Trận Prokhorovka – Wikipedia Tiếng Việt

Bước tới nội dung

Nội dung

chuyển sang thanh bên ẩn
  • Đầu
  • 1 Bối cảnh Hiện/ẩn mục Bối cảnh
    • 1.1 Đòn tiến công của Đức dẫn tới Prokhorovka
    • 1.2 Cuộc tấn công của Đức hướng tới Prokhorovka
  • 2 Kế hoạch Hiện/ẩn mục Kế hoạch
    • 2.1 Kế hoạch của Đức cho ngày 12 tháng 7
    • 2.2 Kế hoạch của Liên Xô cho ngày 12 tháng 7
  • 3 Quân lực hai bên Hiện/ẩn mục Quân lực hai bên
    • 3.1 Bố trí lực lượng Đức Quốc xã
    • 3.2 Bố trí lực lượng Liên Xô
  • 4 Trận đánh Hiện/ẩn mục Trận đánh
    • 4.1 Cuộc chạm trán dưới mặt đất
    • 4.2 Cuộc không chiến
    • 4.3 Kết quả trận đánh
  • 5 Diễn biến sau trận đánh chính Hiện/ẩn mục Diễn biến sau trận đánh chính
    • 5.1 Giao tranh tiếp diễn quanh Prokhorovka
    • 5.2 Chấm dứt Chiến dịch Thành trì
    • 5.3 Chiến dịch Roland
  • 6 Thiệt hại Hiện/ẩn mục Thiệt hại
    • 6.1 Phía Đức
    • 6.2 Phía Liên Xô
  • 7 Kết quả
  • 8 Những hiểu lầm và tranh cãi Hiện/ẩn mục Những hiểu lầm và tranh cãi
    • 8.1 Quy mô trận đấu tăng và thiệt hại phía Đức
    • 8.2 Động cơ dẫn tới trận đánh tại Prokhorovka
    • 8.3 Yếu tố bất ngờ
  • 9 Tham khảo Hiện/ẩn mục Tham khảo
    • 9.1 Ghi chú
    • 9.2 Chú thích
    • 9.3 Nguồn tham khảo
  • 10 Liên kết ngoài Hiện/ẩn mục Liên kết ngoài
    • 10.1 Tư liệu
    • 10.2 Bản đồ tư liệu quân sự
  • Bài viết
  • Thảo luận
Tiếng Việt
  • Đọc
  • Sửa đổi
  • Sửa mã nguồn
  • Xem lịch sử
Công cụ Công cụ chuyển sang thanh bên ẩn Tác vụ
  • Đọc
  • Sửa đổi
  • Sửa mã nguồn
  • Xem lịch sử
Chung
  • Các liên kết đến đây
  • Thay đổi liên quan
  • Thông tin trang
  • Trích dẫn trang này
  • Tạo URL rút gọn
  • Tải mã QR
In và xuất
  • Tạo một quyển sách
  • Tải dưới dạng PDF
  • Bản để in ra
Tại dự án khác
  • Wikimedia Commons
  • Khoản mục Wikidata
Giao diện chuyển sang thanh bên ẩn 51°2′11″B 36°44′11″Đ / 51,03639°B 36,73639°Đ / 51.03639; 36.73639 Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Trận Prokhorovka
Một phần của Trận Vòng cung Kursk trongChiến tranh thế giới thứ hai
Bố trí lực lượng Liên Xô và Đức gần Prokhorovka vào đêm trước trận đánh ngày 12 tháng 7. Các vị trí của Quân đoàn xe tăng SS số 2 được đánh dấu bằng màu xanh lam. Đường gạch đỏ thể hiện vị trí các lực lượng Liên Xô trực tiếp đối đầu với Quân đoàn xe tăng SS. Đường gạch đen là tuyến đường sắt chạy từ Prokhorovka về phía tây nam, xuyên qua "hành lang Psel" (dải đất nằm giữa sông Psel và một phụ lưu của sông bắc Donets).
Thời gianNgày 12 tháng 7 năm 1943[a]
Địa điểmProkhorovka, Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga, Liên bang Xô viết51°2′11″B 36°44′11″Đ / 51,03639°B 36,73639°Đ / 51.03639; 36.73639
Kết quả Xem § Kết quả
Tham chiến
Đức Quốc xã Đức Quốc xã Liên Xô Liên bang Xô viết
Chỉ huy và lãnh đạo
  • Hermann Hoth
  • Paul Hausser
  • Otto Deßloch
  • Nikolai Vatutin
  • Pavel Rotmistrov
  • Aleksey Zhadov
  • Stepan Krasovsky
  • Vladimir Sudets
Thành phần tham chiến

Quân đoàn xe tăng SS số 2

  • Sư đoàn thiết giáp SS số 1 Leibstandarte SS Adolf Hitler
  • Sư đoàn thiết giáp SS số 2 Das Reich
  • Sư đoàn xe tăng SS số 3 Totenkopf

Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5[b]

  • Quân đoàn xe tăng số 29
  • Quân đoàn xe tăng số 18
  • Quân đoàn xe tăng cận vệ số 2[c]
  • Quân đoàn xe tăng số 2[d]
  • Sư đoàn bộ binh cơ giới cận vệ số 5[e]

Các đơn vị khác

  • Sư đoàn súng trường cận vệ số 33[f]
  • Quân đoàn xe tăng số 10[g]
  • Quân đoàn xe tăng số 31
  • Sư đoàn súng trường cận vệ số 23[h]
  • Sư đoàn súng trường số 48
  • Sư đoàn súng trường cận vệ số 95[3][4][5]
Lực lượng
294 xe tăng và pháo tự hành chống tăng[i] 616 xe tăng và pháo tự hành[i]
Thương vong và tổn thất

Trong ngày 12 tháng 7[j]

  • 43–80 xe tăng và pháo tự hành bị phá hủy
  • 842 binh lính thiệt mạng, bị thương hoặc mất tích
  • 19 máy bay bị tiêu diệt hoặc hư hại[6]

Trong ngày 12 tháng 7[j]

  • 340 xe tăng và pháo tự hành hư hại hoặc phá hủy[7]
  • 3,563 binh lính thiệt mạng, bị thương hoặc mất tích[7]
  • 14 máy bay[6]
  • x
  • t
  • s
Trận Vòng cung Kursk
Trận Prokhorovka • Chiến dịch Kutuzov • Chiến dịch Belgorod-Kharkov

Trận Prokhorovka diễn ra vào ngày 12 tháng 7 năm 1943[a] gần Prokhorovka, cách Kursk 87 kilômét (54 mi) về phía đông nam, trong lãnh thổ Liên Xô, trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Diễn ra trên Mặt trận phía Đông, trận đánh này là một phần của Trận Kursk rộng lớn hơn và xảy ra khi Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5 của Hồng quân Liên Xô tấn công Quân đoàn xe tăng SS số 2 của lực lượng Waffen-SS Đức, tạo nên một trong những trận chiến xe tăng lớn nhất trong lịch sử.

Tháng 4 năm 1943, giới lãnh đạo Đức bắt đầu chuẩn bị cho Chiến dịch Thành trì, với mục tiêu bao vây và tiêu diệt các lực lượng Liên Xô trong chỗ lồi Kursk bằng cách tấn công và chọc thủng gốc của chỗ lồi từ cả phía bắc lẫn phía nam cùng lúc. Cuộc tấn công của Đức nhiều lần bị trì hoãn do sự do dự của giới lãnh đạo (Hitler liên tục hoãn lệnh xuất kích để chờ chuyển thêm xe tăng Tiger ra mặt trận, với hy vọng lợi thế kỹ thuật sẽ giúp ông giành thắng lợi trong chiến dịch) và do việc bổ sung thêm quân cùng trang bị mới. Bộ chỉ huy tối cao Liên Xô, Stavka, đã nắm được ý đồ của Đức nên tận dụng khoảng thời gian trì hoãn để chuẩn bị một loạt tuyến phòng ngự nhiều lớp dọc theo các hướng dự kiến quân Đức sẽ tấn công. Giới lãnh đạo Liên Xô đồng thời tập trung nhiều tập đoàn quân ở sâu phía sau tuyến phòng thủ dưới dạng Dự bị của Stavka. Tập đoàn quân này cũng với Phương diện quân Thảo nguyên, sẽ mở các cuộc phản công khi sức tấn công của Đức suy yếu. Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5 là lực lượng thiết giáp chủ lực của Phương diện quân Thảo nguyên.

Ngày 5 tháng 7 năm 1943, Wehrmacht mở màn chiến dịch. Ở sườn bắc của chỗ lồi, quân Đức bị sa lầy sau bốn ngày giao tranh. Ở sườn nam, Tập đoàn quân xe tăng số 4 của Đức, với Cụm quân Kempf ở sườn phía đông, tấn công tuyến phòng thủ của Phương diện quân Voronezh do Liên Xô trấn giữ. Chúng tiến lên chậm nhưng đều qua được các tuyến phòng ngự của Liên Xô.

Sau một tuần chiến đấu, quân Liên Xô mở các cuộc phản công: Chiến dịch Kutuzov ở phía bắc và một chiến dịch trùng thời điểm ở phía nam. Tại sườn nam của chỗ lồi, gần Prokhorovka, Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5 chạm trán Quân đoàn xe tăng SS số 2 thuộc Tập đoàn quân xe tăng số 4, dẫn đến một trận giao chiến lớn giữa các phương tiện chiến đấu bọc thép. Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5 chịu thiệt hại nặng trong đòn tấn công, nhưng đã ngăn Wehrmacht chiếm được Prokhorovka và chọc thủng tuyến phòng ngự thứ ba, tuyến phòng thủ kiên cố cuối cùng. Không đạt được mục tiêu đề ra, Hitler bất chấp ý kiến của các tướng lĩnh đã hủy bỏ Chiến dịch Thành trì và bắt đầu điều chuyển lực lượng sang đối phó với các diễn biến khẩn cấp mới ở những mặt trận khác.

Hồng quân sau đó chuyển sang tổng phản công bằng việc mở Chiến dịch Polkovodets Rumyantsev ở sườn nam và tiếp tục Chiến dịch Kutuzov ở sườn bắc. Nhờ đó, Liên Xô giành được thế chủ động chiến lược trên Mặt trận phía Đông và giữ vững thế chủ động này cho đến hết cuộc chiến.

Bối cảnh

[sửa | sửa mã nguồn] Xem thêm: Chiến dịch Ngôi sao, Chiến dịch Donets, và Trận Vòng cung Kursk
Bản đồ thể hiện kế hoạch của quân Đức trong Chiến dịch Thành lũy (mũi tên màu xanh) nhằm cắt đứt mỏm lồi Kursk thành một "túi" bao vây, cùng với thế bố trí lực lượng Liên Xô và Đức ngay trước khi chiến dịch bắt đầu. Các vùng gạch đỏ nét đứt biểu thị vị trí lực lượng dự bị của Liên Xô sau khi được điều tới. Bản đồ cũng cho thấy vị trí xuất phát của Quân đoàn xe tăng SS số 2, các vị trí triển khai ban đầu của Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5 ("5. GpzA") và Tập đoàn quân cận vệ số 5 ("5. GA"). Prokhorovka (không được thể hiện trên bản đồ) nằm cách Pokrovka ("Pokrowka") 40 kilômét (25 mi) về phía đông bắc.

Sau khi kết thúc trận đánh trên sông Donets, khi mùa rasputitsa (mùa bùn lầy) vào mùa xuân năm 1943 chấm dứt, cả bộ chỉ huy Đức lẫn Liên Xô đều bắt đầu xem xét kế hoạch cho các chiến dịch tiếp theo. Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô Joseph Stalin và một số sĩ quan cấp cao của Hồng quân muốn giành thế chủ động trước bằng cách tấn công lực lượng Đức đang đóng trên lãnh thổ Liên Xô, nhưng họ đã được một số tư lệnh chủ chốt, trong đó có Phó Tổng tư lệnh tối cao Georgy Zhukov, thuyết phục nên chuyển sang thế phòng ngự. Cách tiếp cận này sẽ cho phép phía Đức tự làm suy yếu mình khi tấn công vào các trận địa đã chuẩn bị kỹ, sau đó quân Liên Xô sẽ có thể đáp trả bằng các đòn phản công.[8][9]

Các cuộc thảo luận chiến lược cũng diễn ra phía Đức. Thống chế Erich von Manstein lập luận cần áp dụng phòng ngự cơ động, sẵn sàng bỏ bớt địa hình cho quân Liên Xô tiến lên, rồi quân Đức sẽ tung ra một loạt đòn phản kích sắc bén vào hai bên sườn đối phương nhằm gây tổn thất nặng nề. Nhưng vì lý do chính trị, Quốc trưởng Đức Adolf Hitler khăng khăng đòi quân Đức phải chuyển sang thế tấn công, và lựa chọn chỗ lồi Kursk làm hướng chủ yếu.[10] Ngày 15 tháng 4 năm 1943, ông ta phê chuẩn công tác chuẩn bị cho Unternehmen Zitadelle (Chiến dịch Thành trì).[11]

Kế hoạch tấn công của Đức dự kiến tiến công vào gốc chỗ lồi Kursk từ cả phía bắc lẫn phía nam, với mục tiêu bao vây và tiêu diệt lực lượng Liên Xô trong chỗ lồi.[12][13] Hai mũi đột kích sẽ hội quân gần thành phố Kursk. Từ phía nam, Quân đoàn xe tăng số 48 và Quân đoàn xe tăng SS số 2 của tướng Paul Hausser, tạo thành cánh trái và cánh phải của Tập đoàn quân xe tăng số 4 do Thượng tướng Hermann Hoth chỉ huy, sẽ đánh lên phía bắc. Quân đoàn xe tăng số 3 của Cụm quân Kempf được giao nhiệm vụ bảo vệ sườn phải cho Hoth. Tập đoàn quân xe tăng số 4 và Cụm quân Kempf thuộc Cụm tập đoàn quân Nam, do Erich von Manstein chỉ huy. Yểm trợ đường không cho cánh nam của chiến dịch do Tập đoàn không quân 4 của Thượng tướng không quân Otto Deßloch và đơn vị chủ lực của nó, Không đoàn 8 (VIII. Fliegerkorps), phụ trách.[14][15] Cuộc tấn công của Đức, vốn dự định bắt đầu từ đầu tháng 5, đã nhiều lần bị hoãn khi giới lãnh đạo Đức do dự và cân nhắc lại triển vọng chiến dịch, đồng thời chờ điều thêm đơn vị và trang bị ra tuyến trước.[16][17]

Về phía Liên Xô, thông qua mạng lưới tình báo và các nguồn tin nước ngoài, giới lãnh đạo đã nắm được ý đồ của Đức; do đó, việc Oberkommando des Heeres (OKH - Bộ tổng tư lệnh Lục quân Đức) liên tục trì hoãn chiến dịch đã cho họ rất nhiều thời gian để chuẩn bị phòng ngự.[18] Áp dụng chiến thuật phòng ngự chiều sâu, họ xây dựng một loạt tuyến phòng thủ nhằm bào mòn các đội hình xe tăng tấn công. Ba tuyến chính, gồm bãi mìn dày đặc, hào chống tăng và các trận địa pháo chống tăng, được thiết lập; phía sau đó là ba tuyến nữa, phần lớn không có quân trú đóng thường xuyên và ít kiên cố hơn.[19][20] Phương diện quân Voronezh, do tướng Nikolai Vatutin chỉ huy, đảm nhiệm phòng thủ mặt nam của chỗ lồi. Phương diện quân Thảo nguyên, do Thượng tướng Ivan Konev chỉ huy, đóng vai trò dự bị chiến lược. Lực lượng này được giữ ở phía đông chỗ lồi cho đến khi thời cơ phản công chín muồi.[21] Trong biên chế của nó có Tập đoàn quân cận vệ số 5 của Trung tướng Aleksey Zhadov và Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5 của Trung tướng Pavel Rotmistrov.[22][23]

