Trang Thơ Nguyễn Du - 阮攸 (275 Bài Thơ) - Thi Viện

Ảnh đính kèmTượng đài Nguyễn Du 2314.55Nước: Việt Nam (Nguyễn)275 bài thơ, 1 bài dịch2 bình luận107 người thích
  • Bình luận

Thơ đọc nhiều nhất

- Độc Tiểu Thanh ký- Văn tế thập loại chúng sinh- Hồi 01: Gia cảnh họ Vương- Long thành cầm giả ca- Hồi 02: Kiều chơi tết thanh minh

Thơ thích nhất

- Văn tế thập loại chúng sinh- Hồi 01: Gia cảnh họ Vương- Độc Tiểu Thanh ký- Đối tửu- Hồi 02: Kiều chơi tết thanh minh

Thơ mới nhất

- Thác lời trai phường nón- Ngẫu hứng kỳ 5- Ngẫu hứng kỳ 4- Ngẫu hứng kỳ 3- Ngẫu hứng kỳ 2

Tác giả cùng thời kỳ

- Ngô Thì Trí (2 bài)- Trịnh Hoài Đức (191 bài)- Phan Mậu Hiên (1 bài)- Phạm Đình Hổ (61 bài)- Trịnh Tông (3 bài)

Dịch giả nhiều bài nhất

- Lương Trọng Nhàn (248 bài)- Trương Việt Linh (218 bài)- Nguyễn Thạch Giang (87 bài)- Quách Tấn (49 bài)- Đào Văn Nghi (44 bài) Tạo bởi Vanachi vào 11/06/2005 17:20, đã sửa 2 lần, lần cuối bởi Admin vào 20/07/2010 02:53 Nguyễn Du 阮攸 (13/1/1766 - 16/9/1820) tự Tố Như 素如, hiệu Thanh Hiên 清軒, quê gốc làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, nhưng sinh và trải qua thời niên thiếu ở Thăng Long. Cha là Nguyễn Nghiễm đã làm tới chức tể tướng triều Lê. Mẹ là bà Trần Thị Tần, vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, người xứ Kinh Bắc (Nguyễn Nghiễm có tám vợ, hai mươi mốt người con). Mười tuổi, Nguyễn Du mồ côi cha, mười ba tuổi mồ côi mẹ. Vì thế tiếng là con quan đại thần nhưng ngay từ thời thơ ấu Nguyễn Du đã phải sống vất vả thiếu thốn. Truyện KiềuVăn chiêu hồn, hai kiệt tác chữ Nôm của Nguyễn Du, rộng xin được giới thiệu riêng vào dịp khác. Tập sách này chỉ chọn lựa một số bài thơ chữ Hán tiêu biểu của ông.Thơ chữ Hán Nguyễn Du cho thấy phần sâu kín trong tâm trạng ông. Nó như một thứ nhật ký, giãi bày mọi nỗi niềm, mọi ý nghĩ trong cảnh sống thường nhật của chính ông. Cả ba cuốn Thanh Hiên thi tập (viết trong khoảng 1785-1802, khi Nguyễn Du lánh ẩn ở quê vợ, Thái Bình, rồi trở về Hồng Lĩnh và ra lại Bắc Hà làm quan triều Gia Long), Nam trung tạp ngâm (1805-1812, khi Nguyễn Du làm quan ở Huế rồi cai bạ Quảng Bình) và Bắc hành tạp lục (1813-1814, thơ viết trên đường đi sứ Trung Hoa) đều có một giọng u trầm thấm thía, đầy cảm xúc nội tâm. Thơ chữ Hán Nguyễn Du như một tiếng thở dài luận bàn nhân tâm thế sự và xót thương thân phận. Một hình ảnh trở đi trở lại là mái tóc bạc, Nguyễn Du có mái tóc bạc sớm, mái tóc như biểu tượng của lo nghĩ, của những nghiền ngẫm buồn thương và bế tắc “Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên, Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên” (Tráng sĩ ngẩng mái đầu tóc bạc, bi thương than với trời xanh: chí lớn một đời và miếng ăn hàng ngày cả hai đều mờ mịt). Với một tài năng, lại từng là con quan tể tướng, lời than ấy thật xót xa. Tây Sơn ra Bắc 1786, Nguyễn Du ôm mối ngu trung với nhà Lê, không cộng tác, tìm đường lánh ẩn chịu sống nghèo khổ. Những thiếu thốn vật chất đôi lúc lộ ra trong thơ: Quê nhà đại hạn, mười đứa con sắc mặt xanh như rau (Thập khẩu hài nhi thái sắc đồng). Hoặc: Trong bếp suốt ngày không có khói lửa. Trước đèn phải mượn chén rượu cho gương mặt được hồng hào. Do vậy, ông thấy “Nhất sinh từ phú như vô ích, Mãn giá cầm thư đồ tự ngu” (Một đời chữ nghĩa thành vô ích. Sách đàn đầy giá chỉ làm ta ngu dốt). Lời nhận xét thật chua chát, bế tắc. Mái tóc bạc như một chứng tích tiều tuỵ cho cái nghịch lý ấy: Phơ phơ tóc bạc sống gửi ở nhà người, rồi: Già đến, tóc bạc đáng thương cho ngươi. Nói là già đến, nhưng lúc viết Thanh Hiên thi tập Nguyễn Du chỉ ở tuổi 20 đến 37. “Trù trướng lưu quang thôi bạch phát” (Ngậm ngùi vì ngày tháng giục tóc bạc). Mái tóc bạc thành bạn tri âm cho Nguyễn Du than thở: Tóc sương là bạn đi cùng. Mái tóc bạc bay trước gió thu. Mái tóc bạc nhuốm bụi hồng là chân dung tâm hồn của Nguyễn Du. Cả đời chưa thấy lúc nào ông đắc ý. Một sự chọn hướng trái chiều với bước đi của lịch sử làm Nguyễn Du ngùi ngẫm giằng xé cả một đời, ngay cả thời gian ra làm quan với Gia Long: Ơn vua chưa trả đỉnh đinh, Mưa xuân nhuần thấm nhưng mình lạnh xương. Tạ ơn mưa móc của vua nhưng lại thấy buốt lạnh trong xương cốt. Nỗi niềm ấy chúng ta hiểu cho Nguyễn Du. Nguyễn Du ôm một nỗi niềm éo le. Giáo lý Khổng Mạnh dạy: tôi trung không thờ hai vua. Nhưng với Nguyễn Du, vua phải thờ thì hèn kém, thậm chí rước voi về giày mồ (Lê Chiêu Thống), còn vua phải chống thì lại anh hùng, bảo vệ độc lập dân tộc (Quang Trung). Đau đớn, bế tắc của Nguyễn Du là ở đấy. Biết mà không vượt qua được, ông mong được hậu thế cảm thông: “Bất tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khốc Tố Như” (Ba trăm năm nữa nào biết được thiên hạ ai người khóc Tố Như). Tương truyền khi ốm nặng, ông không uống thuốc, bảo người nhà sờ tay chân. Họ nói: đã lạnh rồi. Ông bảo: Được! Rồi mất. Không trối lại một lời. Có một nỗi niềm đến phút cuối Nguyễn Du vẫn phải nén lại và mang đi. Buồn thương, cô đơn đã thành thuộc tính của đời ông như màu xanh là thuộc tính của cỏ “Nhân tự bi thê, thảo tự thanh” (Người tự buồn thương, cỏ tự xanh).Hiện thực cuộc sống bi thương trong xã hội phong kiến cả ở nước ta lẫn ở Trung Hoa thuở ấy, từ cảnh ngộ dâu bể của cô Cầm đánh đàn ở Thăng Long đến nỗi cơ cực của ông già hát rong ở đất Thái Bình (Trung Quốc) đã cho Nguyễn Du thấy thân phận bèo bọt và những bất công mà kiếp người phải chịu. Từ chính cảnh ngộ của mình ông thông cảm sâu sắc, tạo nên tình cảm thấm thía cho những bài thơ thương đời. Thương đời và thương mình đều da diết như nhau. Nguyễn Du hay nói tới thân phận tha hương, lưu lạc. Nỗi nhớ quê nhà luôn luôn bàng bạc trong các bài thơ. Ông thấy tài năng văn chương như con chim phượng nhốt trong lồng nát và công danh thì cùng đường như con rắn đã chui trong hang (Bình sinh văn thái tàn lung phượng, Phù thế công danh tẩu hác xà). Ông viết bài thơ chống lại bài Chiêu hồn Khuất Nguyên của Tống Ngọc, ông xui Khuất Nguyên đừng về vì thành quách vẫn còn nguyên mà người đã đổi khác, bụi bặm cuồn cuộn làm nhơ nhớp cả quần áo. Ông khái quát: Đời bây giờ người người đều đều là Thượng Quan (Thượng Quan là kẻ gièm pha làm hại Khuất Nguyên) và mặt đất thì chỗ nào cũng là sông Mịch La (con sông Khuất Nguyên trẫm mình). Ở các bài vịnh nhân vật và luận về các sự kiện lịch sử Trung Hoa trong Bắc hành tạp lục, Nguyễn Du đã xuất phát từ quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc của con người để cân đo lại trọng lượng các vĩ nhân và các chiến công ầm ỹ một thời.Đọc thơ chữ Hán Nguyễn Du chúng ta hiểu cội nguồn chủ nghĩa nhân đạo của ông thể hiện trong Truyện Kiều và những ký thác đời ông vào hình tượng Kiều, nhân vật sắc tài mà bạc mệnh.Hà Nội 16-10-2000Vũ Quần Phương Nguyễn Du 阮攸 (13/1/1766 - 16/9/1820) tự Tố Như 素如, hiệu Thanh Hiên 清軒, quê gốc làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, nhưng sinh và trải qua thời niên thiếu ở Thăng Long. Cha là Nguyễn Nghiễm đã làm tới chức tể tướng triều Lê. Mẹ là bà Trần Thị Tần, vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, người xứ Kinh Bắc (Nguyễn Nghiễm có tám vợ, hai mươi mốt người con). Mười tuổi, Nguyễn Du mồ côi cha, mười ba tuổi mồ côi mẹ. Vì thế tiếng là con quan đại thần nhưng ngay từ thời thơ ấu Nguyễn Du đã phải sống vất vả thiếu thốn. Truyện KiềuVăn chiêu hồn, hai kiệt tác chữ Nôm của Nguyễn Du, rộng xin được giới thiệu riêng vào dịp khác. Tập sách này chỉ chọn lựa một số bài thơ chữ Hán tiêu biểu của ông.Thơ chữ Hán Nguyễn Du cho thấy phần sâu kín trong tâm trạng ông. Nó như một thứ nhật ký, giãi…
  1. Thác lời trai phường nón1
  2. Văn tế thập loại chúng sinh3
  3. Văn tế Trường Lưu nhị nữ1

