Trầu Cau, Lễ Vật Không Thể Thiếu Trong Cưới Hỏi Người Việt
Có thể bạn quan tâm
Trong sách Lĩnh Nam Chích Quái (sách chép những chuyện huyền hoặc, quái dị trong nước từ xưa đến nay, căn cứ vào lời kể của dân gian và chỉ được phổ biến trong từng địa phương) có ghi lại sự tích Trầu Cau như sau:
Vào thời xa xưa, có hai anh em nhà họ Cao, một người tên Tân, một người tên Lang (tân lang có nghĩa là cây cau) rất mực thương yêu nhau. Khi cha mẹ qua đời, hai anh em đến trọ học nhà ông thầy họ Lưu. Thấy Tân và Lang vừa học giỏi, vừa đẹp người đẹp nết, ông thầy yêu quí như con. Cô con gái của thầy cũng đem lòng quyến luyến, muốn chọn người anh làm chồng. Hai anh em Tân và Lang sát tuổi nhau, dung mạo lại giống nhau như khuôn đúc, cô gái không sao đoán được ai là anh, ai là em. Nhân dịp biếu cháo, cô cố ý chỉ đưa tới một bát cháo với một đôi đũa rồi để ý, thấy Lang cung kính mời Tân ăn trước cô mới biết Tân là anh, và xin cha được gá nghĩa cùng chàng.
Vợ chồng Tân và Xuân Phù (tên cô gái, xuân phù có nghĩa là trầu không mùa xuân) sống rất hạnh phúc. Hai anh em Tân và Lang vẫn ở bên nhau, nhưng Lang nhận thấy từ ngày anh có vợ, tình anh đối với mình không còn quyến luyến như xưa, trong khi ấy người anh vô tình không hề hay biết. Ðã thế lại xảy ra chuyện hiểu lầm. Một hôm hai anh em đi làm đồng về muộn, Lang về trước, nàng Lưu tưởng chồng, chạy ra vồn vã âu yếm. Lang vội lên tiếng, cả hai đều biết là nhầm nên rất ngượng. Tân về, biết chuyện để dạ nghi ngờ, từ đó tỏ ra lạnh nhạt với em hơn.
Lang buồn tủi âm thầm bỏ nhà ra đi. Chàng lang thang trong rừng cho tới khi kiệt sức, chết đi hóa thân thành cây cau bên bờ suối vắng.
Thấy em không về, Tân ân hận, xót xa, lặng lẽ lên đường tìm em. Tân cũng đã tới bờ suối nọ, ngồi bên cây cau than khóc. Khi thân xác rũ liệt, chàng chết hóa thân thành tảng đá vôi, nằm sát bên gốc cau. Người vợ chờ chồng mãi chẳng thấy trở về, quá nhớ thương nên đi tìm. Nàng cũng tới bờ suối. Nàng ngồi trên tảng đá khóc miết... đến khi hồn lìa khỏi xác thì hóa thân thành cây trầu không, leo bám trên thân đá. Gia đình họ Lưu đi tìm con, được biết chuyện bèn lập miếu thờ. Người đương thời rất cảm kích trước tình anh em khăng khít, tình vợ chồng thắm thiết, thủy chung của anh em vợ chồng họ Cao nên thường đến đốt nhang, chiêm bái, cầu cúng.
Một hôm vua Hùng thứ tư nhân dịp tuần du qua đấy, thấy có miếu thờ, lại được dân sở tại kể cho nghe câu chuyện thương tâm kia thì vô cùng cảm động. Ngài bảo lấy trầu cau ăn thử mới khám phá ra một mùi vị thơm cay, nồng ấm, và khi nhổ nước cốt trầu xuống tảng đá vôi lại thấy hiện ra sắc đỏ tươi như máu, nhà vua cho là quý bèn truyền lấy giống về trồng, xa gần bắt chước làm theo. Ngài còn xuống lệnh cho thần dân từ nay sẽ nhất thiết dùng trầu cau trong các dịp cưới hỏi, và trong các buổi hội họp lớn, nhỏ. Tục ăn trầu ở nước ta có từ đó.