Đòn tiến công của Đức dẫn tới Prokhorovka

[sửa | sửa mã nguồn]
Panzer III và Panzer IV ở sườn nam chỗ lồi Kursk khi Chiến dịch Thành trì bắt đầu
Phạm vi tiến quân của Đức trong Chiến dịch Thành trì (mũi tên nét đứt màu đỏ)

Lục quân Đức mở màn tấn công vào sáng 5 tháng 7 năm 1943 và gặp phải sự kháng cự quyết liệt.[24] Số lượng pháo chống tăng, bãi mìn, hào chống tăng và mức độ kháng cự tổng thể của Liên Xô lớn hơn nhiều so với dự kiến, khiến việc chọc thủng phòng tuyến trở nên khó khăn.[25] Hơn nữa, ngay từ đầu, quân Đức đã liên tục phải hứng chịu các đòn phản kích từ các đơn vị xe tăng Liên Xô.[26][27] Dù vậy, đến cuối ngày 5 tháng 7, Quân đoàn xe tăng SS số 2 đã xuyên qua tuyến phòng ngự thứ nhất ở sườn nam chỗ lồi và tiến đến tuyến thứ hai,[28] dù kế hoạch ban đầu là phải chọc thủng hai tuyến đầu và đến được tuyến thứ ba ngay trong ngày đầu tiên.[29] Tuy nhiên, mũi đột phá này của quân đoàn xe tăng đã khiến các chỉ huy Liên Xô vô cùng lo ngại,[30] buộc tướng Vatutin phải tung gần như toàn bộ lực lượng dự bị chiến dịch của Phương diện quân Voronezh vào trận ngay trong ngày đầu.[31]

Quân đoàn xe tăng số 3 cũng gặp phải kháng cự quyết liệt và rất khó khăn trong việc tạo lập và giữ vững một đầu cầu phái bắc sông Donets.[32] Họ cuối cùng cũng thành công vào sáng 6 tháng 7, nhưng việc chậm tiến quân khiến họ không thể che chắn hiệu quả sườn đông cho Quân đoàn xe tăng SS số 2.[33]

Cuối ngày 6 tháng 7, Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5 và Tập đoàn quân cận vệ số 5 của Phương diện quân Thảo nguyên bắt đầu rời vị trí dự bị tiến lên.[34] Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5 hành quân quãng đường 320–390 kilômét (200–240 mi) rong vòng ba ngày, đến khu vực Prokhorovka vào đêm 9 tháng 7,[35][36] còn Quân đoàn súng trường cận vệ số 33 thuộc Tập đoàn quân cận vệ số 5 tới khu định cư này vào đêm 10 tháng 7.[37] Cả hai tập đoàn quân đều hoàn thành hành quân và triển khai đội hình nguyên vẹn, hầu như không bị Luftwaffe quấy rối đáng kể.[38]

Tiến độ chậm chạp của Quân đoàn xe tăng số 48 buộc Hoth ngày 8 tháng 7 phải điều một phần lực lượng của Quân đoàn xe tăng SS số 2 sang hỗ trợ mũi tiến công của Quân đoàn 48 về phía Oboyan và Kursk.[39] Cũng trong ngày này, các đơn vị Liên Xô mở một loạt đòn phản kích bằng nhiều quân đoàn xe tăng vào Quân đoàn xe tăng SS số 2. Những trận phản công này không thể tiêu diệt quân đoàn xe tăng như kỳ vọng, nhưng đã làm chậm đáng kể bước tiến của nó.[40][41] Đến cuối ngày 8 tháng 7, Quân đoàn xe tăng SS số 2 đã tiến được khoảng 29 km (18 dặm) và phá vỡ cả tuyến phòng ngự thứ nhất lẫn thứ hai[42][43][44][45]

Ngày hôm sau, 9 tháng 7, trong một cuộc họp của các tư lệnh lực lượng Đức ở sườn bắc chỗ lồi Kursk, họ kết luận rằng khả năng chọc thủng phòng tuyến ở phía bắc là rất thấp.[46] Dù vậy, họ vẫn quyết định tiếp tục tấn công để duy trì sức ép và gây tổn thất cho đối phương, qua đó ghim chặt lực lượng Liên Xô tại đây.[46] Kể từ thời điểm đó, mọi hy vọng thành công của Chiến dịch Thành trì phụ thuộc gần như hoàn toàn vào khả năng Tập đoàn quân xe tăng số 4 và Cụm quân Kempf mở được đột phá khẩu ở sườn nam chỗ lồi Kursk.[46]

Cuộc tấn công của Đức hướng tới Prokhorovka

[sửa | sửa mã nguồn]
Một binh sĩ Đức kiểm tra một xe tăng T-34 bị bắn hạ tại Pokrovka vẫn còn âm ỉ cháy. Pokrovka nằm cách Prokhorovka 40 kilômét (25 mi) về phía tây nam.

Vào tối ngày 9 tháng 7, Quân đoàn xe tăng SS số 2 nhận lệnh điều chỉnh hướng tiến công của mình, từ tiến thẳng lên phía bắc chuyển sang phía đông bắc, hướng về khu dân cư Prokhorovka.[47] Hoth đã xây dựng kế hoạch cơ động này và trao đổi với Manstein từ đầu tháng 5, vì ông dự đoán rằng các lực lượng dự bị xe tăng Liên Xô quy mô lớn sẽ kéo tới từ phía đông, và ông không muốn quân đoàn của mình bị kẹt giữa lúc đang vượt sông Psel khi chúng xuất hiện. Kế hoạch ban đầu dự tính các đơn vị thuộc Quân đoàn xe tăng số 48[48] và Quân đoàn xe tăng số 3 sẽ phối hợp tham gia cuộc tấn công vào Prokhorovka, nhưng điều đó đã không thể thực hiện.[49] Tuy nhiên, bộ chỉ huy Liên Xô lại diễn giải sự thay đổi hướng tiến quân này như phản ứng trước sức kháng cự dữ dội mà quân Đức gặp phải trên hướng Oboyan, và đã hiểu sai rằng sự điều chỉnh đó cho thấy lực lượng xe tăng Đức đã bị suy yếu nghiêm trọng.[50]

Các báo cáo tình báo Liên Xô được đưa trong các ngày 8–9 tháng 7 cho biết bộ binh Đức đang xây dựng công trình phòng ngự trên các sườn của Tập đoàn quân xe tăng số 4, và rằng không có đội hình xe tăng Đức nào hiện diện tại những khu vực này, mặc dù các đơn vị xe tăng Liên Xô lại đang bố trí đối diện các sườn đó.[51] Bộ tư lệnh Phương diện quân Voronezh cho rằng quân Đức hẳn đã chạm ngưỡng khả năng tiến công, nên ngày 10 tháng 7 quyết định cho phản kích của mình trùng thời điểm với cuộc phản công dự kiến của Liên Xô trên sườn bắc chỗ lồi Kursk, Chiến dịch Kutuzov, vốn được ấn định cho ngày 12 tháng 7.[52]

Bắt đầu từ sáng 10 tháng 7, Quân đoàn xe tăng SS số 2 mở cuộc tấn công theo hướng Prokhorovka.[53] Sư đoàn bộ binh cơ giới SS số 3 "Totenkopf" của quân đoàn xung kích vượt sông Psel và chiếm được một đầu cầu.[53] Sư đoàn bộ binh cơ giới SS số 1 "Leibstandarte SS Adolf Hitler" chiếm được nông trường nhà nước Komsomolets và cao điểm 241,6.[54] Sư đoàn bộ binh cơ giới SS số 2 "Das Reich" bảo vệ sườn cho quân đoàn xe tăng trước các đòn phản kích bằng xe tăng của Liên Xô.[55]

Phương tiện của Quân đoàn xe tăng SS số 2 tiến về Prokhorovka ngày 11 tháng 7[56]

Quân đoàn xe tăng SS số 2 tiếp tục tấn công theo hướng Prokhorovka vào ngày 11 tháng 7. Đà tiến của Leibstandarte bị Quân đoàn xe tăng số 2 chặn lại; quân đoàn này đã được tăng cường Sư đoàn đổ bộ đường không cận vệ số 9 và Trung đoàn pháo chống tăng số 301, cả hai đều thuộc Quân đoàn súng trường cận vệ số 33.[57][58] Totenkopf bị chặn lại bởi Quân đoàn xe tăng số 31, Sư đoàn súng trường cận vệ số 95 của Quân đoàn súng trường cận vệ số 33,[59][60] và Lữ đoàn súng trường cơ giới số 11 thuộc Quân đoàn xe tăng số 10.[61] Ở phía nam Leibstandarte, Quân đoàn xe tăng cận vệ số 2 và Sư đoàn súng trường số 183 của Quân đoàn súng trường số 48 chống lại bước tiến của Das Reich[62]

Đến cuối ngày 11 tháng 7, Leibstandarte đã tiến sâu vào tuyến phòng ngự thứ ba của Liên Xô.[63] Đơn vị này đã tiến dọc hành lang sông Psel, quét sạch kháng cự của Liên Xô tại nông trường nhà nước Oktyabrsky (tiếng Nga: Совхоз Октябрьский), vượt qua một hào chống tăng sâu 15 foot (4,6 m) ở chân cao điểm 252,2 và chiếm được chính cao điểm này sau một trận đánh ngắn nhưng đẫm máu,[64] đưa họ tới vị trí chỉ còn cách Prokhorovka 3 kilômét (1,9 mi) về phía nam.[63] Ở phía tây bắc Leibstandarte, bộ binh cơ giới của Totenkopf đã chiếm được một đầu cầu bên kia sông Psel và xe tăng đã được đưa sang, nhưng họ vẫn chưa chiếm được cao điểm 226,6, và còn tồn tại một khoảng trống 5 kilômét (3,1 mi) giữa TotenkopfLeibstandarte. Ở phía nam Leibstandarte, Das Reich cũng vấp phải kháng cự quyết liệt và tụt lại khoảng 4 kilômét (2,5 mi).[62] Với đà tiến lên như vậy, Leibstandarte bị phơi sườn ở cả hai phía.[64]

Cuối ngày 11 tháng 7, Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5 chuẩn bị cho đòn phản công sắp tới của mình.[65] Đợt tiến công của Leibstandarte đã làm rối loạn sự chuẩn bị của tướng Rotmistrov, do các khu vực tập kết mà ông dự tính dùng cho Quân đoàn xe tăng số 18 và số 29 của tập đoàn quân xe tăng đã rơi vào tay quân Đức vào cuối ngày, buộc ông phải vội vàng chỉnh sửa kế hoạch và chọn vị trí mới.[66][67] Việc Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5 chỉ vừa mới tới mặt trận vài ngày trước đó gây bất lợi cho đơn vị này trên hai phương diện lớn: các chỉ huy đơn vị xe tăng không có thời gian trinh sát địa hình mà họ sẽ phải hành quân qua, và pháo binh yểm trợ không kịp bố trí trận địa cũng như xác định phần tử bắn một cách chính xác.[68].

Kế hoạch

[sửa | sửa mã nguồn]

Kế hoạch của Đức cho ngày 12 tháng 7

[sửa | sửa mã nguồn]

Đêm muộn ngày 11 tháng 7, Hausser - tư lệnh Quân đoàn xe tăng SS số 2 ban hành mệnh lệnh cho cuộc tiến quân về phía Prokhorovka trong ngày hôm sau. Người Đức biết rằng Hồng quân đã bố trí dày đặc pháo chống tăng trên các sườn dốc phía tây nam Prokhorovka, khiến một đòn tấn công trực diện của sư đoàn Leibstandarte trở nên hết sức khó khăn.[69] Kế hoạch của Đức là để sư đoàn Totenkopf chiếm được cao điểm 226,6,[70] rồi tiến công theo hướng đông bắc dọc theo sông Psel tới đường Kartashyovka–Prokhorovka, sau đó đánh chếch xuống đông nam, đánh vào sườn và phía sau lực lượng Liên Xô đang trấn giữ Prokhorovka.[69][70] Sư đoàn Leibstandarte được lệnh chỉ thực hiện một cuộc tiến công hạn chế, chiếm các điểm Storozhevoe và Lamki ngay bên ngoài Prokhorovka,[70] rồi cùng với sư đoàn Das Reich chờ đến khi đòn tấn công của Totenkopf làm rối loạn các vị trí Liên Xô; sau đó Leibstandarte mới xung phong đánh vào tuyến phòng ngự chính của Liên Xô trên sườn dốc tây nam Prokhorovka. Bên cánh phải của Leibstandarte, các đơn vị thuộc sư đoàn Das Reich cũng phải tiến về phía đông, chiếm các điểm cao ở phía nam Prokhorovka, rồi quay xuống phía nam, tránh xa Prokhorovka, để bẻ gãy tuyến phòng thủ Liên Xô đang chặn bước tiến của Quân đoàn xe tăng số 3 và mở một khoảng trống[69] Không đoàn 8 được giao tập trung nỗ lực yểm trợ cho cuộc tiến công của Quân đoàn xe tăng SS số 2, trong khi Quân đoàn xe tăng số 48 ở phía tây chỉ được phân bổ một lượng nhỏ lực lượng không quân.[71]

Pavel Rotmistrov, sĩ quan chỉ huy Tập đoàn xe tăng cận vệ số 5

Kế hoạch của Liên Xô cho ngày 12 tháng 7

[sửa | sửa mã nguồn]

Tập đoàn quân cận vệ số 5 và Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5 của Phương diện quân Dự bị (Phương diện quân Thảo nguyên) đã được rút khỏi lực lượng dự bị và chuyển thuộc về Phương diện quân Voronezh vào các ngày 8 và 11 tháng 7.[72] Ngày 11 tháng 7, Vatutin ra lệnh cho các tập đoàn quân thuộc Phương diện quân Voronezh chuyển sang phản công vào ngày hôm sau.[73] Cuộc phản công của Liên Xô ở sườn nam chỗ lồi Kursk này được lên kế hoạch trùng với cuộc tấn công vào Oryol ở phía bắc, tức Chiến dịch Kutuzov.[74] Vatutin ra lệnh cho Rotmistrov dùng Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5 tiêu diệt lực lượng Đức gần Prokhorovka, không cho chúng rút lui về phía nam.[75]

Để phục vụ trận đánh, Rotmistrov ra lệnh cho các xe tăng của mình tiến nhanh hết tốc độ về phía trước, lao thẳng vào giáp chiến với xe tăng Đức nhằm vô hiệu hóa ưu thế tầm bắn xa và hỏa lực mạnh của pháo 88 mm trên tăng Tiger. Ông tin rằng xe tăng hạng trung T-34 cơ động hơn sẽ có thể nhanh chóng áp sát, đánh vào sườn và tiêu diệt các xe tăng hạng nặng Đức.[69][76] rên thực tế, tình báo Liên Xô đã đánh giá quá cao số lượng pháo tự hành diệt tăng Ferdinand và xe tăng Tiger mà Quân đoàn xe tăng SS số 2 sở hữu. Trên thực tế, không có chiếc Ferdinand nào ở Tập đoàn quân xe tăng số 4 hoặc Cụm tập đoàn quân Nam,[77] vì toàn bộ số xe này đều được triển khai ở sườn bắc chỗ lồi Kursk với Tập đoàn quân 9.[78] Kíp xe tăng Liên Xô thường nhầm các biến thể Panzer IV được trang bị pháo chống tăng cỡ 7,5 cm KwK 40 và gắn thêm giáp tháp pháo với Tiger; vì vậy, các báo cáo của Liên Xô thường thổi phồng số lượng Tiger mà phía Đức sử dụng trong Trận Kursk[79]