Thanh Hiên thi tập 清軒詩集 78

Mười năm gió bụi (1786-1795) 30

  1. Sơn cư mạn hứng10
  2. U cư kỳ 110
  3. U cư kỳ 212
  4. Tự thán kỳ 111
  5. Tự thán kỳ 210
  6. Bất mị9
  7. Quỳnh Hải nguyên tiêu 12
  8. Xuân nhật ngẫu hứng10
  9. Tạp ngâm (Đạp biến thiên nha hựu hải nha)9
  10. Khất thực11
  11. Xuân dạ16
  12. Thu chí (Tứ thì hảo cảnh vô đa nhật)10
  13. Thu dạ kỳ 110
  14. Thu dạ kỳ 29
  15. Tống Nguyễn Sĩ Hữu nam quy5
  16. Lưu biệt Nguyễn đại lang6
  17. Hoạ Hải Ông Đoàn Nguyễn Tuấn “Giáp Dần phụng mệnh nhập Phú Xuân kinh, đăng trình lưu biệt bắc thành chư hữu” chi tác5
  18. Bát muộn8
  19. Trệ khách8
  20. Mạn hứng kỳ 19
  21. Mạn hứng kỳ 29
  22. Đại nhân hí bút7
  23. Vị Hoàng doanh9
  24. Độ Phú Nông giang cảm tác 5
  25. Hoàng Mai kiều vãn diểu6
  26. Dao vọng Càn Hải từ7
  27. Ký mộng9
  28. Tái du Tam Điệp sơn6
  29. Giang đình hữu cảm7
  30. Ức gia huynh8

Dưới chân núi Hồng (1796-1802) 30

  1. My trung mạn hứng11
  2. Tặng Thực Đình6
  3. Phúc Thực Đình7
  4. Hành lạc từ kỳ 18
  5. Hành lạc từ kỳ 28
  6. Độ Long Vĩ giang13
  7. Tạp thi kỳ 18
  8. Tạp thi kỳ 27
  9. Ký Huyền Hư tử7
  10. Ký giang bắc Huyền Hư tử8
  11. Ký hữu (Mạc mạc trần ai mãn thái không)9
  12. Khai song8
  13. Biệt Nguyễn đại lang kỳ 14
  14. Biệt Nguyễn đại lang kỳ 26
  15. Biệt Nguyễn đại lang kỳ 37
  16. Ngoạ bệnh kỳ 18
  17. Ngoạ bệnh kỳ 25
  18. Đối tửu26
  19. Lam giang7
  20. Liệp5
  21. Sơn thôn9
  22. Thôn dạ9
  23. Tạp ngâm kỳ 18
  24. Tạp ngâm kỳ 28
  25. Tạp ngâm kỳ 37
  26. Mạn hứng13
  27. Dạ hành13
  28. Đạo ý10
  29. Điếu La Thành ca giả9
  30. Ninh Công thành6

Làm quan ở Bắc Hà (1802-1804) 18

  1. Ký hữu (Hồng Sơn sơn nguyệt nhất luân minh)8
  2. Sơ nguyệt9
  3. La Phù giang thuỷ các độc toạ8
  4. Ngẫu hứng kỳ 15
  5. Ngẫu hứng kỳ 26
  6. Thanh minh ngẫu hứng8
  7. Mộ xuân mạn hứng7
  8. Thanh Quyết giang vãn diểu6
  9. Đồng Lư lộ thượng dao kiến Sài Sơn6
  10. Đồng Lung giang5
  11. Lạng Sơn đạo trung7
  12. Quỷ Môn đạo trung8
  13. Đề Nhị Thanh động7
  14. Vọng Phu thạch11
  15. Xuân tiêu lữ thứ13
  16. Điệp tử thư trung6
  17. Khổng tước vũ8
  18. Độc Tiểu Thanh ký45

Nam trung tạp ngâm 南中雜吟 40

Làm quan ở kinh đô Huế (1805-1808) 19

  1. Phượng Hoàng lộ thượng tảo hành5
  2. Mộng đắc thái liên kỳ 111
  3. Mộng đắc thái liên kỳ 27
  4. Mộng đắc thái liên kỳ 37
  5. Mộng đắc thái liên kỳ 49
  6. Mộng đắc thái liên kỳ 57
  7. Thu chí (Hương giang nhất phiến nguyệt)6
  8. Điệu khuyển3
  9. Ngẫu thư công quán bích4
  10. Ngẫu đề công quán bích kỳ 17
  11. Ngẫu đề công quán bích kỳ 23
  12. Tống nhân5
  13. Ngẫu hứng kỳ 14
  14. Ngẫu hứng kỳ 26
  15. Ngẫu hứng kỳ 34
  16. Ngẫu hứng kỳ 44
  17. Ngẫu hứng kỳ 54
  18. Ngẫu đề6
  19. Thuỷ Liên đạo trung tảo hành3

Làm quan ở Quảng Bình (1809-1812) 21

  1. Tân thu ngẫu hứng6
  2. Dạ toạ7
  3. Tặng nhân3
  4. Tái thứ nguyên vận3
  5. Tạp ngâm (Bạch vân sơ khởi Lệ Giang thành)5
  6. Giang đầu tản bộ kỳ 13
  7. Giang đầu tản bộ kỳ 23
  8. Ngẫu đắc3
  9. Pháo đài3
  10. Thành hạ khí mã4
  11. Vọng Thiên Thai tự6
  12. Giản Công bộ chiêm sự Trần kỳ 12
  13. Giản Công bộ chiêm sự Trần kỳ 23
  14. Thu nhật ký hứng5
  15. Sơn trung tức sự4
  16. Độ Linh giang5
  17. Nễ giang khẩu hương vọng7
  18. Y nguyên vận ký Thanh Oai Ngô Tứ Nguyên4
  19. Tống Ngô Nhữ Sơn công xuất Nghệ An4
  20. Đại tác cửu thú tư quy kỳ 15
  21. Đại tác cửu thú tư quy kỳ 24

