Truyện Kiều – Wikisource Tiếng Việt
- Văn kiện
- Thảo luận
- Đọc
- Sửa đổi
- Xem lịch sử
- Đọc
- Sửa đổi
- Xem lịch sử
- Các liên kết đến đây
- Thay đổi liên quan
- Tải lên tập tin
- Trang đặc biệt
- Liên kết thường trực
- Thông tin trang
- Trích dẫn văn kiện này
- Lấy URL ngắn gọn
- Tải mã QR
- Tải về bản in
- Tải về EPUB
- Tải về MOBI
- Tải về PDF
- Định dạng khác
- Wikimedia Commons
- Wikipedia
- Khoản mục Wikidata
- các dự án wiki khác: bài viết Wikipedia, thể loại Commons, mục Wikidata.
Truyện Kiều (tên gốc là Đoạn Trường Tân Thanh 斷腸新聲) là tác phẩm nổi tiếng nhất của đại thi hào Nguyễn Du, kiệt tác của văn học Việt Nam thời trung đại. Với Truyện Kiều, Nguyễn Du đã được tôn vinh là Danh nhân văn hóa thế giới.
Xem thêm các bản Nôm:bản Liễu Văn Đường 1866, bản Kinh Tự Đức 1870, bản Liễu Văn Đường 1871, bản Duy Minh Thị 1872, bản Kiều Oánh Mậu 1902 Bản truyện tiếng Hán: 金雲翹傳 7350Truyện KiềuTrăm năm trong cõi người ta, Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau. Trải qua một cuộc bể dâu, Những điều trông thấy mà đau đớn lòng. 5 Lạ gì bỉ sắc tư phong, Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen. Cảo thơm lần giở trước đèn, Phong tình có lục còn truyền sử xanh. Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh, 10 Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng. Có nhà viên ngoại họ Vương, Gia tư nghĩ cũng thường thường bực trung. Một trai con thứ rốt lòng, Vương Quan là chữ, nối dòng nho gia. 15 Đầu lòng hai ả tố nga, Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân. Mai cốt cách, tuyết tinh thần, Một người một vẻ, mười phân vẹn mười. Vân xem trang trọng khác vời, 20 Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang. Hoa cười ngọc thốt đoan trang, Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da. Kiều càng sắc sảo, mặn mà, So bề tài, sắc, lại là phần hơn. 25 Làn thu thủy, nét xuân sơn, Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh. Một, hai nghiêng nước nghiêng thành, Sắc đành đòi một, tài đành họa hai. Thông minh vốn sẵn tư trời, 30 Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm. Cung thương làu bậc ngũ âm, Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương. Khúc nhà tay lựa nên chương, Một thiên bạc mệnh, lại càng não nhân. 35 Phong lưu rất mực hồng quần, Xuân xanh sấp xỉ tới tuần cập kê Êm đềm trướng rủ màn che, Tường đông ong bướm đi về mặc ai. Ngày xuân con én đưa thoi, 40 Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi. Cỏ non xanh tận chân trời, Cành lê trắng điểm một vài bông hoa. Thanh minh trong tiết tháng ba, Lễ là tảo mộ, hội là đạp Thanh. 45 Gần xa nô nức yến anh, Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân. Dập dìu tài tử, giai nhân, Ngựa xe như nước áo quần như nêm. Ngổn ngang gò đống kéo lên, 50 Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay. Tà tà bóng ngả về tây, Chị em thơ thẩn dan tay ra về. Bước dần theo ngọn tiểu khê, Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh. 55 Nao nao dòng nước uốn quanh, Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang. Sè sè nấm đất bên đàng, Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh. Rằng: Sao trong tiết thanh minh, 60 Mà đây hương khói vắng tanh thế mà? Vương Quan mới dẫn gần xa: Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi. Nổi danh tài sắc một thì, Xôn xao ngoài cửa hiếm gì yến anh. 65 Kiếp hồng nhan có mong manh, Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương. Có người khách ở viễn phương, Xa nghe cũng nức tiếng nàng tìm chơi. Thuyền tình vừa ghé tới nơi, 70 Thì đà trâm gẫy bình rơi bao giờ. Buồng không lạnh ngắt như tờ, Dấu xe ngựa đã rêu lờ mờ xanh. Khóc than khôn xiết sự tình, Khéo vô duyên ấy là mình với ta. 75 Đã không duyên trước chăng mà, Thì chi chút ước gọi là duyên sau. Sắm xanh nếp tử xe trâu Vùi nông một nấm mặc dầu cỏ hoa. Trải bao thỏ lặn ác tà, 80 Ấy mồ vô chủ, ai mà viếng thăm! Lòng đâu sẵn mối thương tâm, Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa. Đau đớn thay phận đàn bà! Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung. 85 Phũ phàng chi bấy hóa công, Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha. Sống làm vợ khắp người ta, Khéo thay thác xuống làm ma không chồng. Nào người phượng chạ loan chung, 90 Nào người tích lục tham hồng là ai? Đã không kẻ đoái người hoài, Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương. Gọi là gặp gỡ giữa đường, Họa là người dưới suối vàng biết cho. 95 Lầm rầm khấn khứa nhỏ to, Sụp ngồi vài gật trước mồ bước ra. Một vùng cỏ áy bóng tà, Gió hiu hiu thổi một vài bông lau. Rút trâm sẵn giắt mái đầu, 100 Vạch da cây vịnh bốn câu ba vần. Lại càng mê mẩn tâm thần Lại càng đứng lặng tần ngần chẳng ra. Lại càng ủ dột nét hoa, Sầu tuôn đứt nối, châu sa vắn dài. 105 Vân rằng: Chị cũng nực cười, Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa. Rằng: Hồng nhan tự thuở xưa, Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu? Nỗi niềm tưởng đến mà đau, 110 Thấy người nằm đó biết sau thế nào? Quan rằng: Chị nói hay sao, Một lời là một vận vào khó nghe. Ở đây âm khí nặng nề, Bóng chiều đã ngả dậm về còn xa. 115 Kiều rằng: Những đấng tài hoa, Thác là thể phách, còn là tinh anh, Dễ hay tình lại gặp tình, Chờ xem ắt thấy hiển linh bây giờ. Một lời nói chửa kịp thưa, 120 Thoắt đâu trận gió cuốn cờ đến ngay. Ào ào đổ lộc rung cây, Ở trong dường có hương bay ít nhiều. Đè chừng ngọn gió lần theo, Dấu giày từng bước in rêu rành rành. 125 Mắt nhìn ai nấy đều kinh, Nàng rằng: Này thực tinh thành chẳng xa. Hữu tình ta lại gặp ta, Chớ nề u hiển mới là chị em. Đã lòng hiển hiện cho xem, 130 Tạ lòng nàng lại nối thêm vài lời. Lòng thơ lai láng bồi hồi, Gốc cây lại vạch một bài cổ thi. Dùng dằng nửa ở nửa về, Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần. 135 Trông chừng thấy một văn nhân, Lỏng buông tay khấu bước lần dặm băng. Đề huề lưng túi gió trăng, Sau chân theo một vài thằng con con. Tuyết in sắc ngựa câu giòn, 140 Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời. Nẻo xa mới tỏ mặt người, Khách đà xuống ngựa tới nơi tự tình. Hài văn lần bước dặm xanh, Một vùng như thể cây quỳnh cành dao. 145 Chàng Vương quen mặt ra chào, Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa. Nguyên người quanh quất đâu xa, Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh. Nền phú hậu, bậc tài danh, 150 Văn chương nết đất, thông minh tính trời. Phong tư tài mạo tót vời, Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa. Chung quanh vẫn đất nước nhà, Với Vương Quan trước vẫn là đồng thân. 155 Vẫn nghe thơm nức hương lân, Một nền đồng Tước khóa xuân hai Kiều. Nước non cách mấy buồng thêu, Những là trộm nhớ thầm yêu chốc mòng. May thay giải cấu tương phùng, 160 Gặp tuần đố lá thỏa lòng tìm hoa. Bóng hồng nhác thấy nẻo xa, Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai. Người quốc sắc, kẻ thiên tài, Tình trong như đã, mặt ngoài còn e. 165 Chập chờn cơn tỉnh cơn mê. Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về chỉn khôn. Bóng tà như giục cơn buồn, Khách đà lên ngựa, người còn nghé theo. Dưới cầu nước chảy trong veo, 170 Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha. Kiều từ trở gót trướng hoa, Mặt trời gác núi chiêng đà thu không. Gương nga chênh chếch dòm song, Vàng gieo ngấn nước, cây lồng bóng sân. 175 Hải đường lả ngọn đông lân, Giọt sương gieo nặng cành xuân la đà. Một mình lặng ngắm bóng nga, Rộn đường gần với nỗi xa bời bời: Người mà đến thế thì thôi, 180 Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi! Người đâu gặp gỡ làm chi, Trăm năm biết có duyên gì hay không? Ngổn ngang trăm mối bên lòng, Nên câu tuyệt diệu ngụ trong tính tình. 185 Chênh chênh bóng nguyệt xế mành, Tựa nương bên triện một mình thiu thiu. Thoắt đâu thấy một tiểu kiều, Có chiều thanh vận, có chiều thanh tân. Sương in mặt, tuyết pha thân, 190 Sen vàng lãng đãng như gần như xa. Chào mừng đón hỏi dò la: Đào nguyên lạc lối đâu mà đến đây? Thưa rằng: Thanh khí xưa nay, Mới cùng nhau lúc ban ngày đã quên. 195 Hàn gia ở mé tây thiên, Dưới dòng nước chảy bên trên có cầu. Mấy lòng hạ cố đến nhau, Mấy lời hạ tứ ném châu gieo vàng. Vâng trình hội chủ xem tường, 200 Mà sao trong sổ đoạn trường có tên. Âu đành quả kiếp nhân duyên, Cùng người một hội, một thuyền đâu xa! Này mười bài mới mới ra, Câu thần lại mượn bút hoa vẽ vời. 205 Kiều vâng lĩnh ý đề bài, Tay tiên một vẫy đủ mười khúc ngâm. Xem thơ nức nở khen thầm: Giá đành tú khẩu cẩm tâm khác thường Ví đem vào tập đoạn Trường 210 Thì treo giải nhất chi nhường cho ai. Thềm hoa khách đã trở hài, Nàng còn cầm lại một hai tự tình. Gió đâu xịch bức mành mành, Tỉnh ra mới biết rằng mình chiêm bao. 215 Trông theo nào thấy đâu nào Hương thừa dường hãy ra vào đâu đây. Một mình lưỡng lự canh chầy, Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh. Hoa trôi bèo dạt đã đành, 220 Biết duyên mình, biết phận mình thế thôi! Nỗi riêng lớp lớp sóng dồi, Nghĩ đòi cơn lại sụt sùi đòi cơn. Giọng Kiều rền rĩ trướng loan, Nhà Huyên chợt tỉnh hỏi: Cơn cớ gì? 225 Cớ sao trằn trọc canh khuya, Màu hoa lê hãy dầm dề giọt mưa? Thưa rằng: Chút phận ngây thơ, Dưỡng sinh đôi nợ tóc tơ chưa đền. Buổi ngày chơi mả Đạm Tiên, 230 Nhắp đi thoắt thấy ứng liền chiêm bao. Đoạn trường là số thế nào, Bài ra thế ấy, vịnh vào thế kia. Cứ trong mộng triệu mà suy, Phận con thôi có ra gì mai sau! 235 Dạy rằng: Mộng triệu cớ đâu, Bỗng không mua não chuốc sầu nghĩ nao. Vâng lời khuyên giải thấp cao, Chưa xong điều nghĩ đã dào mạch Tương. Ngoài song thỏ thẻ oanh vàng, 240 Nách tường bông liễu bay ngang trước mành. Hiên tà gác bóng chênh chênh, Nỗi riêng, riêng trạnh tấc riêng một mình. Cho hay là thói hữu tình, Đố ai gỡ mối tơ mành cho xong. 245 Chàng Kim từ lại thư song, Nỗi nàng canh cánh bên lòng biếng khuây. Sầu đong càng lắc càng đầy, Ba thu dồn lại một ngày dài ghê. Mây Tần khóa kín song the, 250 Bụi hồng lẽo đẽo đi về chiêm bao. Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao, Mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng. Buồng văn hơi giá như đồng, Trúc se ngọn thỏ, tơ chùng phím loan. 255 Mành Tương phất phất gió đàn, Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình. Vì chăng duyên nợ ba sinh, Thì chi đem thói khuynh thành trêu ngươi. Bâng khuâng nhớ cảnh, nhớ người, 260 Nhớ nơi kỳ ngộ vội dời chân đi. Một vùng cỏ mọc xanh rì, Nước ngâm trong vắt, thấy gì nữa đâu! Gió chiều như gợi cơn sầu, Vi lô hiu hắt như màu khảy trêu. 265 Nghề riêng nhớ ít tưởng nhiều, Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang. Thâm nghiêm kín cổng cao tường, Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh. Lơ thơ tơ liễu buông mành, 270 Con oanh học nói trên cành mỉa mai. Mấy lần cửa đóng then cài, Đầy thềm hoa rụng, biết người ở đâu? Tần ngần đứng suốt giờ lâu, Dạo quanh chợt thấy mái sau có nhà. 275 Là nhà Ngô Việt thương gia, Buồng không để đó người xa chưa về. Lấy điều du học hỏi thuê, Túi đàn cặp sách đề huề dọn sang. Có cây, có đá sẵn sàng, 280 Có hiên Lãm thúy, nét vàng chưa phai. Mừng thầm chốn ấy chữ bài, Ba sinh âu hẳn duyên trời chi đây. Song hồ nửa khép cánh mây, Tường đông ghé mắt ngày ngày hằng trông. 285 Tấc gang động khóa nguồn phong, Tịt mù nào thấy bóng hồng vào ra. Nhẫn từ quán khách lân la, Tuần trăng thấm thoắt nay đà thèm hai. Cách tường phải buổi êm trời, 290 Dưới đào dường có bóng người thướt tha. Buông cầm xốc áo vội ra, Hương còn thơm nức, người đà vắng tanh. Lần theo tường gấm dạo quanh, Trên đào nhác thấy một cành kim thoa. 295 Giơ tay với lấy về nhà: Này trong khuê các đâu mà đến đây? Ngẫm âu người ấy báu này, Chẳng duyên chưa dễ vào tay ai cầm! Liền tay ngắm nghía biếng nằm, 300 Hãy còn thoang thoảng hương trầm chưa phai. Tan sương đã thấy bóng người, Quanh tường ra ý tìm tòi ngẩn ngơ. Sinh đà có ý đợi chờ, Cách tường lên tiếng xa đưa ướm lòng: 305 Thoa này bắt được hư không, Biết đâu Hợp Phố mà mong châu về? Tiếng Kiều nghe lọt bên kia: Ơn lòng quân tử sá gì của rơi, Chiếc thoa nào của mấy mươi 310 Mà lòng trọng nghĩa khinh tài xiết bao!" Sinh rằng: "Lân lý ra vào, Gần đây nào phải người nào xa xôi, Rày nhờ được chút thơm rơi Kể đà thiểu