Yểm trợ đường không cho phía Liên Xô ở sườn nam chỗ lồi do Tập đoàn không quân số 2 và Tập đoàn không quân số 17 đảm nhiệm,[80] lần lượt do trung tướng Stepan Krasovsky và trung tướng Vladimir Sudets chỉ huy.[81] uy nhiên, phần lớn lực lượng không quân lại được điều đi yểm trợ các đơn vị Liên Xô đang tấn công Quân đoàn xe tăng số 48 ở phía tây Prokhorovka và Quân đoàn xe tăng số 3 ở phía đông nam, nên chỉ còn một số ít máy bay dành cho việc hỗ trợ đòn tiến công của Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5.[80]

Các kế hoạch phản công của Rotmistrov bị đe dọa bởi diễn biến ở phía nam. Đêm 11 tháng 7, Quân đoàn xe tăng số 3 của Đức đã vượt phía bắc sông Donets tại Rzhavets và sáng 12 tháng 7 chỉ còn cách Prokhorovka khoảng 18 kilômét (11 dặm), đồng thời tiếp tục tiến lên phía bắc. Mối nguy này đe dọa toàn bộ kế hoạch của Rotmistrov vì nó có thể đánh vào sườn và hậu phương của Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5.[82][83] Rạng sáng 12 tháng 7, Vatutin ra lệnh cho Rotmistrov điều quân tiếp viện cho Tập đoàn quân cận vệ số 7 và Tập đoàn quân số 69 đang đối đầu với Quân đoàn xe tăng số 3.[84] Rotmistrov tổ chức một cụm binh lực cơ động dưới quyền phó tư lệnh, thiếu tướng Kuzma Trufanov; cụm này gồm Lữ đoàn xe tăng cận vệ số 26 thuộc Quân đoàn xe tăng cận vệ số 2, các Lữ đoàn cơ giới cận vệ số 11 và 12 thuộc Quân đoàn cơ giới cận vệ số 5, cùng với Trung đoàn xe tăng cận vệ số 53 của Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5.[85] Trên đường hành quân xuống phía nam, một số đơn vị khác của Phương diện quân Voronezh cũng được sáp nhập vào cụm binh lực này.[85] Với quyết định đó, Rotmistrov đã phải tung hơn một nửa lực lượng dự bị của tập đoàn quân mình trước khi trận Prokhorovka thực sự bắt đầu.[62][86]

Quân lực hai bên

[sửa | sửa mã nguồn]

Bố trí lực lượng Đức Quốc xã

[sửa | sửa mã nguồn]
Một chiếc Panzer IV và Sd.Kfz. 251 trên Mặt trận phía Đông, tháng 7 năm 1943

Lực lượng Đức tham gia Trận Prokhorovka là ba sư đoàn Waffen-SS thuộc Quân đoàn xe tăng SS số 2 gồm Leibstandarte, Das Reich, và Totenkopf.[78] Tối 11 tháng 7, quân số thiết giáp còn sử dụng được của Quân đoàn xe tăng SS số 2 là 294 xe tăng và pháo tự hành, trong đó có 15 xe Tiger. Sức mạnh thiết giáp của Leibstandarte, Das ReichTotenkopf lần lượt là 77, 95 và 122 xe tăng và pháo tự hành.[77] Mười chiếc Tiger đóng ở phía bắc sông Psel cùng với Totenkopf, bốn chiếc thuộc LeibstandartDas Reich chỉ có một chiếc.[87][76]

Leibstandarte tiến sâu nhất về phía Prokhorovka và nằm ở trung tâm đội hình quân Đức. [88] Một tuyến đường sắt với nền đường cao 30 foot (khoảng 9 m) chia khu vực của Leibstandarte thành hai phần bắc – nam. Phần lớn sư đoàn bố trí ở phía bắc đường sắt, gồm Trung đoàn xe tăng SS số 1 và Trung đoàn bộ binh cơ giới SS số 2 của sư đoàn, cùng với các đơn vị trinh sát, pháo binh và sở chỉ huy.[88][89] Ở phía nam đường sắt là Trung đoàn bộ binh cơ giới SS số 1 và Tiểu đoàn pháo tự hành chống tăng SS số 1 của sư đoàn.[88][90]

Das Reich bố trí ở phía nam Leibstandarte và bảo vệ sườn nam của Quân đoàn xe tăng SS số 2.[91] Totenkopf nằm ở phía tây bắc của Leibstandarte. Trung đoàn xe tăng SS số 3 của Totenkopf phần lớn đã vượt qua sông Psel để chuẩn bị tấn công. Leibstandarte đưa Tiểu đoàn trinh sát xe tăng SS số 1 vốn là lực lượng trang bị nhẹ vào lấp khoảng trống 5 km giữa mình và Totenkopf để che sườn.[92][88][89] Đơn vị này sau đó, trong ngày 12 tháng 7, được tăng cường thêm bốn chiếc Tiger còn lại của sư đoàn, do SS-Untersturmführer (tương đương thiếu úy) Michael Wittmann chỉ huy.[93]

Bố trí lực lượng Liên Xô

[sửa | sửa mã nguồn]

Đơn vị thiết giáp chủ yếu của Liên Xô tham gia trận đánh là Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5, đến ngày 12 tháng 7 chỉ huy năm quân đoàn, trong đó có hai quân đoàn cận vệ: Quân đoàn xe tăng cận vệ số 2, Quân đoàn xe tăng số 2, Quân đoàn cơ giới cận vệ số 5, Quân đoàn xe tăng số 18 và Quân đoàn xe tăng số 29.[94][95] Tổng cộng họ có 793 xe tăng và 37–57 pháo tự hành chống tăng, vào khoảng 840 phương tiện chiến đấu bọc thép.[96][97][98] Khoảng hai phần ba số xe tăng là T-34, phần còn lại là xe tăng nhẹ T-70, cùng khoảng 31–35 xe tăng hạng nặng Churchill.[99][100]

Không phải toàn bộ Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5 đều có mặt tại khu vực Prokhorovka trong trận đánh, vì một phần lực lượng đã được điều xuống phía nam để chặn đà tiến của Quân đoàn xe tăng số 3.[85] Lực lượng thiết giáp của Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5 – gồm cả Quân đoàn xe tăng cận vệ số 2 mới được tăng cường[c], Quân đoàn xe tăng số 2,[d] và các đơn vị thuộc Quân đoàn cơ giới cận vệ số 5[e] giữ làm dự bị trực tiếp đối đầu với Quân đoàn xe tăng SS số 2 trong ngày 12 tháng 7 vào khoảng 616 xe tăng và pháo tự hành.[101][102] Ngoài ra, còn có năm trung đoàn pháo binh, một lữ đoàn pháo binh và một sư đoàn pháo phòng không được tăng cường cho Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5 để thực hiện cuộc tấn công.[103]

Đòn tiến công chủ yếu của Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5 nhằm vào Leibstandarte do hai quân đoàn xe tăng còn nguyên sức chiến đấu là Quân đoàn xe tăng số 29 và Quân đoàn xe tăng số 18 đảm nhiệm; cả hai được điều lên từ lực lượng dự bị chiến lược của Liên Xô.[104][105] Hai quân đoàn này là lực lượng xe tăng đông nhất trong đợt tấn công,[101] với Quân đoàn xe tăng số 18 có 190 xe tăng và pháo tự hành, còn Quân đoàn xe tăng số 29 có 212 xe tăng và pháo tự hành.[104][105] Bộ binh yểm trợ cho Quân đoàn xe tăng số 18 và số 29 là Sư đoàn đổ bộ đường không cận vệ số 9.[104]

Một bộ phận của Quân đoàn xe tăng số 18 được điều đánh vào sườn phía đông của Trung đoàn bộ binh cơ giới SS số 6 Theodor Eicke thuộc sư đoàn Totenkopf.[104] Ở cánh đông nam của Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5, tướng Rotmistrov triển khai 120 xe tăng của Quân đoàn xe tăng cận vệ số 2.[104] Sau đó, trong ngày 12 tháng 7, Lữ đoàn xe tăng cận vệ số 26 thuộc quân đoàn này với khoảng 40 xe tăng được điều xuống phía nam để đối phó với Quân đoàn xe tăng số 3.[101][106]

Phần lực lượng còn lại của Quân đoàn xe tăng cận vệ số 2, được yểm trợ bởi tàn quân của Quân đoàn xe tăng số 2, có nhiệm vụ tấn công Das Reich.[86][107] Bộ binh yểm trợ của họ là Sư đoàn súng trường số 183.[108] Sườn tây của Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5, đối diện với Totenkopf, do các Sư đoàn súng trường cận vệ số 42 và 95 thuộc Quân đoàn súng trường cận vệ số 33 phòng thủ,[109][110] được yểm trợ bởi lực lượng của Quân đoàn xe tăng số 31 và Sư đoàn súng trường cận vệ số 52 thuộc Quân đoàn súng trường cận vệ số 23 vốn đã bị tổn thất nặng.[111][110] Các đơn vị của Quân đoàn cơ giới cận vệ số 5 không bị điều xuống phía nam được giữ làm lực lượng dự bị ở phía tây bắc Prokhorovka, với khoảng 113 xe tăng và pháo tự hành.[103][101]

Tướng Vatutin chỉ đạo lực lượng không quân Liên Xô tập trung nỗ lực chủ yếu vào việc chặn đà tiến của Quân đoàn xe tăng số 3 về phía bắc và yểm trợ cho cuộc tấn công nhằm vào Quân đoàn xe tăng số 48. Không quân cũng bay nhiệm vụ yểm trợ cho đòn tấn công của Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5, nhưng ở mức độ hạn chế. Tập đoàn quân không quân số 2 có khoảng 472 máy bay còn hoạt động trong ngày 12 tháng 7, trong khi Tập đoàn quân không quân số 17 có 300 máy bay.[80]

Trận đánh

[sửa | sửa mã nguồn]

Lúc 05:45 ngày 12 tháng 7, sở chỉ huy sư đoàn Leibstandarte bắt đầu nhận được báo cáo về tiếng nhiều động cơ xe tăng khi các xe tăng Liên Xô di chuyển vào khu tập kết chuẩn bị tiến công.[112] Khoảng 06:50, các đơn vị thuộc Trung đoàn Bộ binh cơ giới SS số 1 của Leibstandarte đánh lên phía trước, đánh bật bộ binh Liên Xô khỏi làng Storozhevoe, trong khi các đơn vị thuộc Trung đoàn thiết giáp SS số 2 tỏa ra từ Nông trang quốc doanh Oktyabrsky.[113][114] Quân Liên Xô bắt đầu bắn pháo kích chuẩn bị khoảng 08:00,,[115][116] và khi loạt đạn cuối cùng rơi xuống lúc 08:30, Rotmistrov phát tin hiệu bằng vô tuyến với mật lệnh "Stal! Stal! Stal!" ("Thép! Thép! Thép!") – mệnh lệnh mở màn cuộc tấn công.[117][116] Ngay sau đó, lực lượng thiết giáp của Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5 bắt đầu xung phong.[76][118]

Cuộc chạm trán dưới mặt đất

[sửa | sửa mã nguồn]

Tổng cộng khoảng 500 xe tăng và pháo tự hành của Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5 đã tấn công các vị trí của Quân đoàn xe tăng SS số 2 trong ngày 12 tháng 7,[118] theo hai đợt: 430 xe tăng ở tuyến đầu và 70 chiếc ở tuyến thứ hai.[103][119]

Từ các sườn dốc phía trước Prokhorovka, khối thiết giáp dày đặc của Liên Xô ào ạt lao xuống, với năm lữ đoàn xe tăng thuộc Quân đoàn xe tăng số 18 và 29 vừa chạy vừa bắn vào vị trí của Leibstandart.[120] Khi các xe tăng Liên Xô xuống dốc, trên thân xe chở theo bộ binh của Sư đoàn đổ bộ đường không cận vệ số 9.[118] Binh lính Leibstandarte vốn không dự kiến xuất kích sớm như vậy trong ngày; kiệt sức sau một tuần chiến đấu trước đó, nhiều người vừa mới bắt đầu sinh hoạt trong ngày thì đòn tấn công đã ập đến.[86][121] Khi các đội hình thiết giáp Liên Xô xuất hiện, các tiền tiêu Đức dọc toàn bộ chính diện của quân đoàn bắn pháo hiệu tím báo động "xe tăng địch tấn công". Obersturmbannführer Rudolf von Ribbentrop, đại đội trưởng đại đội xe tăng thuộc Trung đoàn xe tăng SS số 1, sau này viết rằng ông lập tức hiểu đây là một đợt tấn công lớn.[76] Ông ra lệnh cho đại đội gồm bảy xe Panzer IV vượt qua một cây cầu bắc qua hào chống tăng. Qua cầu, các xe triển khai đội hình trên sườn dốc thấp của cao điểm 252,2. Trên đỉnh cao điểm, Tiểu đoàn bộ binh cơ giới số 3 của Sturmbannführer Joachim Peiper (Trung đoàn bộ binh cơ giới SS số 2) đang bị quân Liên Xô tràn ngập.[122][123]

Khi xe tăng của Ribbentrop tỏa rộng đội hình, ông và Trung đoàn xe tăng SS số 1 bất ngờ đối mặt trực diện với xe tăng Liên Xô thuộc Lữ đoàn xe tăng số 31 và 32 của Quân đoàn xe tăng số 29:[124] "Ở khoảng cách chừng 150–200 mét trước mặt tôi xuất hiện mười lăm, rồi ba mươi, rồi bốn mươi xe tăng. Cuối cùng nhiều đến mức không thể đếm nổi."[122][125] Thiết giáp Liên Xô, vừa chạy vừa bắn, tràn xuống sườn tây của cao điểm 252,2 lao vào đại đội xe tăng Đức, và một trận đấu tăng ác liệt nổ ra.[122] Chiến thuật "áp sát tốc độ cao" của Rotmistrov đã làm rối loạn khả năng chỉ huy và hiệp đồng của các đội hình xe tăng Liên Xô, đồng thời khiến độ chính xác khi bắn giảm mạnh.[86] Trong một trận đánh kéo dài ba giờ, Trung đoàn xe tăng SS số 1 giao chiến với lực lượng tăng tấn công và đẩy lui họ, báo cáo đã phá hủy khoảng 62 xe tăng Liên Xô.[126] Chiều muộn cùng ngày, xe tăng thuộc Lữ đoàn xe tăng số 31 và Lữ đoàn cơ giới 53 xuyên thủng được một số đơn vị của Tiểu đoàn trinh sát thiết giáp SS số 1, tiến tới Nông trang quốc doanh Komsomolets, đe dọa đường liên lạc và cả sở chỉ huy sư đoàn Leibstandarte đặt trên cao điểm 241,6. Các xe tăng Liên Xô đánh vào các trận địa của Trung đoàn pháo tự hành SS số 1, gây thương vong cho một số pháo thủ trước khi chính họ bị các tổ chống tăng Đức dùng hỏa lực trực tiếp tiêu diệt.[126][127]