Bắc hành tạp lục 北行雜錄 132

  1. Độ Hoài hữu cảm Văn thừa tướng5
  2. Kê thị trung từ4
  3. Long thành cầm giả ca 13
  4. Thăng Long kỳ 111
  5. Thăng Long kỳ 2 15
  6. Ngộ gia đệ cựu ca cơ7
  7. Quỷ Môn quan9
  8. Lạng thành đạo trung6
  9. Lưu biệt cựu khế Hoàng4
  10. Trấn Nam Quan6
  11. Nam Quan đạo trung6
  12. Mạc phủ tức sự4
  13. Giáp Thành Mã Phục Ba miếu5
  14. Minh giang chu phát5
  15. Ninh Minh giang chu hành3
  16. Đề Đại Than Mã Phục Ba miếu5
  17. Hoàng Sào binh mã5
  18. Vọng Quan Âm miếu5
  19. Tam Giang khẩu đường dạ bạc6
  20. Vãn há Đại Than, tân lạo bạo trướng, chư hiểm câu thất4
  21. Há than hỷ phú4
  22. Thái Bình thành hạ văn xuy địch5
  23. Thái Bình mại ca giả3
  24. Chu hành tức sự6
  25. Sơn Đường dạ bạc6
  26. Thương Ngô tức sự4
  27. Thương Ngô mộ vũ4
  28. Ngũ nguyệt quan cạnh độ3
  29. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 015
  30. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 024
  31. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 035
  32. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 045
  33. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 055
  34. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 065
  35. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 075
  36. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 085
  37. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 094
  38. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 104
  39. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 114
  40. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 124
  41. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 134
  42. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 144
  43. Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 154
  44. Dương Phi cố lý6
  45. Triệu Vũ Đế cố cảnh8
  46. Bất tiến hành3
  47. Tam Liệt miếu4
  48. Quế Lâm Cù Các Bộ3
  49. Quế Lâm công quán4
  50. Đề Vi, Lư tập hậu3
  51. Quá Thiên Bình3
  52. Vọng Tương Sơn tự4
  53. Vĩnh Châu Liễu Tử Hậu cố trạch3
  54. Tương giang dạ bạc7
  55. Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu kỳ 15
  56. Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu kỳ 25
  57. Phản chiêu hồn8
  58. Biện Giả4
  59. Trường Sa Giả thái phó3
  60. Sơ thu cảm hứng kỳ 15
  61. Sơ thu cảm hứng kỳ 26
  62. Sở vọng7
  63. Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ kỳ 15
  64. Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ kỳ 23
  65. Tương Âm dạ3
  66. Đăng Nhạc Dương lâu3
  67. Hoàng Hạc lâu13
  68. Hán Dương vãn diểu4
  69. Nhiếp Khẩu đạo trung4
  70. Lý gia trại tảo phát3
  71. Vũ Thắng quan5
  72. Tín Dương tức sự3
  73. Ngẫu hứng5
  74. Độ Hoài hữu cảm Hoài Âm hầu tác4
  75. Hà Nam đạo trung khốc thử4
  76. Cựu Hứa Đô7
  77. Âu Dương Văn Trung Công mộ3
  78. Bùi Tấn Công mộ4
  79. Hoàng hà4
  80. Hoàng Hà trở lạo3
  81. Tỉ Can mộ4
  82. Trở binh hành4
  83. Nhạc Vũ Mục mộ3
  84. Tần Cối tượng kỳ 13
  85. Tần Cối tượng kỳ 23
  86. Vương thị tượng kỳ 13
  87. Vương thị tượng kỳ 23
  88. Đồng Tước đài3
  89. Thất thập nhị nghi trủng4
  90. Lạn Tương Như cố lý3
  91. Hàm Đan tức sự3
  92. Hàn Tín giảng binh xứ3
  93. Liêm Pha bi3
  94. Tô Tần đình kỳ 13
  95. Tô Tần đình kỳ 22
  96. Dự Nhượng kiều chuỷ thủ hành3
  97. Dự Nhượng kiều3
  98. Kinh Kha cố lý3
  99. Đế Nghiêu miếu4
  100. Lưu Linh mộ5
  101. Kỳ lân mộ4
  102. Yển Thành Nhạc Vũ Mục ban sư xứ5
  103. Đông lộ3
  104. Quản Trọng Tam Quy đài3
  105. Kê Khang cầm đài6
  106. Đông A sơn lộ hành3
  107. Sở Bá Vương mộ kỳ 13
  108. Sở Bá Vương mộ kỳ 23
  109. Liễu Hạ Huệ mộ3
  110. Từ Châu đạo trung5
  111. Nhị Sơ cố lý3
  112. Từ Châu đê thượng vọng4
  113. An Huy đạo trung5
  114. Á Phụ mộ3
  115. Chu Lang mộ3
  116. Tổ Sơn đạo trung3
  117. Quảng Tế ký thắng4
  118. Đồ trung ngẫu hứng5
  119. Hoàng Châu trúc lâu4
  120. Vinh Khải Kỳ thập tuệ xứ3
  121. Mạnh Tử từ cổ liễu4
  122. Từ Châu dạ4
  123. Tiềm Sơn đạo trung3
  124. Đào Hoa đàm Lý Thanh Liên cựu tích3
  125. Đào Hoa dịch đạo trung kỳ 13
  126. Đào Hoa dịch đạo trung kỳ 24
  127. Lương Chiêu Minh thái tử phân kinh thạch đài5
  128. Tây Hà dịch7
  129. Sở kiến hành4
  130. Hoàng Mai sơn thượng thôn4
  131. Hoàng Mai đạo trung4
  132. Chu phát5

Truyện Kiều 22

  1. Hồi 01: Gia cảnh họ Vương9
  2. Hồi 02: Kiều chơi tết thanh minh2
  3. Hồi 03: Kiều mơ gặp Đạm Tiên
  4. Hồi 04: Kiều thề nguyền với Kim Trọng
  5. Hồi 05: Kim Trọng về quê hộ tang
  6. Hồi 06: Kiều bán mình chuộc cha1
  7. Hồi 07: Kiều gửi duyên Thuý Vân1
  8. Hồi 08: Kiều bị Mã Giám Sinh hại
  9. Hồi 09: Kiều rơi vào tay Tú Bà
  10. Hồi 10: Kiều mắc lừa Sở Khanh2
  11. Hồi 11: Kiều ở lầu xanh
  12. Hồi 12: Kiều gặp Thúc Sinh
  13. Hồi 13: Kiều kết duyên Thúc Sinh
  14. Hồi 14: Thúc Sinh về thăm Hoạn Thư
  15. Hồi 15: Hoạn Thư ghen tuông lập kế
  16. Hồi 16: Kiều ở nhà họ Hoạn
  17. Hồi 17: Kiều trốn khỏi nhà họ Hoạn
  18. Hồi 18: Kiều gặp Từ Hải2
  19. Hồi 19: Kiều báo ân báo oán
  20. Hồi 20: Từ Hải mắc lừa Hồ Tôn Hiến
  21. Hồi 21: Kim Trọng tìm Kiều
  22. Hồi 22: Kim, Kiều tái hợp

Tuyển tập chung

Việt Nam bách gia thi (2005) - 越南百家詩

  1. Độc Tiểu Thanh ký45

Thơ dịch tác giả khác

Phan Mạnh Danh (Việt Nam)

    Bút hoa thi tập » Kiều tập thơ cổ

    1. Bản lai Ngân Hán thị hồng tường2
Ảnh đại diện

Đọc thơ chữ Hán của Nguyễn Du

Đăng bởi Vanachi vào 12/02/2006 08:12

Truyện Kiều là một kiệt tác của Nguyễn Du, là linh hồn của văn học Việt Nam, điều đó hẳn không ai dám phủ nhận. Cũng bởi giá trị có một không hai của nó mà khi nói đến Nguyễn Du, người ta nói ngay đến Truyện Kiều. Do vậy ít người để ý đến phần còn lại trong văn nghiệp của ông. Thực ra, Truyện Kiều là tác phẩm diễn nôm, nói theo cách của một nhà nghiên cứu, “lỡ tay” mà thành kiệt tác, còn thơ chữ Hán mới đích là sáng tác, nên xem nó là phát ngôn viên chính thức của Nguyễn Du.Học giả Mai Quốc Liên có lần viết: “Thơ chữ Hán Nguyễn Du là những áng văn chương nghệ thuật trác tuyệt, ẩn chứa một tiềm năng vô tận về ý nghĩa. Nó mới lạ và độc đáo trong một nghìn năm thơ chữ Hán của ông cha ta đã đành, mà cũng độc đáo so với thơ chữ Hán của Trung Quốc nữa”. (1)Quả đúng như vậy. Người viết bài này đã có may mắn được đọc hết gần 250 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du, trong lòng bội phần kính phục. Xin góp nhặt đôi vần để phát hoạ vài nét về nhân cách, tấm lòng và tư tưởng của bậc Đại thi hào dân tộc.1. Nhân cách của một kẻ sĩ:Nguyễn Du sinh ra trong thời đại nhiễu nhương, chứng kiến bao nhiêu cảnh bọt bèo dâu bể. Triều Lê sụp đổ, 11 tuổi mồ côi cha, 13 tuổi mất mẹ, suốt thời trai trẻ ăn nhờ ở đậu, có lúc làm con nuôi người ta, “Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán”, Nguyễn Du trải qua 10 năm gió bụi. Sau ra làm quan với triều Nguyễn, tâm hồn chàng trai xứ Nghệ đã thuộc về những con người đáng thương trong xã hội. Với một tấm lòng mẫn cảm, dào dạt yêu thương và vô cùng tinh khiết, những vần thơ chữ Hán của cụ Tiên Điền như những giọt lệ đầy bi tráng nhỏ xuống lòng đời trái đắng, vọng lên những âm thanh thống thiết mà vẫn hiên ngang một nhân cách phi thường.Độc Tiểu Thanh ký có lẽ là bài thơ phát hoạ rõ nét nhất giọt lệ và nụ cười của một trang chí sĩ. Hãy đọc những câu cuối:

Cổ kim hận sự thiên nan vấnPhong vận kỳ oan ngã tại cưBất tri tam bách dư niên hậuThiên hạ hà nhân khốc Tố Như?
Nỗi hận xưa nay trời khó hỏi, nỗi oan ức của những người phong nhã “ta tự nai lưng ra cán đáng” (2). Chẳng biết 300 năm sau thiên hạ còn ai khóc cho Tố Như chăng? Hương hồn Tố Như Tử nếu linh thiêng trở lại, chắc ông chẳng bận tâm làm gì cái chuyện “tam bách dư niên hậu”! Điều đáng ray rức là thân phận con người, ta nên oán nó hay không nên oán nó?Thân phận như bèo trôi giữa ba đào thế thái, Nguyễn Du không tự đánh mất mình hoặc ngồi ôm tay bó gối. Ông nhập thế một cách trọn vẹn, lòng hướng về những bậc tài danh kim cổ. Mỗi lúc gặp lại hình ảnh người xưa, ông luôn liên hệ đến mình, soi rọi lại chính mình để gọi về một chút niềm kiêu hãnh. Về văn chương, ông luôn xem Đỗ Phủ là bậc thầy thiên cổ. Niềm kính trọng ấy chưa từng thôi nghỉ:
Thiên cổ văn chương thiên cổ sư,Bình sinh bội phục vị thường ly.(Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ 1)
Hay:
Mỗi độc nho quan đa ngộ thân,Thiên niên nhất khốc Đỗ Lăng nhân.(Mỗi lần đọc câu “Mũ áo nhà Nho thường làm luỵ thân mình”,Lại một lần khóc thương người đất Đỗ Lăng sống nghìn năm trước.Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ 2)
Khi nghĩ về Giả Thái Phó ở Trường Sa, Nguyễn Du có ý cho rằng mình là người nghìn năm sau hiểu lòng Khuất Nguyên hơn Giả Nghị. Tương Đàm với đây gần nhau chỉ trong gang tấc, sống cách nhau nghìn năm, gặp nhau mà hai bên không có gì trái nhau:
Tương Đàm chỉ xích tương lân cậnThiên cổ tương phùng lưỡng bất vi.(Trường Sa Giả Thái Phó)
Khi đi sứ sang Trung Quốc, đến thăm mộ của Liễu Hà Huệ, ông viết:
Bi tàn một tự mai hoang thảoThiên cổ văn phong nhất há xa.(Bia tàn chữ mất vùi trong cỏNgàn năm nghe tiếng xuống xe chào. (3)Liễu Hà Huệ mộ)
Xuống xe để tỏ lòng tôn kính trước mộ của một tịnh nhân như Liễu Hà Huệ, đối với một vị sứ thần nhà Nguyễn như Nguyễn Du phỏng có mấy người?Cũng với niềm kính trọng ấy, ông trách người đời không để tâm đến những bậc chí nhân ưu thời mẫn thế. Và ông cảm thương cho tấm lòng cô trung tiết liệt của Tam Lư Đại Phu Khuất Nguyên, khi những cái đỏm dáng bên ngoài đã gượng gạo bắt chước người xưa:
Thiên cổ thuỳ nhân lân độc tỉnhTứ phương hà xứ thác cô trungCận thời mỗi hiếu vi kỳ phụcSở bội tiêu lan cánh bất đồng.(Nghìn xưa ai xót người thức tỉnhKhắp chốn gửi đâu một tấm lòngThời nay kẻ thích trang phục lạTiêu lan họ mặc chẳng giống ôngTương Đàm điếu Tam Lư đại phu)
Đọc những câu thơ trên, thoạt nghe, ta ngỡ Nguyễn Du chỉ là người đa sầu đa cảm. Chính bạn bè ông cũng nghĩ như thế. Nhưng ngẫm cho cùng, cuộc đời là cuộc mộng, ai sống trong cõi đời này mà chẳng mộng. Ông tự bạch:
Tri giao quái ngã sầu đa mộngThiên hạ hà nhân bất mộng trung.(Ngẫu đề)
Điều đáng nói là giữa chốn huyễn hoá tám vạn khói sương này, người mộng tự tìm cho mình một đời sống thanh tao, thoát tục, dẫu biết rằng cảnh phù sinh khó mà dứt đoạn.
Tiễn nhĩ dã âu tuỳ thuỷ khứPhù sinh lao lục kỷ thời hưu.(Giá được như đàn âu lội nướcCõi đời lao nhọc lúc nào thôiĐồng Lung giang)
Hay:
Ná đắc khiêu ly phù thế ngoạiTrường tùng thọ hạ tối nghi nhân.(Ước gì nhảy khỏi ra vòng tụcDưới bóng cây tùng thích biết baoSơn thôn)
Có lúc, hình ảnh Đào Tiềm thong dong vô sự làm ông thèm thuồng ao ước:
Tiễn sát bắc song cao ngoạ giảBình cư vô sự đáo hư linh.(Thèm được như người bên cửa Bắc (4)Ngày ngày chẳng việc bận đến tâmKý hữu)
Khác với người đồng thời và đồng hương với mình, Nguyễn Công Trứ thường nói:
Làm trai đứng ở trong trời đấtPhải có danh gì với núi sông.
Đáng mặt anh hùng lắm! Thì Nguyễn Du cũng chẳng ra làm quan đấy thôi! Nhưng Nguyễn Công Trứ sau bao nhiêu năm “Xuống Đông Đông tĩnh, lên Đoài Đoài yên” lại thốt ra một câu vô cùng chua chát:
Trên trường danh lợi vinh liền nhụcGiữa cuộc trần ai khóc lộn cười.
Nguyễn Du thì “Giữa đường ngẫu hứng” đã ý thức rõ sự phù phiếm của cuộc đời. Cái nhìn của ông thật là tinh tế và sâu sắc:
Phục lạp tử tôn không loại tửuThế gian phú quý đẳng phù vânBách niên đáo để giai như thịHồi thủ mang mang nhất phiến trần.(Lễ bày rượu tưới phiền con cháuChức trọng tiền nhiều mây hợp tanKết cục trăm năm đều thế cảNgoảnh trông một áng bụi mơ màng).Đồ trung ngẫu hứng)
Ý thức sâu sắc cõi đời là giả tạm, Nguyễn Du tự vạch cho mình một lối về, một chốn về mà ở đó không còn những oái oăm phiền muộn, đơn sơ với hoa tùng quả bách, với mây trắng nước trong:
Tùng hoa bách tử khẳng hứa thựcBạch đầu khứ thử tương an quy.(Hoa tùng quả bách mà ăn đượcĐầu bạc về đây chứ về đâu?Hoàng Mai Sơn Thượng thôn)
Còn biết bao nhiêu câu thơ nói về con người hồn hậu, trong sáng này. Những tưởng như bao nhiêu sĩ phu bất đắc chí giữa “Vạn lý lợi danh khu bạch phát”, vay mượn một chữ Nhàn có vẻ rất trữ tình để thoa dịu những đớn đau thất bại trên đường đời. Nhưng Nguyễn Du khác họ nhiều lắm. Ông thèm được như Đào Tiềm, thương cảm Khuất Nguyên và kính trọng Đỗ Phủ, nhưng tư tưởng của ông thì không như họ. Ông có một niềm tin vững chắc ở bản tâm mình, và đó là niềm vui lớn nhất khi ông mang tất cả chí nam nhi trở về với những phút giây yên tĩnh. Thỉnh thoảng vụt lên trong thi ca những dòng chữ siêu thoát và thiền vị đến không ngờ:
Vô ngôn độc đối đình tiền trúcSương tuyết tiêu thời hợp hoá long.(Lặng lẽ trước sân nhìn khóm trúcTan tuyết rồi xem trúc hoá rồngKý hữu)
Cao Bá Quát một đời chỉ cúi đầu trước hoa mai (Nhất sinh đê thủ bái mai hoa). Còn Nguyễn Du thì có lần suốt 3 tháng chống chọi với cái rét ghê người để được nhìn thấy hoa mai nở trên đỉnh núi:
Nhương tận khổ hàn tam duyệt nguyệtLĩnh đầu lạc đắc khán mai hoa.(Từ Châu đạo trung)
Tôi đã vô tình liệt kê quá nhiều, hẳn có thể làm bạn khó chịu. Nhưng thiển nghĩ, mấy trăm bài thơ, bài nào cũng hay, câu nào cũng đẹp, tôi chỉ sợ để rơi rớt bao nhiêu châu ngọc khi vẽ lại một nhân cách, một tấm lòng... Đôi vần vụng dại, ngâm lên cùng khói hương tưởng niệm, cung chiêu “Người cha tóc trắng” của văn học Việt Nam.2. Nhân sinh quan của Nguyễn Du:Nếu đặt vấn đề Nguyễn Du và Phật giáo, hẳn có người sẽ lên tiếng dị nghị: Suốt mấy trăm bài thơ, có chỗ nào Nguyễn Du nói đến Phật đâu? Rồi người ta sẽ viện dẫn bao nhiêu từ ngữ trong thơ ông để cho rằng ông đã tìm đến Lão Trang, nào là “hạc hĩnh”, “mã đề”, nào là “hoạn hữu thân”, “dưỡng chuyết”, nào là “ngoạ thính tùng phong hưởng bán vân”, “sài môn trú tĩnh sơn vân bế”... Thực ra Nguyễn Du không muốn quên đời, Lão Trang trong ông chỉ là cốt cách của một Nho sĩ thức thời, và thường thì tư tưởng Lão Trang được thi nhân mượn để tỏ bày cái nội tâm trong sáng, thanh khiết giữa cuộc đời ô trược mà thôi. Làm sao một kẻ tự xưng là “Hồng sơn liệp hộ” (phường đi săn ở núi Hồng Lĩnh) lại có thể là đồ đệ Lão Trang? Có chăng ông là một Nho sĩ. Ở thời đại Nho giáo độc tôn, ở thời đại mà cái học chỉ toàn là lý học, Nguyễn Du sẽ nói gì? Viết gì? “Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên, hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên”. Hùng tâm và sinh kế, cả hai cái ấy hẳn đã làm ray rức hồn người lắm lắm! Sau THANH HIÊN THI TẬP và NAM TRUNG TẠP NGÂM, Nguyễn Du viết BẮC HÀNH TẠP LỤC. BẮC HÀNH TẠP LỤC là đỉnh cao nghệ thuật trong văn nghiệp của ông. Trên đường đi sứ sang Trung Quốc, Nguyễn Du đã đến viếng hết di tích của các danh nhân kim cổ. Ông gửi gắm tâm sự mình qua những vần thơ, xẻ chia và cảm thông cũng những “người ngàn năm trước”. Ông đã đánh giá nền văn hoá Trung Hoa cổ đại, từ Tiên Tần cho đến Đường Tống. Ông viết về Khuất Nguyên đến Đỗ Phủ, từ Tam Hoàng đến Tào Tháo... Tất cả là một sự kính thương nhưng buồn giận, kính nhi viễn chi, rồi khái quát cuộc đời với những nhận định vô cùng bi tráng, vô cùng lạ lẫm:
Đại địa xứ xứ giai Mịch La (5)
Khi đến thăm mộ Kỳ lân, một vật thiêng được người Trung Hoa xem là điềm báo Thánh nhân xuất thế, ông bảo nếu vậy thì thời ấy sao Kỳ lân không lượn chơi đất phương Nam:
Nhược đạo năng vị Thánh nhân xuấtĐương thế hà bất Nam du tường.(Kỳ lân mộ)
Rõ ràng, Nguyễn Du cũng thao thức với nỗi đau thế sự, cũng xót xa cùng đất nước nhiễu nhương. Nhưng ông tự nghĩ: Sao ta lại đem trong sạch hay tỉnh táo để nhìn đời, để phải như cánh bèo trôi dạt rất đáng thương:
Hà dĩ thanh tỉnh khan thế sựPhù bình nhiễu nhiễu cánh kham ai.(Lưu Linh mộ)
Ngôn ngữ là cửa ngõ của tâm hồn, nhưng chưa hẳn là chính tâm hồn ấy. Nói một cách khác, thi ca Nguyễn Du phơi bày một nhận thức sâu sắc về cuộc đời; và ẩn nấp sau những vần thơ mẫn cảm ấy là một chữ “Tâm” vô cùng sâu rộng, một tư tưởng vừa siêu thoát vừa hiện thực, vừa tích cực vừa khoan hoà, thấm đẫm vị Thiền Phật giáo.Ngôn ngữ thiên tài bao giờ cũng khiến người ta ngộ nhận. Nguyễn Du tự xưng mình là Hồng sơn liệp hộ, nhưng có phường săn nào lại có cái buồn và nỗi đau man mác đến dường ấy. Bi kịch và bi kịch cứ trùm lên bầu không khí thi ca Nguyễn Du, nhưng nỗi niềm riêng vẫn canh cánh bên lòng trang lữ thứ:
Vô cùng kim cổ thương tâm xứNhất phiến hàn thanh tống cổ kim.
Văn thiêng không ở trong lời (Linh văn bất tại ngôn ngữ khoa), Nguyễn Du không hề nói đến Phật giáo, nhưng thái độ, quan điểm của ông luôn nhuốm đầy nhân sinh quan Phật giáo. Trước hết là nhận thức về Vô thường, Khổ, Không, Vô ngã. Đâu đâu trong thơ ông cũng toát lên cái nhìn chín chắn, không hư dối về cuộc đời. Đó là sự thật về cái Khổ (Khổ đế), sự thật thứ nhất trong bốn sự thật mà một hành giả tu tập Phật giáo phải ý thức rõ ràng. Nguyễn Du hay nói về cái đầu bạc, ông có vẻ bị ám ảnh bởi sương tuyết thời gian phủ lên mái tóc xanh trai trẻ của mình. Lúc mới 30 tuổi Nguyễn Du đã viết: “Hư danh vị phóng bạch đầu nhân” (Mạn Hứng). Rồi suốt ba tập thơ, chỗ nào cũng thấy ông nói về mái đầu tóc trắng. Thảo nào đã có người gọi ông là “Người cha tóc trắng của thi ca và tư tưởng Việt Nam, ngồi im lặng trên mây núi Hồng, già với gió thu...” (6). Nhìn mình, nhìn người, nhìn đời, chỗ nào Nguyễn Du cũng thấy vô thường chi phối, toàn thể nhân sinh thế thái qua cái đầu bạc:“Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên”...“Nại hà đầu dĩ bạch như ngân”...“Bạch phát thu phong không tự ta”...“Vạn lý lợi danh khu bạch phát”...“Nhất lộ giai lai duy bạch phát”...“Bạch đầu khứ thử tương an quy”...“Bạch đầu vô lại chuyết tàng thân”...“Bạch đầu do đắc kiến Thăng Long”...Còn rất nhiều những câu có chữ “bạch đầu”, “bạch phát” như thế. Khỏi cần phải luận bàn, ta cũng đủ thấy nhận thức về vô thường trong ông như thế nào. Tôi chợt nhớ một câu thơ của Đỗ Phủ: “Người đầu bạc giữa lớp sóng bạc” (Bạch đầu lãng lý bạch đầu nhân). Đi giữa lớp sóng bạc của cuộc đời, mái đầu xanh cũng bạc trắng, bạc trắng như chính nỗi lòng người cô lữ.Bước đi trong cuộc đời như thế khác nào bước đi trong đêm tối, Nguyễn Du hướng về hình ảnh những bậc xuất thế, xuất thế giữa lòng thế tục. Bài “Dạ Hành” là bài thơ tôi thích nhất của Nguyễn Du. Ông mô tả hình ảnh vị Sư già ngủ trên mây núi Hồng Lĩnh giữa đêm tối:
Lão nạp an miên Hồng Lĩnh vânPhù âu tĩnh túc noãn sa tânNam minh tàn nguyệt phù thiên lýCổ mạch hàn phong cộng nhất nhânHắc dạ hà kỳ mê thất hiểuBạch đầu vô lại chuyết tàng thânBất sầu cửu lộ triêm y duệThả hỷ tu mi bất nhiễm trần.(Sư già ngủ giữa mây Hồng LĩnhBãi ấm âu nằm lặng giấc sayBiển rộng trăng trôi ngàn dặm thẳmĐường xưa gió quất một thân gầyĐêm đen dường mãi quên không sángẨn vụng xui thêm tóc bạc đầyVạt áo dầm sương đâu ngại ướtMày râu mừng chẳng bụi trần ray)(Ngô Linh Ngọc dịch).
Hai câu cuối thật thần tình, thật ý vị. Không ngại sương đêm thấm ướt vạt áo, chỉ mừng là mày râu không dính bụi. Ô hay! Vị Sư già nằm giữa mây núi, mày râu Sư chắc bạc trắng như mây, trinh tuyền lắm lắm, vì có bụi trần hồng nào mà nhuộm đỏ? Chỉ có sương đêm làm ướt áo đôi chút. Lạnh chút thôi, mà thanh thản biết dường nào! Hình ảnh đẹp, ngôn từ cũng cực kỳ đẹp, hẳn cái nhìn kia cũng xuất phát từ một tấm lòng rất đẹp.Chúng ta còn bắt gặp hình ảnh này trong bài Vọng Quan Âm miếu:...Tăng yên ngủ khi mây ngừng trôi khắp chốn, tiếng vượn kêu khi trời lặn trên những ngọn đồi. Đốt một nén hương để tiêu tuệ nghiệp, quay đầu nhìn lại đã cách muôn lớp núi:
Đình vân xứ xứ tăng miên địnhLạc nhật sơn sơn viên khiếu aiNhất chú đàn hương tiêu tuệ nghiệpHồi đầu dĩ cách vạn trùng nhai
Lạ nhất trong bài này là câu thứ bảy: “Nhất chú đàn hương tiêu tuệ nghiệp”. Sao lại là tiêu tuệ nghiệp? Có phải tác giả muốn nói đến cái nghiệp do trí tuệ gây ra? Tức Sở tri chướng, Thế trí biện thông? Quả là ít ai dám dịch chữ này.Đi trong cuộc đời, trái tim của “Người tóc bạc” luôn hướng về những mảnh đời bèo dạt mây trôi, về người đẹp gảy đàn vô danh ở thành Thăng Long, về nàng Tiểu Thanh, hay cả nàng Thuý Kiều bạc mệnh. Nói chung, Nguyễn Du thường nói đến những người tầm thường, những điều mà ta đã biết. Nhưng đó lại là cái vĩ đại, vĩ đại nhờ ông vừa đau khổ vừa nói. “Nhất phiến tài tình thiên cổ luỵ” (Phạm Quý Thích), ông đau khổ, nhưng là cái đau khổ thánh thiện. Ông nói về những người đau khổ, nhưng thực ra ông đã khơi mở một chủ nghĩa nhân đạo đặc thù cho cả hồn Việt. Chỉ có tâm lượng của người con đất Việt, thụ bẩm một cách toàn triệt nền tảng Từ bi mới có được những tuyệt tác như thế. Đúng như lời của Mộng Liên Đường chủ nhân đã nói: “... nếu không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy...” (7)Đôi lúc, ông cũng muốn gán chiếc áo màu lông chim túc sương để đổi lấy một cuộc say, nhưng tóc trên đầu đã bạc trắng thì biết làm thế nào:
Dục điển túc sương mưu nhất tuýNại hà đầu dĩ bạch như ngân.(Quảng Tế ký thắng)
Chính vì không thể đổi lấy một cuộc say, nên Nguyễn Du đã thao thức. Phải có một lối thoát, duy tại con người không biết lấy mà thôi, ông buồn trông áng bụi hồng mờ mịt không bờ bến mà tự trách ngày ngày mình vẫn đi lại trong ấy mà không biết:
Trướng vọng hồng trần diễu vô tếBất tri nhật nhật thử trung hành.(Từ Châu đê thượng vọng)
Cũng với ý ấy, có một câu thơ vô cùng đặc sắc, hệt như lời vịnh của một Thiền sư:
Niên niên thu sắc hồn như hửNhân tại tha hương bất tự tri(Hồn thu vẫn tự bao giờNgười xa quê cũ chẳng ngờ đó thôiGiang đầu tản bộ)
3. Kim Cang Bát Nhã - Tư tưởng chủ đạo trong thi ca Nguyễn Du:Điều đáng ghi nhận là ở thời đại Nguyễn Du, Phật giáo Việt Nam không còn chiếm địa vị độc tôn như thời Lý Trần, thậm chí có thể nói là hết mức suy đồi. Khi nhà Minh sang xâm lược nước ta, tướng Trương Phụ đã đem toàn bộ kinh điển Phật giáo về Kim Lăng hoặc thiêu đốt hết. Nho giáo cùng với chế độ thi cử đã lấn át hết tư tưởng của giới trí thức đương thời, ít người có điều kiện nghiên cứu kỹ Phật giáo. Và, Phật giáo trong lòng nhân sĩ chỉ là một mớ tư tưởng chán đời, yếm thế.Khi đọc thơ chữ Hán của Nguyễn Du, tôi lại vô cùng ngạc nhiên trước những câu thơ đầy hào khí:
Nhân liễu thử tâm nhân tự độLinh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu.
Hay:
Mãn cảnh giai không hà hữu tướngThử tâm thường định bất ly thiền.
Nguyễn Du chưa bao giờ tự xưng mình là Phật tử. Nhưng người học Phật có thể xem ông là “Đạo hữu”. Người cha của thi ca Việt Nam lại là người từng đọc Kinh Kim Cang đến hơn 1000 lần (Ngã độc Kim Cang thiên biến linh), hẳn toàn bộ sự nghiệp thi ca của ông thấm đẫm tư tưởng Phật giáo.Ta thử đọc một vài bài thơ nói về ý đạo, để xem sự thâm nhập kinh điển Phật giáo của Nguyễn Du sâu thẳm dường nào:
Minh nguyệt chiếu cổ tỉnhTỉnh thuỷ vô ba đàoBất vị nhân khiên xảThử tâm chung bất giaoTúng bị nhân khiên xảNhất giao hoàn phục chỉTrạm trạm nhất phiến tâmMinh nguyệt cổ tỉnh thuỷ.(Trăng sáng soi giếng xưaNước giếng không gợn sóngKhông bị người khuấy độngTâm này chẳng giao độngNếu bị người khuấy độngLay động rồi lại dừngMột chữ Tâm lóng lặngNhư trăng soi giếng xưaĐạo ý)
Trong bài nói về ý đạo trên, Nguyễn Du đã xác định Tâm chính là Đạo. Nghĩa chữ Tâm ở đây chỉ có trong kinh điển Phật giáo. Tâm thể thì thường hằng vắng lặng, dù sóng gió ba đào có làm mặt nước tâm giao động chút ít, nhưng rồi mặt nước cũng trở về trạng thái nguyên uỷ của mình.Trong bài Tạp thi, ông viết:
Diệp lạc hoa khai nhãn tiền sựTứ thời tâm kính tự như như.(Hoa rơi lá rụng chỉ là việc trước mắt,Bốn mùa gương tâm vẫn chẳng có gì thay đổi)
Tâm, Phật, chúng sanh đồng nhất thể. Tất cả các pháp đều lưu xuất từ nhất tâm này. Phật và chúng sanh, mê và ngộ, giải thoát và trói buộc... tất cả đều ở Nhất tâm. Người liễu đạt được Tâm này thì tự mình độ thoát. Tam tạng kinh điển Phật thuyết ở Linh Thứu sơn cũng ở tại tâm người mà thôi:
Nhân liễu thử tâm nhân tự độLinh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu
Khi chưa liễu ngộ được tâm này thì vạn tượng sum la đều khởi, phàm thánh chia hai, núi là núi, sông là sông. Khi liễu ngộ được tâm này rồi thì gương Tâm sáng rỡ như ánh trăng - Đại viên cảnh trí - gặp nhân chiếu nhân, gặp vật chiếu vật, không phân biệt, thực tại vẫn là thực tại. Núi không phải là núi nên núi là núi. Chẳng rõ người chưa thực ngộ lý này có thể viết một cách tự nhiên được một câu thơ thế này chăng:
Đạt nhân tâm kính quang như nguyệtXử sĩ môn tiền thanh giả sơn.(Tâm người đạt ngộ ngời gương nguyệtTrước sân ẩn sĩ núi xanh rờn(Tạp ngâm 2)
Tất cả các pháp đều không. Không có nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng (KINH KIM CANG). Nguyễn Du viết:
Mãn cảnh giai không hà hữu tướngThử tâm thường định bất ly Thiền.Đại sư vô ý diệc vô tậnPhủ thán thành trung đa biến thiên.(Đề Nhị Thanh động)
Tâm này thường ở trong Định và chẳng xa rời việc chứng ngộ của Thiền. Các cụ thâm nho ở Hà Nội đã không hiểu nên dịch quá xa nghĩa của nguyên tác: “Lòng khăng khăng chỉ hướng về Thiền” (8). Chẳng hề có “khăng khăng” hay “hướng về”, “thường định” ở đây là “thường ở trong Định” và “bất ly Thiền” tức ngay nơi tâm là Thiền. Có lẽ Nguyễn Du cũng nhiều lần đọc Pháp Bảo Đàn mới có cái khẩu khí của Huệ Năng như thế.Khi đi sứ sang Trung Quốc, đến “Đài chia kinh” của Thái tử Chiêu Minh nhà Lương, Nguyễn Du cảm tác một bài thơ khá dài, khá lạ so với toàn bộ thơ chữ Hán của ông (hầu hết thơ chữ Hán của ông gồm 8 câu). Ông cười chê việc làm của Chiêu Minh Thái tử, cho rằng việc chữ nghĩa có dính dáng gì đến sự vắng lặng của Tâm đâu mà phân kinh với chiết tự. Trong bài có đoạn viết:
Phật bản thị không bất trước vậtHà hữu hồ kinh, an dụng phân?Linh văn bất tại ngôn ngữ khoaThục vi Kim Cang vi Pháp HoaSắc không cảnh giới mang bất ngộSi tâm quy Phật Phật sinh maNhất môn phụ tử đa giao tếNhất niệm chi trung ma tự chí...(Tạm dịch: Phật vốn là không, không dính mắc mọi vật, có dính dáng gì đến kinh đâu mà phải chia. Văn thiêng không phải ở ngôn ngữ, cái gì là Kinh Kim Cang, Kinh Pháp Hoa? Giữa “Sắc” và “Không” mờ mịt không nhận ra được. Quy y Phật với cái tâm si mê như thế thì Phật sinh ra ma. Cả nhà cha con đều mù quáng cả, thì chỉ trong một niệm là ma tự tìm đến ngay...)
Đặc biệt là đoạn cuối của bài thơ này:
Ngô văn Thế Tôn tại Linh SơnThuyết pháp độ nhân như hằng hà sa sốNhân kiến thử tâm nhân tự độLinh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầuMinh kính diệc phi đàiBồ - đề bổn vô thụNgã độc Kim Cang thiên biến linhKỳ trung áo nghĩa đa bất minhCập đáo phân kinh thạch đài hạTài tri vô tự thị chân kinh.(Tạm dịch: Ta nghe nói Đức Thế Tôn tại núi Linh Thứu, thuyết pháp độ hằng hà sa số người. Người liễu ngộ được tâm thì người tự độ thoát, Linh Sơn chỉ ở tại tâm người mà thôi. Không có đài gương sáng, nào có cây Bồ-đề. Ta đọc hơn ngàn biến Kinh Kim Cang, những ý nghĩa sâu kín trong đó phần nhiều ta không rõ. Đến hôm nay tới đài chia kinh này mới biết rằng Vô tự chính là Chân kinh).
Một bài thơ, cũng có thể xem là một ngữ lục Thiền. Vô hình trung, bài thơ hé mở thế giới tâm chứng của Nguyễn Du. Hay nói một cách khác - Kim Cang Bát Nhã đã là tư tưởng dẫn đạo trong đời sống và thi ca của Tố Như Tử.Tôi đã trích dẫn khá nhiều, nhưng hoàn toàn chưa nói đến bút pháp đặc biệt trong thơ chữ Hán Nguyễn Du. Truyện Kiều đã làm cho Nguyễn Du được xem là 1 trong 5 hoặc 3 thi hào vĩ đại nhất của nhân loại, thì đối với thơ chữ Hán, quả là một kho tàng để chúng ta khai thác và học hỏi. Mùa Xuân nằm đọc thơ của người xưa mà thấy lòng rưng rưng muốn khóc. Ước gì các bậc thạc học thâm nho để tâm khai triển, phân tích và diễn giải thật nhiều, để hàng hậu tấn chúng tôi được nhuần ân học hỏi.