não lòng người bấy nay! 315 Bấy lâu mới được một ngày, Dừng chân gạn chút niềm tây gọi là" Vội về thêm lấy của nhà, Khuyến vàng đôi chiếc, khăn là một vuông Thang mây qua bước ngọn tường, 320 Phải người hôm nọ rõ ràng chẳng như. Sượng sùng giữ ý rụt rè, Kẻ nhìn rõ mặt, người e cúi đầu Rằng: "Từ ngẫu nhỉ gặp nhau Thầm trông trộm nhớ bấy lâu đã chồn, 325 Xương mai tính đã rũ mòn Lần lừa ai biết hãy còn hôm nay! Vuông tròn nhờ cậy cung mây Trần trần một phận ấp cây đã liều! Tiện đây xin một đôi điều 330 Đài gương soi đến dấu bèo cho chăng?" Ngần ngừ nàng mới thưa rằng: Thói nhà băng tuyết, chất hằng phỉ phong Dù khi lá thắm chỉ hồng Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha 335 Nặng lòng xót liễu vì hoa Trẻ thơ đã biết đâu mà dám thưa!" Sinh rằng: Rày gió mai mưa, Ngày xuân đã dễ tình cờ mấy khi! Dù chăng xét tấm tình si, 340 Thiệt đây mà có ích gì cho ai? Chút chi gắn bó một hai, Cho đành rồi sẽ liệu bài mối manh, Khuôn thiên dù phụ tấc thành, Cũng liều bỏ quá xuân xanh một đời, 345 Lượng xuân dù quyết hẹp hòi Công đeo đuổi chẳng thiệt thòi lắm ru?" Lặng nghe lời nói như ru, Chiều xuân dễ khiến nét thu ngại ngùng Rằng: "Trong buổi mới lạ lùng, 350 Nể lòng có lẽ, cầm lòng cho đang? Đã lòng quân tử đa mang Một lời vâng tạc đá vàng thủy chung!" Được lời như cởi tấm lòng, Giở kim thoa với khăn hồng trao tay, 355 Rằng: "Trăm năm cũng từ đây, Của tin gọi một chút này làm ghi". Sẵn tay bả quạt hoa quỳ, Với cành thoa ấy tức thì đổi trao. Một lời gắn bó tất giao 360 Mé sau nhường có xôn xao tiếng người, Vội vàng lá rụng hoa rơi Chàng về viện sách, nàng dời lầu trang. Từ phen đá biết tuổi vàng, Tình càng thấm thía lòng càng ngẩn ngơ. 365 Sông Tương một dải nông sờ, Bên trông đầu nọ, bên chờ cuối kia Một tuồng tuyết chở sương che Tin xuân đâu dễ đi về cho năng Lần lần ngày gió đêm trăng 370 Thưa hồng rậm lục đã chừng xuân qua. Ngày vừa sinh nhật ngoại gia, Trên hai đường, dưới nữa là hai em, Tưng bừng sắm sửa áo xiêm, Biện dâng một lễ, xa đem tấc thành. 375 Nhà hương thanh vắng một mình Ngẫm cơ hội ngộ đã dành hôm nay. Thời trân thức thức sẵn bày, Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mé tường. Cách hoa sẽ dặng tiếng vàng, 380 Dưới hoa đã thấy có chàng đứng trông: Trách lòng hờ hững với lòng, Lửa hương chốc để lạnh lùng bấy lâu, Những là đắp nhớ đổi sầu, Tuyết sương nhuốm nửa mái đầu hoa râm". 385 Nàng rằng: "Gió bắt mưa cầm, Đã cam tệ với tri âm bấy chầy, Vắng nhà được buổi hôm nay, Lấy lòng gọi chút ra đây tạ lòng Lần theo núi giả đi vòng, 390 Cuối tường nhường có nẻo thông mới rào, Xắn tay mở khóa động đào, Rẽ mây trông tỏ lối vào Thiên Thai. Mặt nhìn mặt, càng thêm tươi, Bên lời vạn phúc, bên lời hàn huyên 395 Sánh vai về chốn tư hiên, Góp lời phong nguyệt, nặng nguyền non sông. Trên yên bút giá thi đồng, Đạm thanh một bức trang tùng treo trên. Phong sương được vẻ thiên nhiên, 400 Mặn khen nét bút càng nhìn càng tươi, Sinh rằng: "Phác họa vừa rồi, Phẩm đề xin một vài lời thêm hoa!" Tay tiên gió táp mưa sa Khoảng trên dừng bút thảo và bốn câu. 405 Khen: "Tài nhả ngọc, phun châu, Nàng Ban ả Tạ cũng đâu thế này! Kiếp tu xưa ví chưa dày, Phúc nào nhắc được giá này cho ngang! Nàng rằng: Trộm liếc dung quang, 410 Chẳng sân bội ngọc cũng phường kim môn. Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn, Khuôn xanh biết có vuông tròn mà hay? Nhớ từ năm hãy thơ ngây, Có người tướng sĩ đoán ngay một lời: 415 Anh hoa phát tiết ra ngoài, Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa. Trông người lại ngẫm đến ta, Một dầy một mỏng biết là có nên?' Sinh rằng: Giải cấu là duyên, 420 Xưa nay nhân định thắng nhiên cũng nhiều. Ví dù giải kết đến điều, Thì đem vàng đá mà liều với thân! Đủ điều trung khúc ân cần, Lòng xuân phơi phới chén xuân tàng tàng. 425 Ngày vui ngắn chẳng đầy gang, Trông ra ác đã ngậm gương non đoài. Vắng nhà chẳng tiện ngồi dai, Giã chàng nàng mới kíp dời song sa. Đến nhà vừa thấy tin nhà, 430 Hai thân còn dở tiệc hoa chưa về. Cửa ngoài vội rủ rèm the, Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình. Nhặt thưa gương giọi đầu cành, Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu. 435 Sinh vừa tựa án thiu thiu, Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê. Tiếng sen sẽ động giấc hòe, Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần. Bâng khuâng đỉnh Giáp non Thần, 440 Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng. Nàng rằng: Khoảng vắng đêm trường, Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa. Bây giờ rõ mặt đôi ta, Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao? 445 Vội mừng làm lễ rước vào, Đài sen nối sáp song đào thêm hương. Tiên thề cùng thảo một chương, Tóc mây một món dao vàng chia đôi. Vầng trăng vằng vặc giữa trời, 450 Đinh ninh hai mặt một lời song song. Tóc tơ căn vặn tấc lòng, Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương. Chén hà sánh giọng quỳnh tương, Dải là hương lộn bình gương bóng lồng. 455 Sinh rằng: Gió mát trăng trong, Bấy lâu nay một chút lòng chưa cam. Chày sương chưa nện cầu Lam, Sợ lần khân quá ra sàm sỡ chăng? Nàng rằng: Hồng diệp xích thằng, 460 Một lời cũng đã tiếng rằng tương tri. Đừng điều nguyệt nọ hoa kia. Ngoài ra ai lại tiếc gì với ai. Rằng: Nghe nổi tiếng cầm đài, Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ. 