Cụm bốn xe Tiger của Wittmann được điều tới chi viện cho tiểu đoàn trinh sát trong nhiệm vụ bảo vệ sườn trái của Leibstandarte, và đụng độ với Lữ đoàn xe tăng số 181 thuộc Quân đoàn xe tăng số 18 đang tiến lên.[92][128] Trong một trận đánh kéo dài ba giờ, các xe Tiger giao chiến với xe tăng Liên Xô ở cự ly từ 1.000 mét cho tới cự ly bắn gần, gây thiệt hại nặng nề cho lực lượng tăng Liên Xô và đẩy lùi cuộc tiến công của họ.[124][129] Không chiếc Tiger nào bị phá hủy.[130] Sau đó, các đơn vị của Lữ đoàn xe tăng số 170 tham gia đánh vào Trung đoàn xe tăng SS số 1, vốn đang phải chiến đấu đồng thời với Lữ đoàn 31 và 32. Dù mất đại đội trưởng và khoảng 30 xe tăng trong giao tranh, đến đầu giờ chiều Lữ đoàn 170 đã ép được Trung đoàn xe tăng SS số 1 lùi về khu vực Nông trang quốc doanh Oktyabrsky và vươn tới vị trí của Tiểu đoàn trinh sát thiết giáp SS số 1.[131] Khoảng 18:00, các lữ đoàn xe tăng số 170 và 181 xuyên thủng tuyến liên lạc giữa sư đoàn TotenkopfLeibstandarte.[132] Các pháo tự hành và xe tăng yểm trợ cho Trung đoàn bộ binh cơ giới SS số 6 Theodor Eicke của Totenkopf phản kích, khôi phục lại tuyến phòng ngự, buộc các xe tăng Liên Xô phải rút về làng Andreyevka.[133]

13 giờ chiều, tướng Hermann Hoth ra lệnh cho tướng Dietrich von Choltitz, tư lệnh Quân đoàn xe tăng số 48 tung Sư đoàn xe tăng số 3 có 57 xe tăng Tiger I và 44 xe tăng Pz-IV là lực lượng dự bị chiến dịch cuối cùng vào trận hòng xoay chuyển tình thế. Tuy nhiên, tướng von Choltitz đã hành động quá chậm chạp, mãi đến 14 giờ mới đưa được chủ lực của sư đoàn ra tuyến xuất phát.[134] Trước đó, lúc 13 giờ 30 phút, Quân đoàn xe tăng số 10, lực lượng dự bị của Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5 (Liên Xô) vừa cơ động từ Stary Oskol xuống đã tập kết đầy đủ ở bờ Bắc sông Psyol. Lúc 14 giờ, Quân đoàn này vượt sông đánh tạt sườn Sư đoàn xe tăng số 3 (Đức).[135] Từ nhà ga Aleksandrovka, phía Đông Bắc Prokhorovka 2 km, Nikolai Fyodorovich Vatutin cũng huy động Quân đoàn cơ giới cận vệ số 5 và tập trung các xe tăng còn hoạt động được phản công vào các sư đoàn xe tăng Đức đã kiệt sức. Lần này, đội hình xe tăng của Liên Xô không chỉ có xe tăng hạng trung và hạng nhẹ, mà đã có thêm sự hỗ trợ từ các xe tăng hạng nặng KV-85 có vỏ giáp và hỏa lực mạnh hơn hẳn. Các xe tăng Tiger I không thể chịu đựng được hỏa lực bắn thẳng bằng đạn sabot UBR-265P (УБР-365П) từ pháo nòng dài 85 mm trên xe tăng KV-85 của Liên Xô và phải tháo lui, để lại trên chiến trường hơn 50 chiếc Tiger và PZ-IV. Phía Liên Xô tổn thất 17 chiếc KV-85 và hơn 30 chiếc T-34 do hỏa lực của máy bay cường kích Ju-87, xe tăng và pháo chống tăng Đức.

Cuộc chiến giằng co vẫn diễn ra ác liệt trên toàn bộ khu vực tam giác Prokhorovka - Vasilyevka - Storozhevoye kéo dài đến quá trưa với những thiệt hại nặng nề cho cả hai bên nhưng không đi đến kết quả ngã ngũ. Riêng thị trấn Vaslievka đã qua ba lần giành giật giữa hai bên. Làng Bogorodetskoe cũng hai lần chuyển từ tay quân đội Liên Xô sang tay quân Đức và ngược lại chỉ trong hơn 4 giờ. Trên khúc cong của sông Psyol đã có hàng trăm xe tăng bị cháy của cả hai bên phải lao xuống nước để dập lửa. Khi các xe tăng đều cạn kiện nhiên liệu và đạn dược, thì làng Prokhorovka đã trở thành một đấu trường đẫm máu cho các pháo thủ và lái xe tăng của hai bên chiến đấu với nhau bằng súng ngắn, lưỡi lê, dao găm và thậm chí sử dụng cả nắm đấm.[136]

Đà tiến của các đội hình thiết giáp Liên Xô đổ xuống cao điểm 252,2 bị chặn lại khi tới hào chống tăng ở chân cao điểm. Một số xe tăng lao thẳng xuống hào sâu 15 foot (khoảng 4,6 m), trong khi số khác phải chạy dọc bờ hào tìm chỗ vượt qua. Hỏa lực dữ dội được bắn qua lại giữa các xe tăng Liên Xô và hai đại đội của một tiểu đoàn bộ binh cơ giới Đức ở phía bên kia hào.[137] Những binh sĩ còn sống sót trong tiểu đoàn của Peiper giao chiến với bộ binh Liên Xô và dùng lựu đạn chống tăng từ tính Hafthohlladung đánh vào xe tăng. Hai mươi xe bọc thép chở quân của tiểu đoàn bị phá hủy, một số chiếc do chính họ lao vào húc các xe tăng Liên Xô nặng hơn nhiều trong nỗ lực chặn lại.[138] Cuối cùng, do sức ép lớn từ phía Liên Xô và hai bên sườn bị uy hiếp nghiêm trọng, Leibstandarte buộc phải rút khỏi Nông trang quốc doanh Oktyabrsky, lập tuyến phòng ngự vững hơn cách đó khoảng 1 kilômét về phía nam.[139] Do mất đi những lực lượng này mà hy vọng đánh bại hoàn toàn Quân đoàn xe tăng SS số 2 ngay trong buổi sáng đã tiêu tan. Tuy nhiên quân Đức cũng hoàn toàn thất bại trong việc khai thác lỗ thủng mà họ đạt được trong ngày 11 tháng 7. Bất chấp tổn thất nặng nề, các lực lượng xe tăng Liên Xô vẫn giữ vững được trận tuyến. Lúc này Hồng quân đã thay đổi chiến thuật, các trận đấu tăng chủ yếu diễn ra trong những không gian chật hẹp nhằm hạn chế thương vong như trong buổi sáng ngày 12 tháng 7.[140] Trận đấu tăng cuối cùng kéo dài suốt buổi chiều cho đến sẩm tối, khi binh sĩ cả hai bên đều đã kiệt sức, các xe tăng còn sống sót đều cạn dầu và hầu như hết nhẵn đạn dược.[141] Tướng Vatutin phải hủy bỏ cuộc phản công dự định vào sáng hôm sau vì không còn một quân đoàn xe tăng nào còn đủ cơ số đạn. Trừ quân đoàn xe tăng số 10, không một lữ đoàn xe tăng nào còn lại đến 1/3 số xe tăng trong biên chế.[142]

Cuộc không chiến

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong ngày 12 tháng 7, Không quân Liên Xô với Tập đoàn quân không quân 2 và 17 xuất kích tổng cộng 893 phi vụ, so với 654 phi vụ của Không đoàn không quân số 8 của Đức trên cánh nam của vòng cung Kursk. Tuy nhiên, phần lớn phi vụ của Liên Xô được dồn vào đánh Tập đoàn quân xe tăng số 48 ở phía tây và Quân đoàn xe tăng số 3 ở phía nam; khu vực Prokhorovka chỉ được yểm trợ hạn chế. Mây thấp buổi sáng và dông giông buổi chiều làm cản trở hoạt động không quân của cả hai bên ngay trên chiến trường Prokhorovka. Trong trận này đó có hơn 400 phi vụ cường kích của máy bay Ju-87 nhằm vào các xe tăng Liên Xô. Các tập đoàn quân không quân 5 và 16 (Liên Xô) hơn 600 phi vụ cường kích Il-2. Có khoảng 50 chiếc Il-2 và tổ lái đã xuất kích từ 7 đến 9 phi vụ trong ngày.[140][143]

Trên không phận Prokhorovka, Luftwaffe giành được ưu thế. Các tốp Ju 87 Stuka – trong đó có một số chiếc biến thể G-2 thử nghiệm gắn hai pháo BK 3,7 cỡ 3,7 cm dưới cánh dưới quyền Staffelkapitän Hans-Ulrich Rudel liên tiếp bổ nhào đánh các đội hình Liên Xô. Chúng được yểm hộ và phối hợp bởi tiêm kích–cường kích Focke-Wulf Fw 190 và cường kích hai động cơ Henschel Hs 129, đều trang bị pháo chống tăng số 30 mm.[119]

Đặc biệt, các đơn vị Hs 129 thuộc Geschwader SG 1 gây tổn thất nặng cho xe tăng Liên Xô. Hai liên đoàn Stuka StG 2StG 77 tuy chỉ thực hiện 150 phi vụ – mức thấp nhất kể từ ngày 5 tháng 7 (khi chúng bay tới 1.071 phi vụ) – nhưng số ít Ju 87G tham chiến tỏ ra rất hiệu quả. Sĩ quan liên lạc không quân Đức đi kèm các đơn vị mặt đất có thể dẫn đường cho lực lượng yểm trợ tầm gần đánh chính xác vào các mục tiêu then chốt. SG 1 và phi đội diệt tăng Panzerjägerstaffel/JG 51 thực hiện 248 phi vụ công kích, gần như toàn bộ dành cho việc yểm trợ Quân đoàn xe tăng SS số 2.[71]

Lữ đoàn xe tăng số 31 thuộc Quân đoàn xe tăng số 29 báo cáo: "Chúng tôi chịu tổn thất nặng về xe tăng do hỏa lực pháo binh và không quân địch. Lúc 10 giờ 30, xe tăng của ta đã tới Nông trang quốc doanh Komsomolets, nhưng do các đợt tập kích trên không liên tục, chúng không thể tiến xa hơn và buộc phải chuyển sang phòng ngự."[144] Lữ đoàn còn ghi: "Không quân của ta hoàn toàn vắng mặt cho tới 13 giờ.[6] Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5 kết luận: "Máy bay địch gần như ‘treo’ trên các đội hình chiến đấu của ta suốt cả trận, trong khi không quân của chính ta, đặc biệt là tiêm kích, lại hết sức thiếu hụt."[6] Lữ đoàn xe tăng số 36 mất luôn lữ đoàn trưởng trong một đợt oanh kích.[144]

Người Đức làm chủ bầu trời trên Prokhorovka vì nhiều lý do. Trong giai đoạn đầu trận đánh, chính xe tăng Liên Xô bị bắn cháy, tạo thành những cột khói lớn che khuất chiến trường, khiến các chỉ huy Liên Xô khó nắm bắt tình hình. Thêm vào đó, các đơn vị bộ binh – xe tăng của Hồng quân không được biên chế sĩ quan liên lạc không quân, nên không thể kịp thời gọi yểm trợ khi đội hình tấn công của Đức xuất hiện. Trái lại, Không đoàn số 8 tập trung lực lượng lớn trên bầu trời Prokhorovka, còn Tập đoàn quân không quân 17 lại trải mỏng lực lượng để yểm trợ nhiều hướng; nhờ thế Liên Xô chỉ giành ưu thế trên không ở hai sườn của Tập đoàn quân xe tăng số 4, để trống bầu trời ngay trên Prokhorovka. Lực lượng tiêm kích của Tập đoàn quân không quân 2 lúc này chỉ còn 266 chiếc hoạt động, lại chủ yếu dùng làm tiêm kích hộ tống chứ không phải tranh giành ưu thế trên không.[6] Trận Prokhorovka đã hút phần lớn sức chiến đấu của Không đoàn số 8, khiến họ không còn khả năng can thiệp hữu hiệu để hỗ trợ Tập đoàn quân xe tăng số 48, tạo điều kiện cho phòng tuyến Liên Xô đánh bại nỗ lực đột phá ở hướng đó.[6]

Thế bố trí, cách sử dụng và chiến thuật trên không trong ngày 12 tháng 7 khiến tổn thất trong không chiến trực tiếp của cả hai bên tương đối thấp. Không đoàn số 8 báo cáo 19 máy bay bị hư hại và phá hủy, trong đó chỉ có một chiếc bị tiêm kích Liên Xô bắn rơi, số còn lại là nạn nhân của hỏa lực phòng không mặt đất. Đổi lại, Tập đoàn quân không quân 2 báo cáo mất và hư hại 14 tiêm kích. Phi công tiêm kích Đức chỉ xác nhận bắn rơi bảy chiếc, dù tổng cộng họ khai diệt 16 máy bay các loại. Tổn thất của không quân ném bom Liên Xô trong ngày hôm đó hiện không xác định.[6]

Kết quả trận đánh

[sửa | sửa mã nguồn]
Quân Đức trong thời gian tạm lắng giao tranh trong chiến dịch Thành trì tại Kursk

Đến cuối ngày 12 tháng 7, Sư đoàn Leibstandarte vẫn giữ được cao điểm 252,2,[145] nhưng đã kiệt sức sau khi phải đẩy lùi năm lữ đoàn xe tăng Liên Xô.[86][146]Ở bên trái, Sư đoàn Totenkopf đã chiếm được cao điểm 226,6 và tiến dọc bờ bắc sông Psel, tới được con đường Kartashyovka–Prokhorovka, cách Prokhorovka 8 kilômét (5,0 mi) về phía tây bắc, đúng như kế hoạch.[147] Từ đây, họ ở vị trí thuận lợi để đánh vòng sườn lực lượng Liên Xô tại Prokhorovka, nhưng lại chịu sức ép mạnh từ các đợt phản kích của Hồng quân nên việc giữ vững địa bàn mới chiếm được rất bấp bênh.[148] Bị các đòn tiến công của Quân đoàn xe tăng cận vệ số 2 và Quân đoàn xe tăng số 2 buộc phải chuyển sang phòng ngự, Sư đoàn cơ giới SS cận vệ số 2 Das Reich không thể thực hiện các đòn cơ động tấn công như kế hoạch.[108][149]

Về phía Liên Xô, toàn bộ các đơn vị xe tăng thuộc Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5 của tướng Pavel Rotmistrov tham chiến trong ngày 12 tháng 7 đều chịu thiệt hại nặng nề.[150] Sau này Rotmistrov viết rằng Quân đoàn xe tăng số 29 mất 60% số xe tăng, còn Quân đoàn xe tăng số 18 mất 30% chỉ riêng trong ngày 12 tháng 7.[151] Một báo cáo của Bộ Tổng tham mưu Hồng quân ghi nhận: "Như vậy, trong ngày 12 tháng 7, Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5 đã không hoàn thành nhiệm vụ được giao. Do đòn tiến công chính diện, các quân đoàn của tập đoàn quân đã phải giao chiến ác liệt với những lực lượng xe tăng lớn của địch và cuối cùng bị buộc phải chuyển sang phòng ngự."[152]