Nhất Thanh(1) Lời nói đầu Nguyễn Du toàn tập, quyển 1, trang 7 - NXB Văn Học.(2) Chữ của Bùi Giáng dùng để dịch câu này.(3) Người viết không có ý dịch thơ, vì muốn diễn Nôm cho dễ hiểu, song cũng cố gắng dịch những câu nào thấy tiện. Nếu có bản dịch nào hay được trích dẫn vào đây thì sẽ đề tên dịch giả, còn lại là của người viết tạm dịch.(4) Khi Đào Tiềm từ quan về vườn thường nằm khểnh ở cửa sổ phía Bắc hưởng thư nhàn, người đời gọi ông là “Bắc song xử xỉ”.(5) Mịch La là tên dòng sông nơi Khuất Nguyên trầm mình.(6) Im lặng và hố thẳm, Phạm Công Thiện, An Tiêm, 1967.(7) Trích lại từ Vài nhận xét về Truyện Kiều... của Bùi Giáng - NXB Hội Nhà Văn, 1998.(8) Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Hà Nội, 1978. Đoạn này lấy ý trong Nguyễn Du - Đại thi hào dân tộc, Phạm Công Thiện - Viện Triết lý Việt Nam và Triết học thế giới, California, Hoa Kỳ, 1996.Lộ tòng kim dạ bạch,Nguyệt thị cố hương minh. 65.00 Ảnh đại diện