Trong dân gian vẫn truyền khẩu với nhau: “Miếng trầu ăn kết làm đôi/Lá trầu là vợ, cau tươi là chồng/Trầu xanh, cau trắng, chay hồng/Vôi pha với nghĩa, thuốc nồng với duyên...”. Với người con gái, cau trầu còn được coi là biểu tượng của sự tiếp đón danh giá. Vì vậy, trong đám hỏi, trong mâm lễ vật nhà trai mang sang cho nhà gái không thể thiếu cau, trầu. Sau lễ ăn hỏi, nhà gái thường dùng cau trầu, trà bánh nhà trai đã mang sang, chia ra từng gói nhỏ để làm quà biếu cho họ hàng, bè bạn, xóm giềng... như một lời loan báo rằng con gái trong nhà đã có nơi có chỗ.
Ngày nay
Hiện nay, cuộc sống hiện đại, phong tục cưới xin cũng có nhiều thay đổi nhưng cau trầu vẫn không thể thiếu.
Thông thường quả lễ gồm buồng cau và trầu đầy ắp, có thể từ vài chục đến vài trăm quả, nhưng phải là số chẵn, vì quan niệm có đôi có cặp. Cách tính số lượng cau trầu: 1 quả cau = 2 lá trầu. Quả lễ có thể là 100 cau, 80 cau. Ngoài ra, hiện nay mọi người đang chuộng buồng cau 105 quả theo cách nói “trăm năm hạnh phúc” hoặc chọn buồng cau 60 quả theo cách ví von “60 năm cuộc đời”.
Do hiện nay ít người còn ăn, và có khi không chia quà nhà trai cho họ hàng, bạn bè nên khay cau trầu mặc dù vẫn phải có nhưng mang tính ước lệ, chỉ cần 6 miếng trầu têm và quả cau bổ làm 6.
Theo tục lệ miền Bắc, trầu phải têm cánh phượng, lá trầu phải là loại trầu cay màu xanh dày lá, vôi dùng loại vôi Bắc màu trắng và thuốc thường dùng kèm là thuốc lào, và loại vỏ đỏ. Theo tục lệ miền Nam trầu têm kiểu bánh ú, lá trầu là loại trầu ngọt (thường dùng trầu Bà Điểm) đi với vôi đỏ, thuốc lá và vỏ giấy.
Muốn tự tay chuẩn bị cau, trầu cho đám hỏi, cưới bạn có thể ra chợ trầu cau Lê Quang Sung, quận 6, TP HCM để mua. Ở đây cung cấp cau xanh cả buồng được trang trí đẹp mắt với giấy hồng song hỷ, trầu xanh non quết sẵn vôi đỏ xếp thành xấp, rượu cưới, trà cưới đựng trong giấy kiếng hồng. Còn nếu không có thời gian, muốn tiện lợi bạn có thể chọn dịch vụ trọn gói.
Từ khóa » đám Cưới Trầu Cau
-
Ý Nghĩa Của Miếng, Miếng Cau Trong đám Cưới Người Việt
-
Ý Nghĩa Mâm Trầu Cau Trong Lễ Cưới Của Người Việt - Phi Điệp Wedding
-
Theo Phong Tục Thì Mâm Trầu Cau Bao Nhiêu Trái? - Phi Điệp Wedding
-
Ý Nghĩa Trầu Cau Trong Lễ Cưới Hỏi
-
Ý Nghĩa Trầu Cau Trong đám Cưới Người Việt
-
Tráp Trầu Cau Là Gì? Ý Nghĩa đặc Biệt Của Tráp Trầu Cau
-
Top #5 Cách Bày Mâm Trầu Cau Ăn Hỏi Đúng,Đủ, Chuẩn Nhất
-
Ý Nghĩa Trầu Cau Trong Lễ Cưới Hỏi - Công Ty Tổ Chức Sự Kiện Thúy An
-
Cách Bày Mâm Trầu Cau ăn Hỏi đúng Và ý Nghĩa Của Chúng
-
8 Món Sính Lễ Cưới Quan Trọng Nhà Trai Cần Chuẩn Bị Trong Ngày Cưới
-
Tại Sao Trong Lễ Cưới Hỏi Phải Có Trầu Cau?
-
59 Trầu Cau ý Tưởng | Quà Cưới, đám Cưới, Trâu - Pinterest
-
Ý Nghĩa Của Trầu, Cau Trong Lễ Cưới Người Việt