÀ VÁ CHÂN NÂU
-
Download Lagu TrẦn DẦn MP3 & MP4 - MetroLagu