Sự vận động trong tư tưởng nghệ thuật Nguyễn Du qua những bài thơ tự thuật

Đăng bởi MinhAnh&PhuongLinh vào 15/06/2008 09:47Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 15/06/2008 12:40Có 1 người thích

Nguyễn Du được xếp vào hàng những cây bút lớn nhất của văn học Việt Nam trung đại. Tác phẩm của ông được đưa vào giảng dạy với thời lượng đáng kể ở cả Trung học cơ sở và Trung học phổ thông. Cùng với kiệt tác Đoạn trường tân thanh, Nguyễn Du còn để lại ba tập thơ chữ Hán: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâmBắc hành tạp lục. Các thi tập này không chỉ góp phần làm nên diện mạo thơ ca trung đại mà còn là nguồn tư liệu giúp chúng ta tìm hiểu thế giới nội tâm của chính tác giả. Vì vậy, tìm hiểu sáng tác chữ Hán của Nguyễn Du có ý nghĩa quan trọng đối với việc nghiên cứu và giảng dạy tác gia này.Có thể nói, Nguyễn Du sáng tác thơ chữ Hán trước hết là để gửi gắm nỗi niềm riêng. Cho nên, số lượng bài thơ, câu thơ có tính chất tự thuật trong các thi tập của Nguyễn Du rất lớn. Chúng vượt xa một số tác giả cùng thời: 107 bài (chiếm đến 43%) - trong khi Đoàn Nguyễn Tuấn, Ngô Nhân Tĩnh, Lê Quang Định, Trịnh Hoài Đức, Ngô Thì Nhậm... chỉ có từ 7 đến 25 bài (trên dưới 10% tác phẩm). Bộc lộ tâm trạng đã trở thành một yếu tố đặc trưng cho thơ chữ Hán Nguyễn Du. Những vần thơ tự thuật không chỉ phản ánh cách Nguyễn Du hình dung về bản thân mình mà còn cho thấy quá trình vận động trong tư tưởng nghệ thuật của một nghệ sĩ lớn. Quá trình này tương ứng với những biến động trên đường đời của tác giả. Đây cũng là một qui luật của thơ ca thời trung đại. Chỉ có điều với Nguyễn Du, sự biến đổi ấy không phụ thuộc vào những thăng trầm trên đường hoạn lộ mà chủ yếu bắt nguồn từ những trải nghiệm nhân sinh.1. Thanh Hiên thi tập và những bi kịch cá nhânĐây là tập thơ được sáng tác trong những năm tháng bi thương nhất của cuộc đời tác giả: Nơi non Hồng không còn nhà, anh em tan tác/ Cả hùng tâm lẫn sinh kế đều mờ mịt/ Đường dài, trời chiều, bạn mới ít... Nhu cầu tự bộc lộ mãnh liệt nên số lượng thơ tự thuật xuất hiện rất nhiều: 59 lần (76%). Thanh Hiên thi tập chủ yếu mang tính hướng nội và chất chứa buồn thương, u uất. Tâm trạng cô đơn, bế tắc được phản chiếu rất rõ nét qua hệ thống hình ảnh mà chúng tôi đã thống kê: 77 lần tả trạng thái cô độc, lẻ loi thì riêng tập thơ này đã chiếm 37 lần (48%); 45 lần tả mái đầu bạc thì ở đây là 23 lần (51%); 24 lần xuất hiện hình ảnh cùng đồ, tắc đồ thì ở đây là 15 lần (63%); 44 lần nói nỗi đau sống thừa thì Thanh Hiên thi tập đã chiếm đến 29 lần (66%). Hiện tượng ấy chứng tỏ cơn dâu bể của thời đại đã làm đổ vỡ mọi ước mơ, hi vọng, tước đoạt tất cả những điểm tựa tinh thần... khiến Nguyễn Du không thể không bàng hoàng, đau đớn. Vì những biến cố lịch sử dữ dội, nhà thơ luôn phải đối diện với những bi kịch cá nhân: gia đình tan tác, anh em chia lìa, tiền đồ bản thân mù mịt... Những mất mát, đổ vỡ liên tiếp, dồn dập ấy dội vào cuộc đời ông, làm nảy sinh trong tâm hồn bao nỗi buồn thương. Hiện lên trong các bài thơ tự thuật là hình ảnh một con người cô độc, mệt mỏi, u sầu. Nhà thơ như không dám tin tưởng vào điều gì ở phía trước, không tìm được cho mình chút hy vọng và niềm vui sống... Nhưng qua nỗi đau riêng của một tâm hồn lớn, ta vẫn thấy được nỗi đau chung của con người trong thời đại Nguyễn Du. Trái tim người nghệ sĩ ấy không chỉ tủi buồn cho thân phận của mình mà còn đau đớn trước những đổ vỡ, tan hoang của quê hương, đất nước:

Thập tải trần ai ám ngọc trừ,Bách niên thành phủ bán hoang khư.Yêu ma trùng điểu cao phi tận,Trỉ uế càn khôn huyết chiến dư.Tang tử binh tiền thiên lí lệ...(Bát muộn)(Bụi trần mười năm che tối thềm ngọc,Thành phủ trăm năm một nửa thành gò hoang.Những côn trùng, chim chóc nhỏ bé đều bay đi hết,Đất trời nhơ nhớp sau cuộc huyết chiến.Giọt lệ nơi nghìn dặm khóc cho cuộc binh đao ở quê hương) (1).
Nguyễn Du chán chường, thất vọng đâu chỉ vì sự dở dang của cuộc đời ông mà còn vì bao ngang trái, bất công của một xã hội đang thời hỗn loạn: “Bốn bể gió bụi, lệ rơi vì tình nhà nợ nước” (My trung mạn hứng), “Đêm tối sói hổ kiêu ngạo/ Trăng sáng chim hồng chim nhạn tản tác” (Biệt Nguyễn đại lang)... Ông bàng hoàng, tiếc nuối không chỉ vì sự đổ vỡ của gia đình, của dòng họ mà còn vì cảnh thương hải tang điền của cuộc đời:
Nhất tự y thường vô mịch xứ,Lưỡng đề yên thảo bất thăng bi.Bách niên đa thiểu thương tâm sự,Cận nhật Trường An đại dĩ phi.(Giang đình hữu cảm)(Từ khi áo xiêm không còn tìm đâu thấy,Khói trên ngọn cỏ hai bờ sông khiến lòng khôn xiết bi thương.Trăm năm của cuộc đời biết bao việc thương tâm,Ngày gần đây Tràng An đã khác xưa nhiều)
Như vậy, bao trùm Thanh Hiên thi tập là nỗi đau buồn của một con người bơ vơ, lạc lõng giữa dòng đời dâu bể. Tâm hồn Nguyễn Du chìm trong những bàng hoàng, day dứt, sầu muộn mênh mông. Song chính niềm thương thân ấy đã khơi nguồn cho sự cảm nhận sâu sắc của nhà thơ về những mất mát, khổ đau của con người trong thời đại mình.2. Nam trung tạp ngâm và nỗi thất vọng về chốn quan trườngSo với Thanh Hiên thi tập, thơ tự thuật ở Nam trung tạp ngâm tuy có giảm song vẫn chiếm số lượng khá lớn: 26 lần trên tổng số 40 bài thơ, chiếm 65% (ở Thanh Hiên thi tập là 59 bài chiếm 76%). Giờ đây, nhà thơ không còn chìm trong bế tắc, tuyệt vọng như trước. Song tác giả cũng chưa từng có được sự thanh thản khi bước chân vào chốn quan trường. Có đến 20 lần ông bày tỏ ước nguyện qui dư, qui cố hương (trên 45 lần của cả ba tập thơ chiếm 44%). Điều đó chứng tỏ Nguyễn Du luôn cảm thấy day dứt, ân hận, luôn bị giằng xé trong nhiều mâu thuẫn nội tâm. Dường như ông thấy mình đã chọn lầm đường- con đường mà càng dấn thân vào, con người càng mất dần đi thiên tính tốt đẹp: “Chiếc áo xanh đi khắp đường bụi hồng/ Con vượn, con hạc làm sao nhận ra được láng giềng cũ?” (Đồng Lư lộ thượng dao kiến Sài Sơn). Điểm nhìn nghệ thuật của Nam trung tạp ngâm vẫn mang tính hướng nội song cảm nhận của nhà thơ về bản thân đã có nhiều đổi khác. Ông không còn phải khóc thương cho sự cùng đường, bế tắc của một con người lỡ thời, thất thế nhưng lại phải đau xót, tủi thẹn vì nguy cơ đánh mất mình. Thơ tự thuật của Nguyễn Du thời kỳ này chất chứa những mệt mỏi, chán chường, thất vọng. Ông thất vọng về mình - vì đã không giữ vẹn được tấm tình thuỷ chung với non xanh, với tùng cúc, hươu nai. Ông thất vọng về chốn quan trường - vì những tưởng khi nhập thế sẽ làm nên sự nghiệp, sẽ giúp ích cho đời nhưng cuối cùng cũng chỉ là kẻ bị trói buộc bởi năm đấu gạo. Ông giống như một người không muốn trôi theo dòng chảy kia nhưng chẳng thể nào thoát khỏi được vòng xoáy dữ dội của nó nên đành chấp nhận. Điều đau xót nhất là, khi bước chân vào nẻo thanh vân cũng là khi hoài bão, ước mơ dần nguội tắt.Nhưng trong chính khoảng thời gian này, tác giả Nam trung tạp ngâm bắt đầu có những nhận thức sâu sắc về bản chất xã hội đương thời. Đó không phải là nơi cho những con người có hùng tâm, tráng chí cất cánh bay cao. Người nghệ sĩ trong ông khi nhìn lại những biến động của thời đại đã không thể không đau đớn cho cuộc đời trong cảnh “Hán cướp Tần tranh”: Tạc giả đại khuy sinh vật đức (Trước kia đã thương tổn rất nhiều đến cái đức hiếu sinh của tạo hoá - Pháo đài), Tam quân cựu bích phi hoàng diệp/ Bách chiến tàn hài ngoạ lục vu (Trên luỹ cũ ba quân lá vàng bay lả tả / Xương tàn trăm trận đánh vẫn nằm trong bãi cỏ xanh - Độ Linh giang), Khoáng dã biến mai vô chủ cốt (Trên đồng ruộng khắp nơi vùi thân vô chủ - Ngẫu đắc), Phong xuy cổ trủng phù vinh tận/ Nhật lạc bình sa cốt chiến cao (Gió thổi vào nấm mồ xưa, vinh hoa hư ảo tan hết/ Mặt trời tà trên bãi cát, đống xương chiến trận đã cao - Ngẫu thư công quán bích)... Tâm sự của Nguyễn Du trong Nam trung tạp ngâm đã không còn giới hạn trong những bất hạnh, đổ vỡ riêng tư mà phản chiếu cách nhìn nhận, đánh giá về bản chất của một xã hội trong chiều đi xuống.3. Bắc hành tạp lục và niềm trăn trở trước số phận con ngườiHệ thống thơ tự thuật ở Bắc hành tạp lục cho ta thấy những biến đổi lớn trong tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Du. Số lần tự thuật đã giảm đi rất nhiều so với hai tập thơ đầu: 132 bài thơ mà chỉ có 22 câu, đoạn tự thuật xen giữa các đề tài vịnh sử, vịnh cảnh (chiếm 16,7%). Đặc biệt, ở đây không có bài nào nhà thơ chỉ viết riêng về mình. Các hình ảnh thơ phản chiếu bi kịch trong tâm hồn ông cũng giảm đi đáng kể so với hai tập thơ đầu: bế tắc, tuyệt vọng chỉ còn 3 lần, đầu bạc 14 lần, mong về 11 lần. Còn lại, hầu hết là các bài thơ viết về con người và cuộc sống bên ngoài - tái hiện và bình luận vạn sự cổ kim. Tâm hồn Nguyễn Du giờ đây đã rộng mở để “đón nhận những vang động của đời”. Hình tượng “tự hoạ” trong Bắc hành tạp lục gắn liền với những biến đổi sâu sắc trong cái nhìn của nhà thơ khi đối diện với bản thân, với cuộc đời. Hiện lên dưới ngòi bút Nguyễn Du vẫn là người lữ khách mang nặng mối sầu tha hương song không nhuốm tủi hờn, đau đớn như ở Thanh Hiên thi tập mà nghiêng về nỗi nhớ nhung da diết... Nhưng hành trình ấy còn mang đến cho Nguyễn Du một cơ hội quí giá để mở rộng tầm nhìn. Bao nhiêu kiến thức thu nhận từ sách vở và những số phận con người từng ám ảnh tâm hồn nhà thơ- giờ đây đang hiện lên ngay trước mắt: “Dấu cũ từ nghìn năm trước xa xôi/ Điều sách chép rành rành nay hiện rõ trước mắt” (Thương Ngô tức sự).Cũng trên con đường đi sứ, Nguyễn Du đã phát hiện nhiều điều mới mẻ về thiên nhiên, con người và cuộc sống trên đất nước Trung Hoa. Có lúc nhà thơ không khỏi bàng hoàng trước cảnh sóng thác gầm thét dữ dội: “Mọi người đều nói đường trên đất Trung Hoa bằng phẳng/ Hoá ra đường Trung Hoa lại thế này/ Sâu hiểm quanh co giống lòng người” (Ninh Minh giang chu hành). Có lúc, ông thảng thốt trước những điều trông thấy hoàn toàn tương phản với những gì mình hằng nghe nói: “Thường chỉ nghe ở Trung Nguyên ai cũng no ấm/ Ngờ đâu Trung Nguyên cũng có người như thế này” (Thái Bình mại ca giả), “Ai cũng bảo nước Trung Hoa trọng tiết nghĩa/ Sao ở đây hương khói lạnh lẽo thế này?” (Quế Lâm Cù các bộ)... Đặc biệt, Nguyễn Du đã tìm thấy trên những nẻo đường đầy cố cảnh, cựu tích kia lời giải đáp cho nhiều câu hỏi lớn về cuộc đời, về thân phận con người từng khiến ông day dứt... Ông không ngợp mắt trước phồn hoa, không đắm mình vào cảnh đào hồng, liễu lục nơi xứ lạ mà thường kiếm tìm dấu cũ, bia xưa... của những con người có phẩm cách phi thường, có số phận bất hạnh. Dường như với Nguyễn Du, Trung Hoa trước hết là đất nước của những Khuất Nguyên, Đỗ Phủ, Dự Nhượng, Nhạc Phi... Cho nên, cái nhìn của người nghệ sĩ trong ông đã xuyên qua lớp vỏ của thực tại kia để thấu suốt bản chất của hiện thực - một hiện thực được phản chiếu rõ nét qua từng dấu tích đau thương, oan trái từ quá khứ. Để rồi từ đó, nhà thơ cất lên tiếng nói cảm thương, đau đớn, phẫn uất cho thân phận con người trên suốt dòng thời gian kim cổ. Cái tôi trữ tình Nguyễn Du luôn xuất hiện với trái tim mang nhiều cung bậc của niềm thương cảm: liên, sầu, bi, cảm, ai, thán, trướng, bồi hồi, thương tâm, kham ai... Vì vậy, khả năng khái quát hiện thực của Bắc hành tạp lục là rất to lớn - vượt xa tất cả các tập thơ đi sứ thời trung đại. Đồng thời, tập thơ này còn thể hiện cảm hứng nhân đạo độc đáo, cao cả của tác giả Đoạn trường tân thanh. Nguyễn Du đã đi từ cõi lòng ngổn ngang những thất vọng, khổ đau của riêng mình để đến với bao nhiêu khắc khoải của nhân sinh và cõi người. Trong đó, cung bậc buồn thương, đau đớn nhất chính là nỗi tiếc hận muôn đời trước số phận của những kiếp tài hoa, trung nghĩa.Có thể nói, các bài thơ tự thuật đã lưu giữ lại cho chúng ta diện mạo tâm hồn của chính Nguyễn Du. Ông đã “tự hoạ” chân dung như một con người lẻ loi, nếm trải nhiều cay đắng, thất vọng song cũng thật cứng cỏi, kiêu hãnh khi gìn giữ sự trong sạch, thanh cao của lòng mình. Và giữa bao nhiêu ngổn ngang, bế tắc vẫn thấy ngời lên ánh sáng của một trái tim chưa bao giờ nhầm lẫn trong yêu thương, đau đớn, phẫn nộ... Hình tượng “tự hoạ” của Nguyễn Du không chỉ thể hiện thế giới tâm hồn phong phú, phức tạp của một nghệ sĩ lớn mà còn có khả năng phản ánh và khái quát hiện thực sâu sắc. Bởi vì, ông đã không hề tách rời cuộc đời mình khỏi số phận của một lớp người, một thời đại. Trái lại, mọi đau buồn, phẫn uất mà Nguyễn Du bộc lộ đều gắn liền với những nỗi đau thương bao trùm lên thân phận con người lúc bấy giờ. Chúng bắt nguồn từ bao nhiêu biến cố của lịch sử. Trong những giọt lệ âm thầm thấm trên trang thơ chữ Hán có nước mắt Nguyễn Du khóc cho Tố Như, có nước mắt Tố Như khóc cho con người, cho cuộc đời trong cơn hưng phế: Trải trăm năm đã bao phen nương dâu biến thành ruộng muối, Đất trời nhơ nhớp sau cuộc huyết chiến, Những ngôi nhà lớn nghìn xưa nay thành đường cái quan/ Một toà thành mới xoá đi cung điện cũ... Trong “điệu thanh thương” bao trùm các thi tập của Nguyễn Du có dư âm của tiếng nói người trồng dâu, trồng gai, tiếng khóc nơi đồng nội, có nỗi đau Tiếng đàn sáo nhất loạt thay đổi chen vào những âm điệu mới... Bằng cách cảm nhận và thể hiện chân thành, sâu sắc những nỗi khổ đau, day dứt của mình, người nghệ sĩ ấy đã trở thành “khí quan của xã hội và đại biểu của thời đại, của nhân loại” (Biêlinxki). Đồng thời, hình tượng tự hoạ trong thơ chữ Hán Nguyễn Du còn là bằng chứng về sự xuất hiện của con người cá nhân trong văn học thời trung đại. Nguyễn Du đã góp phần không nhỏ trong việc làm nên thành tựu của một giai đoạn rực rỡ nhất trong lịch sử văn học dân tộc- bằng chính cái tôi “tự ý thức về nỗi đau khổ của mình, cái tôi đòi quyền sống cho mình...”(2).

NCS. Nguyễn Thị Nương - Đại học Sư phạm Hà Nội(1) Xin xem: Nguyễn Du toàn tập, tập I (Mai Quốc Liên chủ biên), Nxb Văn học, H, 1996. Các trích dẫn thơ trong bài đều theo sách này.(2) Nguyễn Đình Chú, “Vấn đề ngã và phi ngã trong văn học Việt Nam trung cận đại”, Tạp chí Văn học, số 5-1999, tr.31.[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn] 34.67

Từ khóa » Thơ Văn Nguyễn Du