Rotmistrov buộc phải chuyển Quân đoàn xe tăng số 18 và Quân đoàn xe tăng số 29 sang thế phòng ngự và tăng cường thêm bộ binh cho họ.[153] Các đơn vị này đào thêm chiến hào, chôn một phần xe tăng xuống đất làm ổ hỏa lực cố định, rải thêm bãi mìn, xây dựng các cụm phòng ngự chống tăng và tập trung các cụm pháo binh.[154][155] Hai lữ đoàn thuộc Quân đoàn cơ giới cận vệ số 5 gồm Lữ đoàn cơ giới cận vệ số 10 và Lữ đoàn xe tăng cận vệ số 24 chuẩn bị cho đợt phản kích nhằm đẩy lùi Totenkopf vào sáng hôm sau.[156]

Stalin rất thất vọng và tức giận trước những báo cáo ban đầu về tổn thất nặng nề của Liên Xô trong trận đánh; tối 12 tháng 7, ông đã mắng nhiếc Rotmistrov qua điện thoại.[157] Ngay tối hôm đó, ông cử Nguyên soái Georgy Zhukov khi đó đang giám sát Chiến dịch Kutuzov ở cánh bắc tới sở chỉ huy của Vatutin với tư cách đại diện của Stavka để nắm quyền điều phối tác chiến của các Phương diện quân Voronezh và Thảo nguyên.[157][158] Sáng sớm ngày 13 tháng 7, các sư đoàn xe tăng Đức bị trọng thương và kiệt sức đã rút hết ra khỏi chiến trường. 8 giờ 30 phút, Nguyên soái Zhukov đi thị sát cánh đồng Prokhorovka. Trong suốt chuyến thị sát, ông không nói một câu nào. Tướng Rotmistrov đi tháp tùng Zhukov sau này cho biết ông chưa bao giờ thấy nguyên soái lặng người đi như thế. Còn nguyên soái Vasilevsky thì bảo rằng kết quả trận đánh để lại cho ông một ấn tượng suốt đời.[159] Một ủy ban điều tra cũng được thành lập để xem xét nguyên nhân tổn thất lớn và vai trò của Rotmistrov cùng kế hoạch tác chiến của ông trong trận này; bản kết luận được hoàn tất và trình lên Stalin hai tuần sau đó. Ban đầu Stalin đã cân nhắc cách chức Rotmistrov và đưa ông ra tòa án quân sự, nhưng cuối cùng thay đổi ý định sau khi Tổng tham mưu trưởng Aleksandr Vasilevsky đứng ra can thiệp.[160]

Diễn biến sau trận đánh chính

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong đêm 12 tháng 7, Vatutin ra lệnh cho các lực lượng Liên Xô phải ngăn chặn mọi nỗ lực tiến thêm của quân Đức về phía Prokhorovka, tiêu diệt các đơn vị Đức đã tiến được dọc bờ bắc sông Psel, và chặn đứng bước tiến của Quân đoàn xe tăng số 3.[158] Mệnh lệnh của phía Đức cho ngày 13 tháng 7 chỉ thị cho Sư đoàn thiết giáp SS số 3 Totenkopf củng cố các kết quả đạt được trong ngày hôm trước rồi sau đó tấn công vào sườn và phía sau các lực lượng Liên Xô quanh Prokhorovka.[161] Leibstandarte được lệnh tăng cường tuyến phòng ngự phía trước và hiệp đồng với Totenkopf, tấn công Prokhorovka từ phía nam, đồng thời Totenkopf đánh từ tây bắc vào.[161] Sư đoàn Das Reich phải củng cố và gia cố tuyến của mình, chuẩn bị cho một cuộc tấn công nhằm kết nối với Quân đoàn xe tăng số 3.[162]

Giao tranh tiếp diễn quanh Prokhorovka

[sửa | sửa mã nguồn]

Sáng 13 tháng 7, Lữ đoàn cơ giới cận vệ số 10 và Lữ đoàn xe tăng cận vệ số 24, phối hợp với các Sư đoàn súng trường cận vệ số 95 và 52, mở các đợt tấn công vào Totenkopf.[163] Các đòn đánh này buộc Totenkopf phải lo đối phó và khiến sư đoàn không thể triển khai tấn công về hướng Prokhorovka như kế hoạch.[164] Khoảng giữa trưa, Tiểu đoàn trinh sát thiết giáp SS số 1 của Leibstandarte được lệnh tấn công ngược lên phía bắc về phía sông Psel để nối liền tuyến với Totenkopf, trong khi các đơn vị xe tăng của sư đoàn sẽ tấn công vào các vị trí Liên Xô ở phía đông bắc Nông trang quốc doanh Oktyabrsky, theo hướng Prokhorovka.[165]

Tiểu đoàn trinh sát thiết giáp SS số 1 tấn công vào trận địa phòng thủ của Sư đoàn súng trường cận vệ số 42 và số xe tăng còn lại của Quân đoàn xe tăng số 18, trong khi các đơn vị xe tăng Đức đánh vào tuyến phòng ngự của Sư đoàn đổ bộ đường không cận vệ số 9 và Quân đoàn xe tăng số 29. Những đòn công kích này bị đẩy lùi bởi hỏa lực tập trung của pháo chống tăng Liên Xô.[166] Quân đoàn xe tăng số 29 đáp trả bằng một cuộc phản kích, chọc thủng phòng tuyến Đức và tiến tới tận Nông trang quốc doanh Komsomolets trước khi bị đẩy lùi bởi hỏa lực trực xạ của pháo binh Đức.[166] Chiều hôm đó, Totenkopf được lệnh rút bỏ các vị trí của mình ở tây bắc Prokhorovka và lui về tuyến phòng ngự vững hơn quanh cao điểm 226,6.[167] Các nỗ lực của Liên Xô nhằm cắt đứt dải lồi hẹp mà sư đoàn chiếm giữ đều thất bại, và Totenkopf hoàn tất việc rút lui trước khi đêm xuống.[167]

Chấm dứt Chiến dịch Thành trì

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 13 tháng 7, Hitler triệu tập Manstein và tư lệnh Cụm tập đoàn quân Trung tâm, Thống chế Günther von Kluge, tới tổng hành dinh mặt trận phía Đông của ông tại Hang Sói (Wolfsschanze) ở Đông Phổ.[168][169] Cuộc đổ bộ của phe Đồng Minh lên đảo Sicilia trong đêm 9–10 tháng 7, cùng với cuộc phản công của Liên Xô trong Chiến dịch Kutuzov đánh vào sườn và phía sau Tập đoàn quân 9 của tướng Walter Model ở mặt bắc chỗ lồi Kursk từ ngày 12 tháng 7, và những đòn tấn công của các lực lượng Liên Xô mạnh ở Prokhorovka cùng ngày, đã khiến Hitler quyết định dừng chiến dịch và bắt đầu điều quân sang chiến trường Địa Trung Hải.[169][158] Ông ra lệnh cho các tướng lĩnh chấm dứt Chiến dịch Thành trì.[170]

Kluge hoan nghênh quyết định này, vì ông đã bắt đầu rút bớt các đơn vị của Tập đoàn quân 9 khỏi phía bắc chỗ lồi Kursk để đối phó với các đòn công kích của Liên Xô vào sườn của mình.[171] Trái lại, Manstein tỏ ra hết sức thất vọng. Ông lập luận rằng lực lượng của mình ở phía nam đang ở ngưỡng một đột phá lớn. Theo quan điểm của Manstein, với việc Quân đoàn xe tăng số 3 sắp nối được với Quân đoàn xe tăng SS số 2 tại Prokhorovka, và với Quân đoàn xe tăng số 24 còn trong tay làm lực lượng dự bị chiến dịch, thì việc dừng chiến dịch đúng lúc này là khi thắng lợi đã ở trong tầm tay. Tuy nhiên, với mối lo từ hướng Tây, Hitler không muốn tiếp tục cuộc tấn công.[172][173] Manstein tiếp tục thuyết phục, đề nghị ít nhất cũng phải tiêu diệt được các lực lượng dự bị của Liên Xô ở phía nam chỗ lồi Kursk trước khi chính thức kết thúc Chiến dịch Thành trì, để làm suy kiệt sức chiến đấu của đối phương trong khu vực này cho phần còn lại của mùa hè.[172][173] Hitler đồng ý cho tiếp tục các hoạt động tiến công ở cánh nam cho tới khi đạt được mục tiêu đó.[172][173]

Chiến dịch Roland

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau cuộc gặp với Hitler ngày 13 tháng 7, Manstein vội vàng soạn thảo kế hoạch cho Chiến dịch Roland, nhận thấy rằng ông chỉ còn vài ngày để triển khai trước khi Quân đoàn xe tăng SS số 2 bị rút đi điều động tới nơi khác.[174] Kế hoạch đưa ra Sư đoàn Das Reich sẽ tấn công về phía đông và nam để nối liên lạc với Quân đoàn xe tăng số 3, lực lượng sẽ đánh lên phía tây bắc. TotenkopfLeibstandarte lần lượt giữ vai trò trụ cột ở hai sườn tây và bắc cho Das Reich. Sau khi mũi đột phá nối được với Quân đoàn xe tăng số 3 và bao vây các lực lượng Liên Xô, Prokhorovka sẽ bị tấn công ngay sau đó bởi lực lượng hợp quân của Quân đoàn xe tăng SS số 2 và Quân đoàn xe tăng số 3.[174] Mục tiêu của chiến dịch là tiêu diệt các lực lượng dự bị thiết giáp của Liên Xô đang tập trung ở khu vực nam chỗ lồi Kursk, từ đó kiềm chế khả năng tiến công của Liên Xô trong phần còn lại của mùa hè.[173][175]

Mệnh lệnh cho Chiến dịch Roland được ban hành trong những giờ cuối cùng của ngày 13 tháng 7 năm 1943.[176][177] Tuy nhiên, sau khi gặp Manstein, Hitler đã hủy lệnh điều Quân đoàn xe tăng số 24 lên chỗ lồi Kursk, và ngày 14 tháng 7 lại điều đơn vị này xuống hỗ trợ Tập đoàn quân xe tăng số 1 ở phía nam.[178] Cuộc tấn công bắt đầu lúc 04:00 ngày 14 tháng 7.[176][179] Sau một loạt pháo kích ngắn, Trung đoàn bộ binh cơ giới SS số 4 Der Führer thuộc Das Reich đánh chiếm các điểm cao phía tây nam Pravorot, đánh bật tàn quân của Quân đoàn xe tăng cận vệ số 2 khỏi làng Belenikhino sau những trận đánh giáp lá cà từng nhà. Trung đoàn xe tăng SS số 2 của Das Reich đẩy lùi một loạt đợt phản kích và buộc các đơn vị Hồng quân phải rút về tuyến mới phía đông.[180]

Zhukov ra lệnh cho Lữ đoàn cơ giới cận vệ số 10 thuộc Quân đoàn cơ giới cận vệ số 5 lên tăng cường tuyến phòng ngự. Sư đoàn xe tăng số 7 của Quân đoàn xe tăng số 3 đã bắt được liên lạc với Das Reich, nhưng Trufanov - chỉ huy lực lượng Liên Xô trong khoảng trống nhận thấy mối đe dọa và tổ chức rút lui vừa đánh vừa lui. Cuộc hội quân không tạo được một vòng vây bao trùm các đơn vị Liên Xô, dù họ buộc phải bỏ lại một số lượng đáng kể pháo chống tăng.[180] Chiến dịch Roland đã không đem lại kết quả quyết định nào cho phía Đức,[181]Totenkopf bắt đầu rút khỏi các vị trí phía bắc sông Psel theo mệnh lệnh ban hành tối 15 tháng 7, khi Quân đoàn xe tăng SS số 2 chuyển sang phòng ngự trên toàn bộ mặt trận..[182][183]

Ngày 17 tháng 7, các Phương diện quân Tây Nam và Phương diện quân Nam của Liên Xô mở một cuộc tiến công lớn vượt sông Mius và sông Donets đánh vào cánh nam của Cụm tập đoàn quân Nam, dồn ép Tập đoàn quân số 6 và Tập đoàn quân xe tăng số 1.[184][185] Đầu giờ chiều 17 tháng 7, Chiến dịch Roland bị kết thúc bằng mệnh lệnh rút Quân đoàn xe tăng SS số 2 khỏi khu vực Prokhorovka về Belgorod.[182][186] Tập đoàn quân xe tăng số 4 và Cụm tác chiến Kempf đã đoán trước được mệnh lệnh này và bắt đầu thực hiện từ tối ngày 16 tháng 7.[187][188] Xe tăng của Leibstandarte được chia cho Das ReichTotenkopf, còn toàn bộ sư đoàn được vội vã điều sang Ý,[189] trong khi Das ReichTotenkopf được điều xuống phía nam để đối phó với những cuộc tiến công mới của Liên Xô.[190][191]

Thiệt hại

[sửa | sửa mã nguồn]
Đài kỷ niệm chiến thắng của Quân đội Liên Xô trên cánh đồng Prokhorovka.

Tổn thất trong ngày 12 tháng 7 rất khó xác định chính xác đối với cả hai bên tham chiến. Số liệu về xe tăng bị coi là tổn thất phía Đức thay đổi khá nhiều,[192] một phần do cách thức Wehrmacht tính toán và báo cáo thiệt hại trang bị. Chỉ những phương tiện không thể sửa chữa hoặc buộc phải bỏ lại mới được tính là "tổn thất", còn các phương tiện bị hư hỏng nhưng có thể kéo về và sửa chữa thì chỉ được liệt kê là "bị hỏng".[193][194] Tương tự, rất khó xác định số liệu tin cậy về xe tăng và thương vong nhân lực của Hồng quân Liên Xô trong Trận Prokhorovka.[195] Hồng quân coi mọi xe tăng bị hư hỏng đến mức kíp xe không thể tự sửa chữa ngay tại chỗ là "bị loại khỏi vòng chiến", ngay cả khi sau đó cấp sửa chữa cao hơn có thể khắc phục được hư hỏng và đưa xe trở lại chiến đấu. Điều này có nghĩa là một xe tăng Liên Xô có thể bị "bắn hỏng" nhiều lần, rồi lại được sửa chữa và tái sử dụng.