465 Thưa rằng: Tiện kỹ sá chi, Đã lòng dạy đến dạy thì phải vâng. Hiên sau treo sẵn cầm trăng, Vội vàng Sinh đã tay nâng ngang mày. Nàng rằng: Nghề mọn riêng tay, 470 Làm chi cho bận lòng này lắm thân! So dần dây vũ dây văn, Bốn dây to nhỏ theo vần cung thương. Khúc đâu Hán Sở chiến trường, Nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau. 475 Khúc đâu Tư mã Phượng cầu, Nghe ra như oán như sầu phải chăng! Kê Khang này khúc Quảng lăng, Một rằng lưu thủy hai rằng hành vân. Qua quan này khúc Chiêu Quân, 480 Nửa phần luyến chúa nửa phần tư gia. Trong như tiếng hạc bay qua, Đục như tiếng suối mới sa nửa vời. Tiếng khoan như gió thoảng ngoài, Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa. 485 Ngọn đèn khi tỏ khi mờ, Khiến người ngồi đó cũng ngơ ngẩn sầu. Khi tựa gối khi cúi đầu, Khi vò chín khúc khi chau đôi mày. Rằng: Hay thì thật là hay, 490 Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào! Lựa chi những bậc tiêu tao, Dột lòng mình cũng nao nao lòng người? Rằng: Quen mất nết đi rồi, Tẻ vui thôi cũng tính trời biết sao! 495 Lời vàng âm lĩnh ý cao, Họa dần dần bớt chút nào được không. Hoa hương càng tỏ thức hồng, Đầu mày cuối mắt càng nồng tấm yêu. Sóng tình dường đã xiêu xiêu, 500 Xem trong âu yếm có chiều lả lơi. Thưa rằng: đừng lấy làm chơi, Dẽ cho thưa hết một lời đã nao! Vẻ chi một đóa yêu đào, Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh. 505 Đã cho vào bậc bố kinh, Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầụ Ra tuồng trên Bộc trong dâu, Thì con người ấy ai cầu làm chi! Phải điều ăn xổi ở thì, 510 Tiết trăm năm nỡ bỏ đi một ngày! Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay, Lứa đôi ai đẹp lại tày Thôi Trương. Mây mưa đánh đổ đá vàng, Quá chiều nên đã chán chường yến anh. 515 Trong khi chắp cánh liền cành, Mà lòng rẻ rúng đã dành một bên. Mái tây để lạnh hương nguyền, Cho duyên đằm thắm ra duyên bẽ bàng. Gieo thoi trước chẳng giữ giàng, 520 Để sau nên thẹn cùng chàng bởi ai? Vội chi liễu ép hoa nài, Còn thân ắt lại đền bồi có khi! Thấy lời đoan chính dễ nghe, Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân. 525 Bóng tàu vừa lạt vẻ ngân, Tin đâu đã thấy cửa ngăn gọi vào. Nàng thì vội trở buồng thêu, Sinh thì dạo gót sân đào bước ra. Cửa sài vừa ngỏ then hoa, 530 Gia đồng vào gởi thư nhà mới sang. Đem tin thúc phụ từ đường, Bơ vơ lữ thấn tha hương đề huề. Liêu dương cách trở sơn khê, Xuân đường kíp gọi sinh về hộ tang. 535 Mảng tin xiết nỗi kinh hoàng, Băng mình lẻn trước đài trang tự tình. Gót đầu mọi nỗi đinh ninh, Nỗi nhà tang tóc nỗi mình xa xôi: Sự đâu chưa kịp đôi hồi, 540 Duyên đâu chưa kịp một lời trao tơ, Trăng thề còn đó trơ trơ, Dám xa xôi mặt mà thưa thớt lòng. Ngoài nghìn dặm chốc ba đông, Mối sầu khi gỡ cho xong còn chầy! 545 Gìn vàng giữ ngọc cho hay, Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời. Tai nghe ruột rối bời bời, Ngập ngừng nàng mới giãi lời trước sau: Ông tơ ghét bỏ chi nhau, 550 Chưa vui sum họp đã sầu chia phôi! Cùng nhau trót đã nặng lời, Dẫu thay mái tóc dám dời lòng tơ! Quản bao tháng đợi năm chờ, Nghĩ người ăn gió nằm mưa xót thầm. 555 Đã nguyền hai chữ đồng tâm, Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai. Còn non còn nước còn dài, Còn về còn nhớ đến người hôm nay! Dùng dằng chưa nỡ rời tay, 560 Vầng đông trông đã đứng ngay nóc nhà. Ngại ngùng một bước một xa, Một lời trân trọng châu sa mấy hàng. Buộc yên quảy gánh vội vàng, Mối sầu xẻ nửa bước đường chia hai. 565 Buồn trông phong cảnh quê người, Đầu cành quyên nhặt cuối trời nhạn thưa. Não người cữ gió tuần mưa, Một ngày nặng gánh tương tư một ngày. Nàng còn đứng tựa hiên tây, 570 Chín hồi vấn vít như vầy mối tơ. Trông chừng khói ngất song thưa, Hoa trôi trác thắm, liễu xơ xác vàng. Tần ngần dạo gót lầu trang, Một đoàn mừng thọ ngoại hương mới về, 575 Hàn huyên chưa kịp giãi dề, Sai nha bỗng thấy bốn bề xôn xao. Người nách thước, kẻ tay đao; Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi. Già giang một lão một trai, 580 Một dây vô lại buộc hai thâm tình. Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh, Rụng rời khung dệt, tan tành gói may. Đồ tế nhuyễn, của riêng tây, Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham. 585 Điều đâu bay buộc ai làm? Này ai đan dậm, giật giàm bỗng dưng? Hỏi ra sau mới biết rằng: Phải tên xưng xuất là thằng bán tơ. Một nhà hoảng hốt ngẩn ngơ, 590 Tiếng oan dậy đất, án ngờ lòa mây. Hạ từ van lạy suốt ngày, Điếc tai lân tuất, phũ tay tồi tàn. Rường cao rút ngược dây oan, Dẫu là đá cũng nát gan, lọ người. 595 Mặt trông đau đớn rụng rời, Oan này còn một kêu trời, nhưng xa. Một ngày lạ thói sai nha, Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền. Sao cho cốt nhục vẹn tuyền, 600 Trong khi ngộ biến tòng quyền biết sao? Duyên hội ngộ, đức cù lao, Bên tình bên hiếu, bên nào nặng hơn? Để lời thệ hải minh sơn, Làm con trước phải đền ơn sinh thành. 605 Quyết tình nàng mới hạ tình: Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha! Họ Chung có kẻ lại già, Cũng trong nha dịch lại là từ tâm. Thấy nàng hiếu trọng tình thâm, 610 Vì nàng nghĩ cũng thương thầm xót vay. Tính bài lót đó luồn đây, Có ba trăm lạng việc này mới xuôi. Hãy về tạm phó giam ngoài, Dặn nàng quy liệu trong đôi ba ngày. 615 Thương tình con trẻ thơ ngây, Gặp cơn vạ gió tai bay bất kỳ! Đau lòng tử biệt sinh ly, Thân còn chẳng tiếc, tiếc gì đến duyên! Hạt mưa sá nghĩ phận hèn, 620 Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân. Sự lòng ngỏ với băng nhân, Tin sương đồn đại xa gần xôn xao. Gần miền có một mụ nào, Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh. 625 Hỏi tên rằng: Mã Giám Sinh. Hỏi quê, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần. Quá niên trạc ngoại tứ tuần, Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao. Trước thầy sau tớ lao xao 630 Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang. Ghế trên ngồi tót sỗ sàng, Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra. Nỗi mình thêm tức nỗi nhà, Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng! 635 Ngại ngùng giợn gió e sương, Nhìn hoa bóng thẹn, trông gương mặt dày. Mối càng vén tóc bắt tay, Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai. Đắn đo cân sắc cân tài, 640 Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ. Mặn nồng một vẻ một ưa, Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu. Rằng: Mua ngọc đến Lam Kiều, Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường? 645 Mối rằng: đáng giá nghìn vàng, Gấp nhà nhờ lượng người thương dám nài. Cò kè bớt một thêm hai, Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm. Một lời thuyền đã êm dằm 650 Hãy đưa canh thiếp trước cầm làm ghi. Định ngày nạp thái vu quy, Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong! Một lời cậy với Chung công, Khất từ tạm lĩnh Vương ông về nhà. 655 Thương tình con trẻ cha già, Nhìn nàng ông những máu sa ruột dàu: Nuôi con những ước về sau, Trao tơ phải lứa, gieo cầu đáng nơi. Trời làm chi cực bấy trời, 660 Này ai vu thác cho người hợp tan! Búa rìu bao quản thân tàn, Nỡ đầy đọa trẻ, càng oan khốc già. Một lần sau trước cũng là, Thôi thì mặt khuất chẳng thà lòng đau! 665 Theo lời càng chảy dòng châu, Liều mình ông rắp gieo đầu tường vôi. Vội vàng kẻ giữ người coi, Nhỏ to nàng lại tìm lời khuyên can: Vẻ chi một mảnh hồng nhan, 670 Tóc tơ chưa chút đền ơn sinh thành. Dâng thư đã thẹn nàng Oanh, Lại thua ả Lý bán mình hay sao? Cỗi xuân tuổi hạc càng cao, Một cây gánh vác biết bao nhiêu cành. 675 Lòng tơ dù chẳng dứt tình, Gió mưa âu hẳn tan tành nưóc non. Thà rằng liều một thân con, Hoa dù rã cánh, lá còn xanh cây. Phận sao đành vậy cũng vầy, 680 Cầm như chẳng đậu những ngày còn xanh. Cũng đừng tính quẩn lo quanh, Tan nhà là một thiệt mình là hai. Phải lời ông cũng êm tai, Nhìn nhau giọt vắn giọt dài ngổn ngang. 685 Mái ngoài họ Mã vừa sang, Tờ hoa đã ký, cân vàng mới trao. Trăng già độc địa làm sao? Cầm dây chẳng lựa buộc vào tự nhiên. Trong tay đã sẵn đồng tiền, 690 Dầu lòng đổi trắng thay đen khó gì! Họ Chung ra sức giúp vì, Lễ tâm đã đặt, tụng kỳ cũng xong. Việc nhà đã tạm thong dong, Tinh kỳ giục giã đã mong độ về. 695 Một mình nàng ngọn đèn khuya, Áo dầm giọt lệ, tóc xe mối sầu. Phận dầu, dầu vậy cũng dầu, Xót lòng đeo đẳng bấy lâu một lời! Công trình kể biết mấy mươi. 700 Vì ta khăng khít, cho người dở dang. Thề hoa chưa ráo chén vàng, Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa. Trời Liêu non nước bao xa. Nghĩ đâu rẽ cửa chia nhà tự tôi. 705 Biết bao duyên nợ thề bồi. Kiếp này thôi thế thì thôi còn gì. Tái sinh chưa dứt hương thề. Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai. Nợ tình chưa trả cho ai, 710 Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan. Nỗi riêng riêng những bàng hoàng, Dầu chong trắng đĩa lệ tràn thấm khăn. Thúy Vân chợt tỉnh giấc xuân, Dưới đèn ghé đến ân cần hỏi han: 715 Cơ trời dâu bể đa đoan, Một nhà để chị riêng oan một mình, Cớ chi ngồi nhẫn tàn canh? Nỗi riêng còn mắc mối tình chi đây? Rằng: Lòng đương thổn thức đầy, 720 Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong. Hở môi ra cũng thẹn thùng, Để lòng thì phụ tấm lòng với ai. Cậy em, em có chịu lời, Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa. 725 Giữa đường đứt gánh tương tư, Loan giao chắp mối tơ thừa mặc em. Kể từ khi gặp chàng Kim, Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề. Sự đâu sóng gió bất kỳ, 730 Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai! Ngày xuân em hãy còn dài, Xót tình máu mủ, thay lời nước non. Chị dù thịt nát xương mòn, Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây. 735 Chiếc thoa với bức tờ mây, Duyên này thì giữ vật này của chung. Dù em nên vợ nên chồng, Xót người mệnh bạc, ắt lòng chẳng quên. Mất người còn chút của tin, 740 Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa. Mai sao dầu có bao giờ. Đốt lò hương ấy, so tơ phím này. Trông ra ngọn cỏ lá cây, Thấy hiu hiu gió thì hay chị về. 745 Hồn còn mang nặng lời thề, Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai; Dạ đài cách mặt khuất lời, Rẩy xin chén nước cho người thác oan. Bây giờ trâm gẫy bình tan, 750 Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân. Trăm nghìn gửi lại tình quân, Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi. Phận sao phận bạc như vôi, Đã đành nước chẩy hoa trôi lỡ làng. 755 Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây! Cạn lời hồn ngất máu say, Một hơi lặng ngắt đôi tay giá đồng. Xuân Huyên chợt tỉnh giất nồng, 760 Một nhà tấp nập, kẻ trong người ngoài. Kẻ thang người thuốc bời bời, Mới dằn cơn vựng, chưa phai giọt hồng. Hỏi: Sao ra sự lạ lùng? Kiều càng nức nở mở không ra lời. 765 Nỗi nàng Vân mới rỉ tai, Chiếc thoa này với tờ bồi ở đây.. Này cha làm lỗi duyên mày, Thôi thì nỗi ấy sau này đã em. Vì ai rụng cải rơi kim, 770 Để con bèo nổi mây chìm vì ai. Lời con dặn lại một hai, Dẫu mòn bia đá, dám sai tấc vàng. Lậy thôi, nàng lại thưa chiềng, Nhờ cha trả được nghĩa chàng cho xuôi. 775 Sá chi thân phận tôi đòi, Dẫu rằng xương trắng quê người quản đâu. Xiết bao kể nỗi thảm sầu! Khắc canh đã giục nam lâu mấy hồi. Kiệu hoa đâu đã đến ngoài, 780 Quản huyền đâu đã giục người sinh ly. Đau lòng kẻ ở người đi, Lệ rơi thấm đá tơ chia rũ tằm. Trời hôm mây kéo tối rầm, Rầu rầu ngọn cỏ đầm đầm cành sương. 785 Rước nàng về đến trú phường, Bốn bề xuân khóa một nàng ở trong. Ngập ngừng thẹn lục e hồng, Nghĩ lòng lại xót xa lòng đòi phen. Phẩm tiên rơi đến tay hèn, 790 Hoài công nắng giữ mưa gìn với ai: Biết thân đến bước lạc loài, Nhị đào thà bẻ cho người tình chung. Vì ai ngăn đón gió đông, Thiệt lòng khi ở đau lòng khi đi. 795 Trùng phùng dầu họa có khi, Thân này thôi có còn gì mà mong. Đã sinh ra số long đong, Còn mang lấy kiếp má hồng được sao? Trên yên sẵn có con dao, 800 Giấu cầm nàng đã gói vào chéo khăn: Phòng khi nước đã đến chân, Dao này thì liệu với thân sau này. Đêm thu một khắc một chầy, Bâng khuâng như tỉnh như say một mình. 805 Chẳng ngờ gã Mã Giám Sinh, Vẫn là một đứa phong tình đã quen. Quá chơi lại gặp hồi đen, Quen mùi lại kiếm ăn miền nguyệt hoa. Lầu xanh có mụ Tú Bà, 810 Làng chơi đã trở về già hết duyên. Tình cờ chẳng hẹn mà nên, Mạt cưa mướp đắng đôi bên một phường. Chung lưng mở một ngôi hàng, Quanh năm buôn phấn bán hương đã lề. 815 Dạo tìm khắp chợ thì quê, Giả danh hầu hạ dạy nghề ăn chơi. Rủi may âu cũng tại trời, Đoạn trường lại chọn mặt người vô duyên. Xót nàng chút phận thuyền quyên, 820 Cành hoa đem bán vào thuyền lái buôn. Mẹo lừa đã mắc vào khuôn, Sính nghi rẻ giá nghênh hôn sẵn ngày. Mừng thầm: Cờ đã đến tay! Càng nhìn vẻ ngọc càng say khúc vàng. 825 Đã nên quốc sắc thiên hương, Một cười này hẳn nghìn vàng chẳng ngoa. Về đây nước trước bẻ hoa, Vương tôn quý khách ắt là đua nhau. Hẳn ba trăm lạng kém đâu, 830 Cũng đà vừa vốn còn sau thì lời, Miếng ngon kề dến tận nơi, Vốn nhà cũng tiếc của trời cũng