Phía Đức

[sửa | sửa mã nguồn]

Quân đoàn xe tăng SS số 2 báo cáo 842 binh sĩ bị thương vong hoặc mất tích trong riêng ngày 12 tháng 7, và 2.672 người cho giai đoạn từ 12 đến 16 tháng 7.[196] Do quân Đức kiểm soát phần lớn chiến trường Prokhorovka cho tới ngày 17 tháng 7, họ có thể thu hồi phần lớn xe tăng – thiết giáp bị hư hỏng.[193][197] Báo cáo hậu cần của Quân đoàn SS số 2 trong ngày 12 tháng 7 không ghi nhận tổn thất vĩnh viễn nào về xe tăng.[197] Các nguồn tài liệu Đức khác cho thấy ba xe tăng của Quân đoàn SS số 2 (hai xe Panzer IV và một xe Tiger) bị bất động trên chiến trường không thể thu hồi về được; do đó số tổn thất vĩnh viễn trong ngày 12 tháng 7 chỉ có thể điều chỉnh tối đa lên thành ba xe tăng.[197]

Một nghiên cứu của Trung tâm Chiến lược và Đánh giá Lực lượng thuộc Lục quân Hoa Kỳ quy cho phía Đức tổn thất vĩnh viễn là sáu xe tăng, không tính các xe tăng hạng nhẹ Panzer I và Panzer II, cũng như pháo tự hành tấn công nếu có.[198] Tài liệu lưu trữ của Quân đoàn SS số 2 và Tập đoàn quân xe tăng số 4 cho thấy từ ngày 12 đến 23 tháng 7, Quân đoàn SS số 2 mất vĩnh viễn 17 xe tăng và pháo tự hành, nên đây là con số tổn thất tối đa có thể gán cho đơn vị này trong trận đánh ngày 12 tháng 7 và trong toàn bộ giai đoạn cho tới khi kết thúc Chiến dịch Roland.[195]

Tài liệu lưu trữ của Quân đoàn xe tăng SS số 2 ghi nhận quân đoàn này có 294 xe tăng và pháo tự hành hoạt động được vào tối ngày 11 tháng 7, và 251 chiếc vào tối ngày 13 tháng 7.[77] Giả định rằng một số xe bị hư hỏng đã được sửa xong và đưa trở lại hoạt động trong ngày 13 tháng 7, các con số này cho thấy ít nhất 43 xe tăng và pháo tự hành đã trở nên không còn hoạt động được trong khoảng thời gian đó, bao gồm toàn bộ 10 xe Tiger của Sư đoàn Totenkopf và một chiếc thuộc Sư đoàn Leibstandarte.[199] Tổng cộng ước tính có từ 60 đến 80 xe tăng và pháo tự hành của Quân đoàn xe tăng SS số 2 bị hư hỏng hoặc phá hủy trong chiến đấu ngày 12 tháng 7.[200][201] Tới cuối ngày 16 tháng 7, Quân đoàn xe tăng SS số 2 có 292 xe tăng và pháo tự hành hoạt động tốt, gần như tương đương với con số lúc bắt đầu trận đánh ngày 12 tháng 7.[202] Ngày 12 tháng 7, Không đoàn cường kích 1 (Schlachtgeschwader 1) thuộc Quân đoàn Không quân 8 báo cáo 11 máy bay bị hư hại do hỏa lực phòng không Liên Xô, trong đó 6 chiếc bị loại biên hoàn toàn.[6]

Không chỉ thiệt hại nặng về xe tăng và binh lính, quân đội Đức Quốc xã còn có thêm thiệt hại đáng kể về sĩ quan chỉ huy cao cấp. Sáng 13 tháng 7, trong khi rút quân, trung tướng Walther von Hünersdorff, chỉ huy Sư đoàn xe tăng số 6 (Đức) đã bị một vết thương nhẹ ở đầu do đạn tiểu liên. Đến chiều hôm ấy, sư đoàn xe tăng số 6 lại bị không quân Liên Xô oanh tạc và lần này Walther von Hünersdorff tiếp tục bị thương nặng vào đầu, được đưa về bệnh viện Kharkov cứu chữa nhưng không qua khỏi và đã chết ngày 17 tháng 7 năm 1943.[203]

Phía Liên Xô

[sửa | sửa mã nguồn]
Một chiếc T-34 bị phá hủy

Một tài liệu do Bộ tư lệnh Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5 lập ngày 17 tháng 7 năm 1943 tổng kết thiệt hại chiến đấu mà đơn vị này gánh chịu từ 12 đến 16 tháng 7 cho toàn bộ năm quân đoàn trực thuộc, cũng như các đơn vị nhỏ trực tiếp thuộc quyền Bộ tư lệnh tập đoàn quân.[204] Tài liệu này ghi nhận các tổn thất không thể khôi phục như sau: 222 xe T-34, 89 xe T-70, 12 xe Churchill, 8 pháo tự hành SU-122, 3 pháo tự hành SU-76, và 240 xe phương tiện bảo đảm.[204] Các phương tiện bị hư hại nhưng đang trong quá trình sửa chữa gồm 143 xe T-34, 56 xe T-70, 7 xe Churchill, 3 SU-122 và 3 SU-76; không có số liệu về phương tiện hỗ trợ.[204]

Tài liệu cũng báo cáo thương vong nhân lực gồm 2.940 người hy sinh, 3.510 người bị thương, và 1.157 người mất tích.[204] Như vậy tổng cộng có 334 xe tăng và pháo tự hành bị tổn thất không thể khôi phục,[195] 212 xe tăng và pháo tự hành khác đang trong sửa chữa, cùng 7.607 thương vong. Nhà sử học Karl-Heinz Frieser cho rằng phần lớn những thiệt hại này xảy ra trong ngày 12 tháng 7.[205]

Khi cộng gộp riêng tổn thất ngày 12 tháng 7 của từng đơn vị thuộc Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5, nhà sử học Valery Zamulin xác định có 3.563 thương vong, trong đó 1.505 người hy sinh hoặc mất tích, và 340 xe tăng – pháo tự hành bị hư hại hoặc phá hủy.[206] Về phương tiện bị hư hại hoặc phá hủy, David M. Glantz và Jonathan House ước tính toàn bộ Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5 đã mất ít nhất 400 xe tăng trong các đợt tấn công ngày 12 tháng 7.[207] Các nhà sử học Liên Xô Grigoriy Koltunov và Boris Soloviev ước tính khoảng 300 xe tăng và pháo tự hành của Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5 bị hư hại hoặc phá hủy trong ngày hôm đó.[6][151]

Nghiên cứu của Trung tâm Chiến lược và Đánh giá Lực lượng Lục quân Hoa Kỳ báo cáo rằng riêng Quân đoàn xe tăng cận vệ số 2, Quân đoàn xe tăng số 18 và Quân đoàn xe tăng số 29 đã mất vĩnh viễn 144 xe tăng trong ngày 12 tháng 7, không kể pháo tự hành.[198] George Nipe ước tính tổng cộng 600–650 xe tăng của Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5 bị hư hại hoặc phá hủy trong khi giao chiến với cả Quân đoàn xe tăng SS số 2 và Quân đoàn xe tăng số 3 của Đức trong ngày 12 tháng 7.[208]

Kết quả

[sửa | sửa mã nguồn]

Tồn tại nhiều tranh luận về ý nghĩa và kết cục thực sự của trận đánh. Quân Đức đã phá hủy rất nhiều xe tăng Liên Xô và tạm thời làm suy yếu sức tiến công của Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5, nhưng họ không chiếm được Prokhorovka và cũng không thể đột phá ra địa hình trống trải trước khi những diễn biến ở các khu vực khác buộc phải chấm dứt Chiến dịch Thành trì.[86][130] Về phía Liên Xô, đòn tiến công thiết giáp quy mô lớn ngày 12 tháng 7 đã không tiêu diệt được Quân đoàn xe tăng SS số 2, nhưng lại khiến quân Đức kiệt sức và cuối cùng góp phần chặn đứng bước tiến của họ.[209] Do đó, cả Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5 lẫn Quân đoàn xe tăng SS số 2 đều không hoàn thành được mục tiêu đề ra cho ngày 12 tháng 7.[209][210]

Tuy trận đánh thường được xem là một thắng lợi chiến thuật của phía Đức do số lượng xe tăng Liên Xô bị tiêu diệt rất lớn,[211] nhưng xét về tổng thể, Liên Xô đã hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ phòng ngự tại Prokhorovka và tạo điều kiện cho cuộc phản công quyết định sau đó là Chiến dịch Thống chế Rumyantsev đúng như kế hoạch.[212] Bất chấp kết quả chiến thuật như thế nào, trận Prokhorovka là một chiến thắng thực sự ở cấp độ chiến dịch cũng như về cả phương diện tinh thần; phát xít Đức cứ ngỡ là họ đã chọc thủng trận tuyến Hồng quân và chỉ còn gặp những ổ kháng cự nhỏ với vài khẩu đội pháo chống tăng - nhưng đối thủ của họ lại là một đội quân hàng trăm chiếc xe tăng và còn hàng trăm chiếc khác đang chờ họ phía sau. Rõ ràng trong trận Prokhorovka quân Đức đã không thể đánh bại được Hồng quân và điều này đã ảnh hưởng tai hại đến các kế hoạch và chiến lược của phát xít Đức sau đó.[213] Rốt cuộc, không có mũi đột phá nào của quân Đức ở Prokhorovka cũng như tại các khu vực khác trong mỏm lồi Kursk; đây là lần đầu tiên trong Thế chiến II một chiến dịch tiến công lớn của Đức bị chặn lại trước khi có thể xuyên thủng phòng tuyến đối phương và thọc sâu tới chiều sâu chiến dịch hoặc chiến lược của họ.[214] Với việc Chiến dịch Thành trì kết thúc, quyền chủ động chiến lược trên Mặt trận phía Đông vĩnh viễn chuyển sang tay Liên Xô trong phần còn lại của cuộc chiến.[215]

Những hiểu lầm và tranh cãi

[sửa | sửa mã nguồn]

Quy mô trận đấu tăng và thiệt hại phía Đức

[sửa | sửa mã nguồn]

Trận đánh thường được mô tả là trận đấu tăng hoặc trận chiến xe tăng lớn nhất trong lịch sử quân sự, với 1.200–1.500 xe tăng, thậm chí lên đến 2.000, nhưng điều này là không đúng; trận Prokhorovka không hề có số lượng xe tăng lớn như vậy.[216] Các con số phóng đại này bắt nguồn từ những ước lượng sai của tình báo Liên Xô về lực lượng tăng thiết giáp Đức trong và sau trận đánh, rồi được các tài liệu thời hậu chiến lặp lại và củng cố.[217][130] Một số ước tính của Liên Xô còn cho rằng có tới 800 xe tăng và pháo tự hành Đức tấn công Prokhorovka trong ngày 12 tháng 7.[217]

Đối chiếu tài liệu lưu trữ của Liên Xô và Đức cho thấy tổng số xe tăng và các phương tiện chiến đấu bọc thép hạng nặng khác như pháo xung kích và pháo tự hành mà Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5 và Quân đoàn xe tăng SS số 2 triển khai quanh Prokhorovka trong trận đánh chỉ vào khoảng 910 chiếc.[105] Quân đoàn xe tăng SS số II chưa bao giờ sở hữu số lượng xe tăng và pháo tự hành như các ước tính của Liên Xô gán cho nó trong suốt Chiến dịch Thành trì,[130] ngay cả lúc khởi đầu chiến dịch khi đơn vị này chỉ có 494 xe tăng và pháo xung kích.[218]

Ngay cả khi mở rộng phạm vi định nghĩa trận Prokhorovka để tính cả Quân đoàn xe tăng số 3 và phần lực lượng của Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5 đối diện với nó, tổng số xe tăng và phương tiện chiến đấu bọc thép hạng nặng cũng chỉ tối đa là 1.299 chiếc.[105]Trái lại, chẳng hạn như Trận Brody trong Chiến dịch Barbarossa đã có hơn 2.000 xe tăng tham chiến, và tổng cộng tới 6.000 xe tăng trong toàn bộ thời gian trận đánh, trên một chiến trường dài 70 kilômét (43 mi).[219][220] Dù vậy, Trận Prokhorovka vẫn được coi là một trong những trận chiến xe tăng lớn nhất trong lịch sử.

Những con số thiệt hại xe tăng rất cao thường bị gán cho phía Đức trong trận đánh cũng là không chính xác.[130] Chẳng hạn, Rotmistrov trong các hồi ký sau chiến tranh khẳng định quân Đức đã mất 350–400 xe tăng, trong đó có 70 chiếc Tiger, và 3.500–10.000 binh sĩ chỉ trong ngày 12 tháng 7,[105] Còn một nghiên cứu của Bộ Tổng tham mưu Liên Xô về Trận Kursk cho rằng phía Đức mất 300 xe tăng, 20 pháo xung kích và hơn 4.500 binh sĩ trong giai đoạn 12–16 tháng 7.[221]

Động cơ dẫn tới trận đánh tại Prokhorovka

[sửa | sửa mã nguồn]

Các nhà sử học David M. Glantz và Jonathan House cho rằng ý định ban đầu của Bộ chỉ huy Tập đoàn quân xe tăng số 4 là tiến công theo hướng bắc, với hai quân đoàn xe tăng tiến song song về Oboyan rồi tiếp tục tới Kursk; nhưng ngày 9 tháng 7, sự kháng cự mạnh mẽ của Liên Xô trên trục đường tới Oboyan buộc Hoth phải thay đổi kế hoạch một cách tai hại, ra lệnh cho Quân đoàn xe tăng SS số 2 chuyển hướng từ tây bắc sang đông bắc, đánh về phía Prokhorovka.[222][223] Theo Glantz và House, Trận Prokhorovka vì thế không nằm trong ý đồ ban đầu mà là hệ quả của những ứng biến muộn màng và sai lầm trong kế hoạch của phía Đức.[224]

Cách diễn giải này bị nhà sử học Steven Newton phản bác; ông dành hẳn một phần trong công trình xuất bản năm 2002 về Chiến dịch Thành trì để bác bỏ quan điểm trên.[225] Dựa trên các ghi chép trực tiếp của sĩ quan Đức trực tiếp chỉ đạo chiến dịch và việc rà soát lại các nguồn mà Glantz và House sử dụng, Newton lập luận rằng kế hoạch để Tập đoàn quân xe tăng số 4 chuyển từ hướng Oboyan sang hướng Prokhorovka đã được quyết định ngay từ tháng 5 năm 1943, rất lâu trước khi Chiến dịch Trành trì bắt đầu. Theo ông, các nhà hoạch định chiến lược của Cụm tập đoàn quân Nam luôn dự liệu sẽ phải chạm trán lực lượng dự bị của Liên Xô ở khu vực sông Psel và Prokhorovka.[225] Những kết luận này cũng được các sử gia khác xác nhận.[226] Newton còn cho rằng đây mới là tường thuật vốn dĩ được chấp nhận rộng rãi trong tài liệu hậu chiến.[227]

Yếu tố bất ngờ

[sửa | sửa mã nguồn]

Một số nhà sử học cho rằng binh lính Đức không hề trông đợi một đòn phản công bằng thiết giáp của Liên Xô và đã bị bất ngờ trong ngày 12 tháng 7.[228] Tuy nhiên, các sử gia khác lại khẳng định hoặc lập luận rằng các chỉ huy Đức biết rõ hoặc ít nhất cũng dự đoán được việc Liên Xô tập trung lực lượng xe tăng quanh Prokhorovka, do đó nói rằng quân Đức "bị đánh úp" hoàn toàn là không chính xác.[229][230] Nhà sử học Đức Dieter Brand cho rằng, dù các tướng lĩnh Đức đã chờ đợi một đòn tập trung lực lượng xe tăng lớn của Liên Xô tại Prokhorovka, thì binh lính ở tuyến đầu trên thực tế vẫn bị bất ngờ ở mức độ lớn khi Hồng quân mở cuộc phản công vào buổi sáng ngày 12 tháng 7.[86]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Ghi chú