tham. Đào tiên đã bén tay phàm, Thì vin cành quýt cho cam sự đời! 835 Dưới trần mấy mặt làng chơi, Chơi hoa đã dễ mấy người biết hoa. Nước vỏ lựu máu mào gà, Mượn màu chiêu tập lại là còn nguyên. Mập mờ đánh lận con đen, 840 Bao nhiêu cũng bấy nhiêu tiền mất chi? Mụ già hoặc có điều gì, Liều công mất một buổi quỳ mà thôi. Vả đây đường xá xa xôi, Mà ta bất động nữa người sinh nghi. 845 Tiếc thay một đóa trà mi, Con ong đã tỏ đường đi lối về. Một cơn mưa gió nặng nề, Thương gì đến ngọc tiếc gì đến hương. Đêm xuân một giấc mơ màng, 850 Đuốc hoa để đó, mặc nàng nằm trơ. Giọt riêng tầm tã tuôn mưa, Phần căm nỗi khách phần dơ nỗi mình: Tuồng chi là giống hôi tanh, Thân nghìn vàng để ô danh má hồng. 855 Thôi còn chi nữa mà mong? Đời người thôi thế là xong một đời. Giận duyên tủi phận bời bời, Cầm dao nàng đã toan bài quyên sinh. Nghĩ đi nghĩ lại một mình: 860 Một mình thì chớ hai tình thì sao? Sao dầu sinh sự thế nào, Truy nguyên chẳng kẻo lụy vào song thân. Nỗi mình âu cũng giãn dần, Kíp chầy thôi cũng một lần mà thôi. 865 Những là đo đắn ngược xuôi, Tiếng gà nghe đã gáy sôi mái tường. Lầu mai vừa rúc còi sương, Mã Sinh giục giã vội vàng ra đi. Đoạn trường thay lúc phân kỳ! 870 Vó câu khấp khểnh bóng xe gập ghềnh. Bề ngoài mười dặm trường đình, Vương ông mở tiệc tiễn hành đưa theo. Ngoài thì chủ khách dập dìu, Một nhà huyên với một Kiều ở trong. 875 Nhìn càng lã chã giọt hồng, Rỉ tai nàng mới giãi lòng thấp cao: Hổ sinh ra phận thơ đào, Công cha nghĩa mẹ kiếp nào trả xong? Lỡ làng nước đục bụi trong, 880 Trăm năm để một tấm lòng từ đây. Xem gương trong bấy nhiêu ngày, Thân con chẳng kẻo mắc tay bợm già! Khi về bỏ vắng trong nhà, Khi vào dùng dắng khi ra vội vàng. 885 Khi ăn khi nói lỡ làng, Khi thầy khi tớ xem thường xem khinh. Khác màu kẻ quý người thanh, Ngẫm ra cho kỹ như hình con buôn. Thôi con còn nói chi con? 890 Sống nhờ đất khách thác chôn quê người! Vương bà nghe bấy nhiêu lời, Tiếng oan đã muốn vạch trời kêu lên. Vài tuần chưa cạn chén khuyên. Mái ngoài nghỉ đã giục liền ruổi xe. 895 Xót con lòng nặng trì trì, Trước yên ông đã nằn nì thấp cao: Chút thân yếu liễu tơ đào, Rớp nhà đến nỗi giấn vào tôi ngươi. Từ đây góc bể bên trời, 900 Nắng mưa thui thủi quê người một thân. Nghìn tầm nhờ bóng tùng quân, Tuyết sương che chở cho thân cát đằng. Cạn lời khách mới thưa rằng: Buộc chân thôi cũng xích thằng nhiệm trao. 905 Mai sau dầu dến thế nào, Kìa gương nhật nguyệt nọ dao quỷ thần! Đùng dùng gió giục mây vần, Một xe trong cõi hồng trần như bay. Trông vời gạt lệ chia tay, 910 Góc trời thăm thẳm đêm ngày đăm đăm. Nàng thì dặm khách xa xăm, Bạc phau cầu giá đen rầm ngàn mây. Vi lô san sát hơi may, Một trời thu để riêng ai một người. 915 Dặm khuya ngất tạnh mù khơi, Thấy trăng mà thẹn những lời non sông. Rừng thu từng biếc xen hồng, Nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn. Những là lạ nước lạ non, 920 Lâm Truy vừa một tháng tròn tới nơi. Xe châu dừng bánh cửa ngoài, Rèm trong đã thấy một người bước ra. Thoắt trông nhờn nhợt màu da, Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao! 925 Trước xe lơi lả han chào, Vâng lời nàng mới bước vào tận nơi. Bên thì mấy ả mày ngài, Bên thì ngồi bốn năm người làng chơi. Giữa thì hương án hẳn hoi, 930 Trên treo một tượng trắng đôi lông mày. Lầu xanh quen lối xưa nay, Nghề này thì lấy ông này tiên sư, Hương hôm hoa sớm phụng thờ. Cô nào xấu vía có thưa mối hàng, 935 Cởi xiêm lột áo sỗ sàng, Trước thần sẽ nguyện mảnh hương lầm rầm. Đổi hoa lót xuống chiếu nằm, Bướm hoa bay lại ầm ầm tứ vi! Kiều còn ngơ ngẩn biết gì, 940 Cứ lời lạy xuống mụ thì khấn ngay: Cửa hàng buôn bán cho may, Đêm đêm Hàn thực ngày ngày Nguyên tiêu. Muôn nghìn người thấy cũng yêu, Xôn xao oanh yến rập rìu trúc mai. 945 Tin nhạn vẩn lá thư bài, Đưa người cửa trước rước người cửa sau. Lạ tai nghe chửa biết đâu, Xem tình ra cũng những màu dở dang. Lễ xong hương hỏa gia đường, 950 Tú Bà vắt nóc lên giường ngồi ngay. Dạy rằng: Con lạy mẹ đây, Lạy rồi sang lạy cậu mày bên kia. Nàng rằng: Phải bước lưu ly, Phận hèn vâng đã cam bề tiểu tinh. 955 Điều đâu lấy yến làm oanh, Ngây thơ chẳng biết là danh phận gì? Đủ điều nạp thái vu quy, Đã khi chung chạ lại khi đứng ngồi. Giờ ra thay mặt đổi ngôi, 960 Dám xin gửi lại một lời cho minh. Mụ nghe nàng nói hay tình, Bấy giờ mới nổi tam bành mụ lên: Này này sự đã quả nhiên, Thôi đà cướp sống chồng min đi rồi. 965 Bảo rằng đi dạo lấy người, Đem về rước khách kiếm lời mà ăn. Tuồng vô nghĩa ở bất nhân, Buồn mình trước đã tần mần thử chơi. Màu hồ đã mất đi rồi, 970 Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma! Con kia đã bán cho ta, Nhập ra phải cứ phép nhà tao đây. Lão kia có giở bài bây, Chẳng văng vào mặt mà mày lại nghe. 975 Cớ sao chịu tốt một bề, Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao? Phải làm cho biết phép tao! Chập bì tiên rắp sấn vào ra tay. Nàng rằng: Trời thẳm đất dày! 980 Thân này đã bỏ những ngày ra đi. Thôi thì thôi có tiếc gì! Sẵn dao tay áo tức thì giở ra. Sợ gan nát ngọc liều hoa! Mụ còn trông mặt nàng đà quá tay. 985 Thương ôi tài sắc bậc này, Một dao oan nghiệt đứt dây phong trần. Nỗi oan vỡ lở xa gần, Trong nhà người chật một lần như nêm. Nàng thì bằn bặt giấc tiên, 990 Mụ thì cầm cập mặt nhìn hồn bay. Vực nàng vào chốn hiên tây, Cắt người coi sóc chạy thầy thuốc thang. Nào hay chưa hết trần duyên, Trong mê dường đã đứng bên một nàng. 995 Rỉ rằng: Nhân quả dở dang, Đã toan trốn nợ đoạn trường được sao? Số còn nặng nợ má đào, Người dầu muốn quyết trời nào đã cho. Hãy xin hết kiếp liễu bồ, 1000 Sông Tiền Đường sẽ hẹn hò về sau. Thuốc thang suốt một ngày thâu, Giấc mê nghe đã dàu dàu vừa tan. Tú Bà chực sẵn bên màn, Lựa lời khuyên giải mơn man gỡ dần: 1005 Một người dễ có mấy thân! Hoa xuân đương nhụy, ngày xuân còn dài. Cũng là lỡ một lầm hai, Đá vàng sao nỡ ép nài mưa mây! Lỡ chưn trót đã vào đây, 1010 Khóa buồng xuân để đợi ngày đào non. Người còn thì của hãy còn, Tìm nơi xứng đáng là con cái nhà. Làm chi tội báo oán gia, Thiệt mình mà hại đến ta hay gì? 1015 Kề tai mấy mỗi nằn nì, Nàng nghe dường cũng thị phi rạch ròi. Vả suy thần mộng mấy lời, Túc nhân âu cũng có trời ở trong. Kiếp này nợ trả chưa xong, 1020 Làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau! Lặng nghe, thấm thía gót đầu, Thưa rằng: Ai có muốn đâu thế này? Được như lời, thế là may, Hẳn rằng mai có như rày cho chăng! 