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b Các nhà sử học đưa ra những mốc thời gian khác nhau, từ ngày 9 đến ngày 17 tháng 7, cho khoảng thời gian diễn ra trận đánh (Zamulin 2011, tr. 516; Glantz & House 2004, tr. 151; Zetterling & Frankson 2000, tr. 107; Nipe 1998), nhưng trận đấu xe tăng chính diễn ra vào ngày 12 tháng 7. Ngày 9 tháng 7, mệnh lệnh tấn công Prokhorovka được ban cho Quân đoàn xe tăng SS số 2, và cuộc tấn công hướng vào thị trấn bắt đầu vào sáng hôm sau, 10 tháng 7 (Glantz & House 2004, tr. 146; Clark 2012, tr. 337, 341). Đến ngày 17 tháng 7, Quân đoàn xe tăng SS số 2 được lệnh đình chỉ mọi hoạt động trong khu vực Prokhorovka và bắt đầu rút khỏi chỗ lồi Kursk về Belgorod(Glantz & House 2004, tr. 223; Zetterling & Frankson 2000, tr. 98).
  2. ^ Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5 được chuyển khỏi quyền chỉ huy của Phương diện quân Thảo nguyên sang Phương diện quân Voronezh vào ngày 11 tháng 7.[1] Toàn bộ các quân đoàn trực thuộc của nó tính đến ngày 12 tháng 7 được liệt kê dưới đây;[2] tuy nhiên, các sư đoàn, trung đoàn và tiểu đoàn trực thuộc trực tiếp Bộ tư lệnh tập đoàn quân thì không được liệt kê.[1]
  3. ^ a b Ban đầu, Quân đoàn xe tăng cận vệ số 2 không thuộc biên chế Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5. Đơn vị này được chuyển quyền chỉ huy từ Tập đoàn quân xe tăng số 1 sang Tập đoàn quân số 69 vào ngày 10 tháng 7, và sau đó sang Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5 vào ngày 11 tháng 7. (Glantz & House 2004, tr. 318).
  4. ^ a b Quân đoàn xe tăng số 2 ban đầu không thuộc Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5, mà nằm dưới quyền chỉ huy của Phương diện quân Tây Nam; đơn vị này được chuyển giao sang Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 5 vào ngày 11 tháng 7 (Glantz & House 2004, tr. 321). Do các trận đánh trước đó, đến ngày 12 tháng 7, Quân đoàn xe tăng số 2 chỉ còn lại rất ít xe tăng, trong đó nhiều chiếc đang bị ghìm chân trong giao tranh ở những khu vực khác ngoài chiến trường Prokhorovka và không còn liên lạc với sở chỉ huy cấp trên trực tiếp. Vì vậy, đơn vị này được tăng cường thêm Lữ đoàn chống tăng số 10 và bị giao vai trò yểm trợ ở khu vực gần Prokhorovka(Zetterling & Frankson 2000, tr. 106; Glantz & House 2004, tr. 179, 181).
  5. ^ a b Hai trong số bốn lữ đoàn của Quân đoàn cơ giới cận vệ số 5 gồm các Lữ đoàn cơ giới cận vệ số 10, 11, 12 và Lữ đoàn xe tăng cận vệ số 24 được điều động xuống phía nam để chặn Quân đoàn xe tăng số 3, khiến đến ngày 12 tháng 7, gần Prokhorovka chỉ còn lại Lữ đoàn cơ giới cận vệ số 10 và Lữ đoàn xe tăng cận vệ số 24 của quân đoàn này. (Clark 2012, tr. 379; Zetterling & Frankson 2000, tr. 101; Glantz & House 2004, tr. 321).
  6. ^ Quân đoàn súng trường cận vệ số 33 là một phần của Tập đoàn quân cận vệ số 5, đơn vị đã được chuyển khỏi quyền chỉ huy của Phương diện quân Thảo nguyên sang Phương diện quân Voronezh vào ngày 8 tháng 7 (Glantz & House 2004, tr. 323). Trong hai quân đoàn của tập đoàn quân này, chỉ có quân đoàn này có mặt trên chiến trường Prokhorovka (Glantz & House 2004, tr. 167). Quân đoàn còn lại – Quân đoàn súng trường cận vệ số 32 – được triển khai xa hơn về phía tây, trên chiến trường gần Oboyan(Clark 2012, tr. 230).
  7. ^ Quân đoàn xe tăng số 10 được chuyển khỏi quyền chỉ huy của Tập đoàn quân cận vệ số 5 sang Phương diện quân Voronezh vào ngày 7 tháng 7, và sang Tập đoàn quân xe tăng số 1 vào ngày 8 tháng 7 (Glantz & House 2004, tr. 324). Chỉ có Lữ đoàn súng trường cơ giới số 11 của quân đoàn này có mặt trên chiến trường Prokhorovka vào ngày 12 tháng 7 (Glantz & House 2004, tr. 166, 195, 417).
  8. ^ Quân đoàn súng trường cận vệ số 23 phải gánh chịu sức nặng của cuộc tấn công của quân Đức ngay từ ngày đầu tiên. Các đơn vị trực thuộc của quân đoàn này có mặt tại Trận Prokhorovka đều đã bị tiêu hao nặng(Glantz & House 2004, tr. 94, 167).
  9. ^ a b Xem § Quân lực hai bên.
  10. ^ a b Xem § Thiệt hại.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b Glantz & House 2004, tr. 327.
  2. ^ Zetterling & Frankson 2000, tr. 48.
  3. ^ Zamulin 2017, tr. 207.
  4. ^ Zamulin 2017, tr. 193, 200, 202-204.
  5. ^ Zamulin 2017, tr. 466-467.
  6. ^ a b c d e f g h i Bergström 2007, tr. 81.
  7. ^ a b Zamulin 2017, tr. 802–804.
  8. ^ Glantz & House 2004, tr. 28–29.
  9. ^ Clark 2012, tr. 189.
  10. ^ Healy 2008, tr. 43.
  11. ^ Glantz & House 2004, tr. 23–25.
  12. ^ Clark 2012, tr. 187.
  13. ^ Glantz 1986, tr. 25.
  14. ^ Clark 2012, tr. 194, 196–197.
  15. ^ Glantz 2013, tr. 184.
  16. ^ Glantz & House 2004, tr. 55.
  17. ^ Clark 2012, tr. 192.
  18. ^ Clark 2012, tr. 188–192.
  19. ^ Glantz & House 2004, tr. 63–65.
  20. ^ Glantz & Orenstein 1999, tr. 41, 49.
  21. ^ Glantz & House 2004, tr. 60–63.
  22. ^ Glantz 2013, tr. 195.
  23. ^ Glantz & House 2004, tr. 3–4.
  24. ^ Clark 2012, tr. 407.
  25. ^ Glantz & House 2004, tr. 269–272.
  26. ^ Clark 2012, tr. 239.
  27. ^ Zamulin 2011, tr. 98.
  28. ^ Glantz & House 2004, tr. 112.
  29. ^ Zamulin 2011, tr. 89–90.
  30. ^ Glantz & House 2004, tr. 123.
  31. ^ Zamulin 2011, tr. 112.
  32. ^ Clark 2012, tr. 256–260.
  33. ^ Clark 2012, tr. 407, 256–260.
  34. ^ Glantz & House 2004, tr. 138–139.
  35. ^ Healy 2008, tr. 296, cho rằng 390 km.
  36. ^ Glantz & Orenstein 1999, tr. 228, cho rằng 320 km.
  37. ^ Glantz & House 2004, tr. 166–167.
  38. ^ Zamulin 2011, tr. 166, 168.
  39. ^ Glantz & House 2004, tr. 133–135.
  40. ^ Glantz & House 2004, tr. 134–135.
  41. ^ Clark 2012, tr. 297–299.
  42. ^ Clark 2012, tr. 68, 279, bản đồ ở trang 68 cho thấy khoảng 18–20 dặm.
  43. ^ Glantz & House 2004, tr. 130, bản đồ cho thấy 18–20 dặm.
  44. ^ Zetterling & Frankson 2000, tr. 90, khoảng 28 km đến cuối ngày 7 tháng 7.
  45. ^ Bauman 1998, tr. 8.5–8.6, khoảng 23 km.
  46. ^ a b c Clark 2012, tr. 322–323.
  47. ^ Glantz & House 2004, tr. 146.
  48. ^ Newton 2002, tr. 76; Zamulin 2011, tr. 29–33.
  49. ^ Zamulin 2011, tr. 29–33.
  50. ^ Clark 2012, tr. 337.
  51. ^ Zamulin 2011, tr. 258–260.
  52. ^ Zamulin 2011, tr. 261–262.
  53. ^ a b Glantz & House 2004, tr. 164.
  54. ^ Glantz & House 2004, tr. 164–165.
  55. ^ Clark 2012, tr. 343.
  56. ^ Clark 2012, tr. 308–309.
  57. ^ Clark 2012, tr. 350–353.
  58. ^ Glantz & House 2004, tr. 169, 171.
  59. ^ Zetterling & Frankson 2000, tr. 95.
  60. ^ Clark 2012, tr. 352.
  61. ^ Glantz & House 2004, tr. 166.
  62. ^ a b c Nipe 2010, tr. 315.
  63. ^ a b Dunn 1997, tr. 153.
  64. ^ a b Clark 2012, tr. 352–353.
  65. ^ Clark 2012, tr. 350.
  66. ^ Glantz & House 1999, tr. 176.
  67. ^ Clark 2012, tr. 356.
  68. ^ Zamulin 2011, tr. 284, 320.
  69. ^ a b c d Nipe 2010, tr. 310.
  70. ^ a b c Glantz & House 2004, tr. 178.
  71. ^ a b Bergström 2007, tr. 79.
  72. ^ Glantz & House 2004, tr. 323, 326.
  73. ^ Glantz & House 2004, tr. 178, 198.
  74. ^ Glantz & House 2004, tr. 227.
  75. ^ Glantz & House 2004, tr. 179.
  76. ^ a b c d Clark 2012, tr. 364.
  77. ^ a b c Zetterling & Frankson 2000, tr. 103.
  78. ^ a b Dunn 1997, tr. 154.
  79. ^ Glantz & House 2004, tr. 196–197.
  80. ^ a b c Bergström 2007, tr. 78–81.
  81. ^ Glantz & House 2004, tr. 317, 321.
  82. ^ Zamulin 2011, tr. 236.
  83. ^ Glantz & House 2004, tr. 198–200.
  84. ^ Glantz & House 2004, tr. 202; Brand 2003; Nipe 2010, tr. 315.
  85. ^ a b c Glantz & House 2004, tr. 202.
  86. ^ a b c d e f g Brand 2003.
  87. ^ Nipe 2010, tr. 309.
  88. ^ a b c d Nipe 2010, tr. 326.
  89. ^ a b Glantz & House 2004, tr. 287, information on the specific names of the units.
  90. ^ Glantz & House 2004, tr. 287.
  91. ^ Healy 2008, tr. 320.
  92. ^ a b Clark 2012, tr. 368.
  93. ^ Healy 2008, tr. 333.
  94. ^ Zetterling & Frankson 2000, tr. 48, 101.
  95. ^ Glantz & House 2004, tr. 151.
  96. ^ Zetterling & Frankson 2000, tr. 48, 105–106, báo cáo có 793 xe tăng và 57 pháo tự hành chống tăng.
  97. ^ Glantz & House 2004, tr. 151, 328, báo cáo có 793 xe tăng và 37 pháo tự hành chống tăng.
  98. ^ Nipe 2012, tr. 39, báo cáo có 850 xe tăng.
  99. ^ Healy 2008, tr. 171–172, báo cáo có 35 xe tăng Churchill.
  100. ^ Glantz & House 2004, tr. 328, báo cáo có 31 xe tăng Churchill.
  101. ^ a b c d Zetterling & Frankson 2000, tr. 106–107.
  102. ^ Clark 2012, tr. 362.
  103. ^ a b c Glantz & House 2004, tr. 181.
  104. ^ a b c d e Glantz & House 2004, tr. 180.
  105. ^ a b c d e Zetterling & Frankson 2000, tr. 107.
  106. ^ Glantz & House 2004, tr. 193.
  107. ^ Glantz & House 2004, tr. 180–181.
  108. ^ a b Glantz & House 2004, tr. 192.
  109. ^ Zetterling & Frankson 2000, tr. 96.
  110. ^ a b Glantz & House 2004, tr. 184.
  111. ^ Clark 2012, tr. 378.
  112. ^ Clark 2012, tr. 363.
  113. ^ Glantz & House 2004, tr. 182.
  114. ^ Barbier 2002, tr. 139.
  115. ^ Glantz & House 2004, tr. 187, theo giờ Moskva.
  116. ^ a b Zamulin 2011, tr. 349.
  117. ^ Glantz & House 2004, tr. 188, theo giờ giờ Moskva.
  118. ^ a b c Glantz & House 2004, tr. 188.
  119. ^ a b Bergström 2007, tr. 79–80.
  120. ^ Nipe 2010, tr. 317.
  121. ^ Showalter 2013, tr. 203.
  122. ^ a b c Nipe 2010, tr. 320.
  123. ^ Clark 2012, tr. 351.
  124. ^ a b Glantz & House 2004, tr. 185.
  125. ^ Clark 2012, tr. 366.
  126. ^ a b Glantz & House 2004, tr. 190.
  127. ^ Nipe 2010, tr. 332–333.
  128. ^ Nipe 2010, tr. 329–330.
  129. ^ Nipe 2010, tr. 330–331.
  130. ^ a b c d e Nipe 1998.
  131. ^ Glantz & House 2004, tr. 188–189.
  132. ^ Glantz & House 2004, tr. 189.
  133. ^ Zamulin 2011, tr. 341.
  134. ^ Mellenthin, Friedrich Wilhelm von (1956). Panzer Battles 1939–1945: A Study of the Employment of Armour in the Second World War (bằng tiếng Anh) (ấn bản thứ 2). London.{{Chú thích sách}}: Quản lý CS1: địa điểm thiếu nhà xuất bản (liên kết)
  135. ^ Nik Cornish, Image of Kursk-History's Greatest tank battles, trang 46-49
  136. ^ Тимохович, Иван Васильевич (1959). Советская авиация в битве под Курском [Soviet Aviation in the Battle of Kursk] (bằng tiếng Nga). Москва: Воениздат.
  137. ^ Nipe 2010, tr. 321.
  138. ^ Nipe 2010, tr. 322.
  139. ^ Glantz & House 2004, tr. 191.
  140. ^ a b Замулин, Валерий Николаевич (2007). "Мясорубка на реке Псёл: пехота против танков" [Meat Grinder on the Psel River: Infantry versus Tanks]. Засекреченная Курская битва [The Secret Kursk Battle] (bằng tiếng Nga). Москва: Яуза; Эксмо. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2010.
  141. ^ Bevin, Alexander (2000). How Hitler Could Have Won World War II: The Fatal Errors That Lead to Nazi Defeat (bằng tiếng Anh). London: Times Books. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2010.
  142. ^ Замулин, Валерий Николаевич (2007). "Глава 1: Сражение за Прохоровку началось" [Chapter 1: The Battle for Prokhorovka Begins]. Засекреченная Курская битва [The Secret Kursk Battle] (bằng tiếng Nga). Москва: Яуза; Эксмо. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2010.
  143. ^ Bergström 2007, tr. 79–81.
  144. ^ a b Bergström 2007, tr. 80.
  145. ^ Showalter 2013, tr. 212.
  146. ^ Nipe 2010, tr. 335.
  147. ^ Showalter 2013, tr. 216.
  148. ^ Clark 2012, tr. 388–389.
  149. ^ Clark 2012, tr. 381, 389.
  150. ^ Nipe 2012, tr. 48, 52.
  151. ^ a b Zetterling & Frankson 2000, tr. 102.
  152. ^ Glantz & Orenstein 1999, tr. 226.
  153. ^ Clark 2012, tr. 390–391.
  154. ^ Clark 2012, tr. 391–392.
  155. ^ Glantz & House 2004, tr. 213–214.
  156. ^ Glantz & House 2004, tr. 212.
  157. ^ a b Clark 2012, tr. 390.
  158. ^ a b c Glantz & House 2004, tr. 208.
  159. ^ Уткин, Анатолий Иванович (2002). Вторая мировая война [The Second World War] (bằng tiếng Nga). Москва: Алгоритм.
  160. ^ Zamulin 2012, tr. 643.
  161. ^ a b Glantz & House 2004, tr. 209–210.
  162. ^ Glantz & House 2004, tr. 209, 216.
  163. ^ Glantz & House 2004, tr. 212–214.
  164. ^ Glantz & House 2004, tr. 214–215.
  165. ^ Glantz & House 2004, tr. 214.
  166. ^ a b Glantz & House 2004, tr. 215.
  167. ^ a b Clark 2012, tr. 394.
  168. ^ Molony và đồng nghiệp 2004, tr. 55–65.
  169. ^ a b Clark 2012, tr. 397.
  170. ^ Nipe 2012, tr. 71; Barbier 2002, tr. 153; Clark 2012, tr. 395–397.
  171. ^ Clark 2012, tr. 395–397.
  172. ^ a b c Glantz & House 2004, tr. 217–218.
  173. ^ a b c d Clark 2012, tr. 397–398.
  174. ^ a b Healy 2010, tr. 358.
  175. ^ Glantz & House 2004, tr. 218.
  176. ^ a b Glantz & House 2004, tr. 219.
  177. ^ Barbier 2002, tr. 163.
  178. ^ Healy 2010, tr. 356.
  179. ^ Clark 2012, tr. 398.
  180. ^ a b Healy 2010, tr. 359.
  181. ^ Clark 2012, tr. 401.
  182. ^ a b Zetterling & Frankson 2000, tr. 98.
  183. ^ Nipe 2012, tr. 70.
  184. ^ Glantz & House 2004, tr. 204, 223.
  185. ^ Newton 2002, tr. 24.
  186. ^ Glantz & House 2004, tr. 223.
  187. ^ Zamulin 2011, tr. 514–515.
  188. ^ Barbier 2002, tr. 164.
  189. ^ Zetterling & Frankson 2000, tr. 139, 218.
  190. ^ Glantz & House 2004, tr. 245.
  191. ^ Nipe 2012, tr. 87.
  192. ^ Zamulin 2011, tr. 531–532, nhiều số liệu khác nhau được đề ra vào thập niên 1970.
  193. ^ a b Zamulin 2011, tr. 531–532.
  194. ^ Bauman 1998, tr. 5.14.
  195. ^ a b c Zetterling & Frankson 2000, tr. 108.
  196. ^ Zetterling & Frankson 2000, tr. 105, 110, 247.
  197. ^ a b c Frieser 2017, tr. 129.
  198. ^ a b Bauman 1998, tr. 5.1–5.4, 8.5–8.6.
  199. ^ Healy 2010, tr. 346.
  200. ^ Glantz & House 1999, tr. 212.
  201. ^ Nipe 2012, tr. 60–61.
  202. ^ Zetterling & Frankson 2000, tr. 103, 105.
  203. ^ Scherzer, Veit (2007). Die Ritterkreuzträger 1939–1945 (bằng tiếng Đức). Ranis/Jena: Scherzers Militaer-Verlag. tr. 409. ISBN 978-3-938845-17-2.
  204. ^ a b c d Zamulin 2011, tr. 536–538.
  205. ^ Frieser 2017, tr. 130.
  206. ^ Zamulin 2017, tr. 804–805.
  207. ^ Glantz & House 1995, tr. 167.
  208. ^ Nipe 2012, tr. 85–86.
  209. ^ a b Zetterling & Frankson 2000, tr. 108–109.
  210. ^ Zamulin 2011, tr. 553, 561.
  211. ^ Clark 2012, tr. 408; Nipe 2012, tr. 86.
  212. ^ Zamulin 2011, tr. 553.
  213. ^ "Jonathan P. Kluger. REVISITING A "LOST VICTORY" AT KURSK. Louisiana State University. 1995. United States Military Academy, 2003" (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 17 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2012.
  214. ^ Glantz & House 2004, tr. 272, 280.
  215. ^ Glantz & House 1995, tr. 166.
  216. ^ Zetterling & Frankson 2000, tr. 101; Glantz & House 2004, tr. 51; Stein & Fairbank 2007, tr. 209; Schranck 2013, tr. 349; Zamulin 2012, tr. 583.
  217. ^ a b Zamulin 2012.
  218. ^ Clark 2012, tr. 247.
  219. ^ Glantz 2012, tr. 43, có đề cập đến hơn 2.000 xe tăng.
  220. ^ Zamulin 2011, tr. 535, nhắc đến hơn 6.000 xe tăng trong suốt trận chiến.
  221. ^ Glantz & Orenstein 1999, tr. 228.
  222. ^ Glantz & House 2004, tr. 138–147.
  223. ^ Glantz & House 1999, tr. 138–147.
  224. ^ Glantz & House 2004, tr. 146–147.
  225. ^ a b Newton 2002, tr. 357–369.
  226. ^ Clark 2012, tr. 336–337; Zamulin 2012, tr. 29–33; Schranck 2013, tr. 143.
  227. ^ Newton 2002, tr. 359.
  228. ^ Stein & Fairbank 2007, tr. 210; Zamulin 2012, tr. 174.
  229. ^ Zamulin 2012, tr. 173–174.
  230. ^ Nipe 2012, tr. 39–40.

Nguồn tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Barbier, Mary Kathryn (2002). Kursk: The Greatest Tank Battle, 1943. St. Paul, MN: MBI Publishing Company. ISBN 978-0-7603-1254-4.
  • Bauman, Walter (1998). Kursk Operation Simulation and Validation Exercise – Phase II (KOSAVE II) (Báo cáo). Bethesda, MD: US Army Concepts Analysis Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 6 năm 2013. – Một nghiên cứu về khu vực phía nam của Trận Kursk do Cơ quan Phân tích Khái niệm Lục quân Hoa Kỳ thực hiện, dưới sự chỉ đạo của Walter J. Bauman, sử dụng dữ liệu thu thập từ các kho lưu trữ quân sự ở Đức và Nga bởi Viện Dupuy (The Dupuy Institute, TDI).
  • Bergström, Christer (2007). Kursk – The Air Battle: July 1943. Hersham, UK: Chevron/Ian Allan. ISBN 978-1-903223-88-8.
  • Brand, Dieter (2003). "Vor 60 Jahren: Prochorowka (Teil II)" [60 years ago: Prokhorovka (Part II)]. Österreichische Militärische Zeitschrift (bằng tiếng Đức) (6). Bundesministerium für Landesverteidigung und Sport. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 11 năm 2014.
  • Clark, Lloyd (2012). Kursk: The Greatest Battle: Eastern Front 1943. London: Headline Publishing Group. ISBN 978-0-7553-3639-5.
  • Dunn, Walter (1997). Kursk: Hitler's Gamble, 1943. Westport, CT: Greenwood Press. ISBN 978-0-275-95733-9.
  • Frieser, Karl-Heinz (2017). The Eastern Front 1943–1944: The War in the East and on the Neighbouring Fronts. Germany and the Second World War. Quyển VIII. Oxford, UK: Oxford University Press. ISBN 978-0-19-103514-2.
  • Glantz, David M. (tháng 9 năm 1986). "Soviet Defensive Tactics at Kursk, July 1943" (PDF). US Army Command and General Staff College. Soviet Army Studies Office Combined Arms Center Combat Studies Institute (CSI Report No. 11). Ft. Belvoir, VA. OCLC 320412485. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 18 tháng 5 năm 2015.
  • Glantz, David M.; House, Jonathan (1995). When Titans Clashed: How the Red Army Stopped Hitler. Lawrence, KS: University Press of Kansas. ISBN 978-0-7006-0899-7.
  • Glantz, David M.; House, Jonathan M. (1999). The Battle of Kursk. Lawrence, KS: University Press of Kansas. ISBN 978-0-7006-0978-9.
  • Glantz, David M.; House, Jonathan M. (2004) [1999]. The Battle of Kursk. Lawrence, KS: University Press of Kansas. ISBN 978-0-7006-1335-9.
  • Glantz, David (2013). Soviet Military Intelligence in War. Hoboken, NJ: Taylor & Francis (Routledge). ISBN 978-1-136-28934-7.
  • Glantz, David (2012). Operation Barbarossa: Hitler's Invasion of Russia 1941. Gloucestershire, UK: The History Press. ISBN 978-0-7524-6070-3.
  • Glantz, David M.; Orenstein, Harold S. (1999). The Battle for Kursk 1943: The Soviet General Staff Study. London: Taylor & Francis (Frank Cass). ISBN 0-7146-4933-3. – Báo cáo này, do Bộ Tổng tham mưu Liên Xô đặt hàng năm 1944, được biên soạn nhằm dùng để huấn luyện Hồng quân về cách tiến hành các chiến dịch tác chiến. Tài liệu được xếp loại mật cho đến khi giải mật năm 1964, và sau đó được Orenstein và Glantz biên tập, dịch sang tiếng Anh. Nhan đề gốc của nó là Collection of Materials for the Study of War Experience, No. 11 (tiếng Nga: Сборник материалов по изучению опыта войны № 11, đã Latinh hoá: Sbornik materialov po izucheniyu opyta voyny № 11).
  • Healy, Mark (2008). Zitadelle: The German Offensive Against the Kursk Salient 4–17 July 1943. Stroud, UK: The History Press. ISBN 978-1-85532-211-0.
  • Healy, Mark (2010) [2008]. Zitadelle: The German Offensive Against the Kursk Salient 4–17 July 1943. Stroud, UK: The History Press. ISBN 978-0-7524-5716-1.
  • Molony, C. J. C.; Flynn, F. C.; Davies, H. L. & Gleave, T. P. (2004) [1973]. Butler, Sir James (biên tập). The Mediterranean and Middle East. History of the Second World War, United Kingdom Military Series. Quyển V: The Campaign in Sicily 1943 and The Campaign in Italy 3rd September 1943 to 31st March 1944. London: Naval & Military Press. ISBN 1-84574-069-6.
  • Newton, Steven (2002). Kursk: The German View: Eyewitness Reports of Operation Citadel by the German Commanders. Cambridge, MA: Da Capo Press. ISBN 0-306-81150-2.
  • Nipe, George (tháng 2 năm 1998). "Kursk Reconsidered: Germany's Lost Victory". World War II. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2015.
  • Nipe, George (2010). Blood, Steel, and Myth: The II.SS-Panzer-Korps and the Road to Prochorowka. Stamford, CT: RZM Publishing. ISBN 978-0-9748389-4-6.
  • Nipe, George (2012). Decision in the Ukraine: German Panzer Operations on the Eastern Front, Summer 1943. Mechanicsburg, PA: Stackpole Books. ISBN 978-0-8117-1162-3.
  • Overy, Richard (1997). Russia's War: A History of the Soviet Effort. New York: Penguin Books. ISBN 0-14-027169-4.
  • Showalter, Dennis E. (2013). Armor and Blood: The Battle of Kursk, The Turning Point of World War II. New York: Random House. ISBN 978-0-8129-9465-0.
  • Stein, Marcel; Fairbank, Gwyneth (2007). Field Marshal von Manstein: The Janus Head. Solihull, UK: Helion & Company. ISBN 978-1-906033-02-6.
  • Schranck, David (2013). Thunder at Prokhorovka: A Combat History of Operation Citadel, Kursk, July 1943. Solihull, UK: Helion & Company. ISBN 978-1-909384-54-5.
  • Zamulin, Valeriy (2011). Demolishing the Myth: The Tank Battle at Prokhorovka, Kursk, July 1943: An Operational Narrative. Stuart Britton biên dịch. Solihull, UK: Helion & Company. ISBN 978-1-906033-89-7.
  • Zamulin, Valeriy (2012). "Prokhorovka: The Origins and Evolution of a Myth". The Journal of Slavic Military Studies. 25 (4): 582–595. doi:10.1080/13518046.2012.730391. S2CID 144132258.
  • Zamulin, Valeriy (2017). Прохоровка. Неизвестное сражение Великой войны [Prokhorovka: The Unknown Battle of the Great War] (bằng tiếng Nga). Moscow: Yauza. ISBN 978-5-906716-63-7.
  • Zetterling, Niklas; Frankson, Anders (2000). Kursk 1943: A Statistical Analysis. Cass Series on the Soviet (Russian) Study of War. London: Taylor & Francis (Frank Cass). ISBN 0-7146-5052-8.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]

Tư liệu

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Kursk Reconsidered: Germany's Lost Victory Lưu trữ ngày 12 tháng 3 năm 2008 tại Wayback Machine trên trang Historynet.com.
  • Review of Kursk 1943: A Statistical Analysis bản so sánh chi tiết về kế hoạch trận đánh với tư liệu lấy từ các tác phẩm "Kursk: Hitler's Gamble, 1943" của Walter Dunn, "Decision in the Ukraine" của George Nipe, "The Battle of Kursk" của David Glantz - Jonathan House và "The Battle for Kursk, 1943" của Bộ Tổng tham mưu Hồng quân Liên Xô.
  • Олейников Г.А. Прохоровское сражение (июль 1943). — СПб.: Нестор, 1998., [1] bản phân tích trận Prokhorovka (bằng tiếng Nga)
  • Валерий Замулин. Прохоровка — неизвестное сражение великой войны. М.: АСТ: АСТ МОСКВА: ХРАНИТЕЛЬ, 2006 ISBN 5-17-039548-5 - tài liệu miêu tả các cuộc hành quân và tiến công của quân Đức và Liên Xô trong trận đánh dựa trên các tài liệu của Nga và Đức, với đầy đủ thông số của Hồng quân Xô Viết (bằng tiếng Nga)

Bản đồ tư liệu quân sự

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Bản đồ tình huống mặt trận phía Nam vòng cung Kursk lúc 22 giờ đêm 9 tháng 7
  • Bản đồ tình hình khu vực Prokhorovka 4 giờ sáng ngày 10 tháng 7
  • Bản đồ tình huống khu vực Prokhurovka ngày 11 tháng 7
  • Bản đồ vị trí của hai bên ngày 12 tháng 7
  • Bản đồ dự kiến kế hoạch đối phó của Phương diện quân Voronezh tại khu vực Prokhorovka
  • Bản đồ báo cáo tình hình diễn biến trận Prokhorovka
  • Bản đồ báo cáo dự kiến kế hoạch tấn công quân Đức sau trận Prokhorovka
Cổng thông tin:
  • Chiến tranh thế giới thứ hai
  • flag Liên Xô
  • flag Đức
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Trận_Prokhorovka&oldid=74625896” Thể loại:
  • Những trận đánh lớn trong lịch sử
  • Trận đánh trong Thế chiến thứ hai
  • Xung đột năm 1943
  • Lịch sử Đức
  • Lịch sử Liên Xô
  • Trận Vòng cung Kursk
  • Trận đánh bằng xe tăng
  • Trận đánh liên quan tới Đức
Thể loại ẩn:
  • Quản lý CS1: địa điểm thiếu nhà xuất bản
  • Nguồn CS1 tiếng Anh (en)
  • Nguồn CS1 tiếng Nga (ru)
  • Nguồn CS1 tiếng Đức (de)
  • Tọa độ trên Wikidata
  • Bài viết có văn bản tiếng Nga
  • CS1: giá trị quyển dài
  • Bản mẫu webarchive dùng liên kết wayback
  • Bài viết có nguồn tham khảo tiếng Nga (ru)
  • Trang sử dụng liên kết tự động ISBN
Tìm kiếm Tìm kiếm Đóng mở mục lục Trận Prokhorovka 30 ngôn ngữ Thêm đề tài

Từ khóa » Trận Kursk - Năm 1943