1025 Sợ khi ong bướm đãi đằng, Đến điều sống đục, sao bằng thác trong! Mụ rằng: Con hãy thong dong, Phải điều lòng lại dối lòng mà chơi! Mai sau ở chẳng như lời, 1030 Trên đầu có bóng mặt trời rạng soi. Thấy lời quyết đoán hẳn hoi, Đành lòng, nàng cũng sẽ nguôi nguôi dần. Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân, Vẻ non xa, tấm trăng gần, ở chung. 1035 Bốn bề bát ngát xa trông, Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia. Bẽ bàng mây sớm đèn khuya, Nửa tình, nửa cảnh như chia tấm lòng. Tưởng người dưới nguyệt chén đồng, 1040 Tin sương luống những rày trông mai chờ. Bên trời góc bể bơ vơ, Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. Xót người tựa cửa hôm mai, Quạt nồng ấp lạnh, những ai đó giờ? 1045 Sân Lai cách mấy nắng mưa, Có khi gốc tử đã vừa người ôm? Buồn trông cửa bể chiều hôm, Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? Buồn trông ngọn nước mới sa, 1050 Hoa trôi man mác, biết là về đâu? Buồn trông nội cỏ dàu dàu, Chân mây mặt đất một màu xanh xanh. Buồn trông gió cuốn mặt ghềnh Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồị 1055 Chung quanh những nước non người, Đau lòng lưu lạc, nên vài bốn câu. Ngậm ngùi rủ bước rèm châu, Cách tường, nghe có tiếng đâu họa vần. Một chàng vừa trạc thanh xuân, 1060 Hình dong chải chuốt, áo khăn dịu dàng. Nghĩ rằng cũng mạch thư hương, Hỏi ra mới biết rằng chàng Sở Khanh. Bóng Nga thấp thoáng dưới mành, Trông nàng, chàng cũng ra tình đeo đai. 1065 Than ôi! sắc nước hương trời, Tiếc cho đâu bỗng lạc loài đến đây? Giá đành trong nguyệt trên mây, Hoa sao, hoa khéo đọa đày bấy hoa? Tức gan riêng giận trời già, 1070 Lòng này ai tỏ cho ta, hỡi lòng? Thuyền quyên ví biết anh hùng, Ra tay tháo cũi, sổ lồng như chơi! Song thu đã khép cánh ngoài, Tai còn đồng vọng mấy lời sắt đanh. 1075 Nghĩ người thôi lại nghĩ mình, Cám lòng chua xót, nhạt tình chơ vơ. Những là lần lữa nắng mưa, Kiếp phong trần biết bao giờ mới thôi? Đánh liều nhắn một hai lời, 1080 Nhờ tay tế độ vớt người trầm luân. Mảnh tiên kể hết xa gần, Nỗi nhà báo đáp, nỗi thân lạc loài. Tan sương vừa rạng ngày mai, Tiện hồng nàng mới nhắn lời gửi sang. 1085 Trời tây lãng đãng bóng vàng, Phúc thư đã thấy tin chàng đến nơi. Mở xem một bức tiên mai, Rành rành tích việt có hai chữ đề. Lấy trong ý tứ mà suy: 1090 Ngày hai mươi mốt, tuất thì phải chăng? Chim hôm thoi thót về rừng, Đóa trà mi đã ngậm trăng nửa vành. Tường đông lay động bóng cành, Rẽ song, đã thấy Sở Khanh lẻn vào. 1095 Sượng sùng đánh dạn ra chào, Lạy thôi, nàng mới rỉ tai ân cần. Rằng: Tôi bèo bọt chút thân, Lạc đàn mang lấy nợ nần yến anh. Dám nhờ cốt nhục tử sinh, 1100 Còn nhiều kết cỏ ngậm vành về sau! Lặng nghe, lẩm nhẩm gật đầu: Ta đây phải mượn ai đâu mà rằng! Nàng đà biết đến ta chăng, Bể trầm luân, lấp cho bằng mới thôi! 1105 Nàng rằng: Muôn sự ơn người, Thế nào xin quyết một bài cho xong. Rằng: Ta có ngựa truy phong, Có tên dưới trướng, vốn dòng kiện nhi. Thừa cơ lẻn bước ra đi, 1110 Ba mươi sáu chước, chước gì là hơn. Dù khi gió kép, mưa đơn, Có ta đây cũng chẳng cơn cớ gì! Nghe lời nàng đã sinh nghi, Song đà quá đỗi, quản gì được thân. 1115 Cũng liều nhắm mắt đưa chân, Mà xem con Tạo xoay vần đến đâu! Cùng nhau lẻn bước xuống lầu, Song song ngựa trước, ngựa sau một đoàn. Đêm thâu khắc lậu canh tàn, 1120 Gió cây trút lá, trăng ngàn ngậm gương. Lối mòn cỏ nhợt mù sương, Lòng quê đi một bước đường, một đau. Tiếng gà xao xác gáy mau, Tiếng người đâu đã mái sau dậy dàng. 1125 Nàng càng thổn thức gan vàng, Sở Khanh đã rẽ dây cương lối nào! Một mình khôn biết làm sao, Dặm rừng bước thấp, bước cao hãi hùng. Hóa nhi thật có nỡ lòng, 1130 Làm chi dày tía, vò hồng, lắm nau! Một đoàn đổ đến trước sau, Vuốt đâu xuống đất, cánh đâu lên trời. Tú Bà tốc thẳng đến nơi, Hầm hầm áp điệu một hơi lại nhà. 1135 Hung hăng chẳng nói chẳng tra, Đang tay vùi liễu, giập hoa tơi bời. Thịt da ai cũng là người, Lòng nào hồng rụng, thắm rời chẳng đau. Hết lời thú phục, khẩn cầu, 1140 Uốn lưng thịt đổ, cất đầu máu sa. Rằng: Tôi chút phận đàn bà, Nước non lìa cửa, lìa nhà, đến đây. Bây giờ sống chết ở tay, Thân này đã đến thế này thì thôi! 1145 Nhưng tôi có sá chi tôi, Phận tôi đành vậy, vốn người để đâu? Thân lươn bao quản lấm đầu, Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa! Được lời mụ mới tùy cơ, 1150 Bắt người bảo lĩnh làm tờ cung chiêu. Bày vai có ả Mã Kiều, Xót nàng, ra mới đánh liều chịu đoan. Mụ càng kể nhặt, kể khoan, Gạn gùng đến mực, nồng nàn mới tha. 1155 Vực nàng vào nghỉ trong nhà, Mã Kiều lại ngỏ ý ra dặn lời: Thôi đà mắc lận thì thôi! Đi đâu chẳng biết con người Sở Khanh? Bạc tình, nổi tiếng lầu xanh, 1160 Một tay chôn biết mấy cành phù dung! Đà đào lập sẵn chước dùng, Lạ gì một cốt một đồng xưa nay! Có ba mươi lạng trao tay, Không dưng chi có chuyện này, trò kia! 1165 Rồi ra trở mặt tức thì, Bớt lời, liệu chớ sân si, thiệt đời! Nàng rằng: Thề thốt nặng lời, Có đâu mà lại ra người hiểm sâu! Còn đương suy trước, nghĩ sau, 1170 Mặt mo đã thấy ở đâu dẫn vào. Sở Khanh lên tiếng rêu rao: Rằng nghe mới có con nào ở đây. Phao cho quyến gió rủ mây, Hãy xem có biết mặt này là aỉ 1175 Nàng rằng: Thôi thế thì thôi! Rằng không, thì cũng vâng lời là không! Sở Khanh quắt mắng đùng đùng, Sấn vào, vừa rắp thị hùng ra tay, Nàng rằng: Trời nhé có hay! 1180 Quyến anh, rủ yến, sự này tại ai? Đem người giẩy xuống giếng khơi, Nói rồi, rồi lại ăn lời được ngay! Còn tiên tích việt ở tay, Rõ ràng mặt ấy, mặt này chứ ai? 1185 Lời ngay, đông mặt trong ngoài, Kẻ chê bất nghĩa, người cười vô lương! Phụ tình án đã rõ ràng, Dơ tuồng, nghỉ mới kiếm đường tháo lui. Buồng riêng, riêng những sụt sùi: 1190 Nghĩ thân, mà lại ngậm ngùi cho thân. Tiếc thay trong giá trắng ngần, Đến phong trần, cũng phong trần như ai! Tẻ vui cũng một kiếp người, Hồng nhan phải giống ở đời mãi ru! 1195 Kiếp xưa đã vụng đường tu, Kiếp này chẳng kẻo đền bù mới xuôi! Dù sao bình đã vỡ rồi, Lấy thân mà trả nợ đời cho xong! Vừa tuần nguyệt sáng, gương trong, 1200 Tú Bà ghé lại thong dong dặn dò: Nghề chơi cũng lắm công phu, Làng chơi ta phải biết cho đủ điều. Nàng rằng: Mưa gió dập dìu, Liều thân, thì cũng phải liều thế thôi! 1205 Mụ rằng: Ai cũng như ai, Người ta ai mất tiền hoài đến đây? Ở trong còn lắm điều hay, Nỗi đêm khép mở, nỗi ngày riêng chung. Này con thuộc lấy nằm lòng, 1210 Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề. Chơi cho liễu chán, hoa chê, Cho lăn lóc đá, cho mê mẩn đời. Khi khóe hạnh, khi nét ngài, Khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười cợt hoa. 1215 Điều là nghề nghiệp trong nhà, Đủ ngần ấy nết, mới là người soi. Gót đầu vâng dạy mấy lời, Dường chau nét nguyệt, dường phai vẻ hồng. Những nghe nói, đã thẹn thùng, 1220 Nước đời lắm nỗi lạ lùng, khắt khe! Xót mình cửa các, buồng khuê, Vỡ lòng, học lấy những nghề nghiệp hay! Khéo là mặt dạn, mày dày, Kiếp người đã đến thế này thì thôi! 1225 Thương thay thân phận lạc loài, Dẫu sao cũng ở tay người biết sao? Lầu xanh, mới rủ trướng đào, Càng treo giá ngọc, càng cao phẩm người. Biết bao bướm lả, ong lơi, 1230 Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm. Dập dìu lá gió, cành chim, Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh. Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh, Giật mình, mình lại thương mình xót xa. 1235 Khi sao phong gấm rủ là, Giờ sao tan tác như hoa giữa đường? Mặt sao dày gió dạn sương, Thân sao bướm chán, ong chường bấy thân? Mặt người mưa Sở, mây Tần, 1240 Những mình nào biết có xuân là gì! Đôi phen gió tựa, hoa kề, Nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu. Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu, Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ! 1245 Đòi phen nét vẽ, câu thơ, Cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới hoa, Vui là vui gượng kẻo mà, Ai tri âm đó, mặn mà với ai? Thờ ơ gió trúc, mưa mai, 1250 Ngẩn ngơ trăm nỗi, giùi mài một thân. Ôm lòng đòi đoạn xa gần, Chẳng vò mà rối, chẳng dần mà đau! Nhớ ơn chín chữ cao sâu, Một ngày một ngả bóng dâu tà tà. 1255 Dặm ngàn, nước thẳm, non xa, Nghĩ đâu thân phận con ra thế này! Sân hòe đôi chút thơ ngây Trân cam, ai kẻ đỡ thay việc mình? Nhớ lời nguyện ước ba sinh, 1260 Xa xôi ai có thấu tình chăng ai? Khi về hỏi liễu Chương đài, Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay. Tình sâu mong trả nghĩa dày, Hoa kia đã chắp cành này cho chưa? 1265 Mối tình đòi đoạn vò tơ, Giấc hương quan luống lần mơ canh dài. Song sa vò võ phương trời, Nay hoàng hôn, đã lại mai hôn hoàng. Lần lần thỏ bạc ác vàng, 1270 Xót người trong hội đoạn tràng đòi cơn! Đã cho lấy chữ hồng nhan, Làm cho, cho hại, cho tàn, cho cân! Đã đày vào kiếp phong trần, Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi! 1275 Khách du bỗng có một người, Kỳ Tâm họ Thúc cũng nòi thư hương. Vốn người huyện Tích châu Thường, Theo nghiêm đường mở ngôi hàng Lâm tri. Hoa khôi mộ tiếng Kiều nhi, 1280 Thiếp hồng tìm đến hương khuê gửi vào. Trướng tô giáp mặt hoa đào, Vẻ nào chẳng mặn nét nào chăng ưa? Hải đường mơn mởn cành tơ, Ngày xuân càng gió càng mưa càng nồng. 1285 Nguyệt hoa hoa nguyệt não nùng, Đêm xuân ai dễ cầm lòng được chăng? Lạ gì thanh khí lẽ hằng, Một dây một buộc ai giằng cho ra. Sớm đào tối mận lân la, 1290 Trước còn trăng gió sau ra đá vàng. Dịp đâu may mắn lạ dường, Lại vừa gặp khoảng xuân đường lại quê. Sinh càng một tỉnh mười mê, Ngày xuân lắm lúc đi về với xuân. 1295 Khi gió gác khi trăng sân, Bầu tiên chuốc rượu câu thần nối thơ. Khi hương sớm khi trà trưa, Bàn vây điểm nước đường tơ họa đàn. Miệt mài trong cuộc truy hoan, 1300 Càng quen thuộc nết càng dan díu tình. Lạ cho cái sóng khuynh thành, Làm cho đổ quán xiêu đình như chơi. Thúc Sinh quen thói bốc rời, Trăm nghìn đổ một trận cười như không. 1305 Mụ càng tô lục chuốt hồng, Máu tham hễ thấy hơi đồng thì mê. Dưới trăng quyên đã gọi hè, Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông. Buồng the phải buổi thong dong, 1310 Thang lan rủ bức trướng hồng tẩm hoa. Rõ màu trong ngọc trắng ngà! Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên. Sinh càng tỏ nét càng khen, Ngụ tình tay thảo một thiên luật đường. 1315 Nàng rằng: Vâng biết ý chàng. Lời lời châu ngọc hàng hàng gấm thêu. Hay hèn lẽ cũng nối điêu, Nỗi quê nghĩ một hai điều ngang ngang. Lòng còn gửi áng mây Vàng. 1320 Họa vần xin hãy chịu chàng hôm nay. Rằng: Sao nói lạ lùng thay! Cành kia chẳng phải cỗi này mà ra? Nàng càng ủ đột thu ba, Đoạn trường lúc ấy nghĩ mà buồn tênh: 1325 Thiếp như hoa đã lìa cành, Chàng như con bướm lượn vành mà chơi. Chúa xuân đành đã có nơi, Vắn ngày thôi chớ dài lời làm chi. Sinh răng: Từ thuở tương tri, 1330 Tấm riêng riêng những nặng vì nước non. Trăm năm tính cuộc vuông tròn, Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông. Nàng rằng: Muôn đội ơn lòng. Chút e bên thú bên tòng dễ đâu. 1335 Bình Khang nấn ná bấy lâu, Yêu hoa yêu được một màu điểm trang. Rồi ra lạt phấn phai hương, Lòng kia giữ được thường thường mãi chăng? Vả trong thềm quế cung trăng, 1340 Chủ trương đành đã chị Hằng ở trong. Bấy lâu khăng khít dải đồng, Thêm người người cũng chia lòng riêng tây. Vẻ chi chút phận bèo mây, Làm cho bể ái khi đầy khi vơi. 1345 Trăm điều ngang ngửa vì tôi, Thân sau ai chịu tội trời ấy cho? Như chàng có vững tay co, Mười phần cũng đắp điếm cho một vài. Thế trong dầu lớn hơn ngoài, 1350 Trươc hàm sư tử gửi người đằng la. Cúi đầu luồn xuống mái nhà, Giấm chua lại tội băng ba lửa nồng. Ở trên còn có nhà thông, Lượng trên trong xuống biết lòng có thương? 1355 Sá chi liễu ngõ hoa tường? Lầu xanh lại bỏ ra phường lầu xanh. Lại càng dơ dáng dại hình, Đành thân phận thiếp ngại danh giá chàng. Thương sao cho vẹn thì thương. 1360 Tính sao cho vẹn mọi đường xin vâng. Sinh rằng: Hay nói đè chừng! Lòng đây lòng đấy chưa từng hay sao Đường xa chớ ngại Ngô Lào, Trăm điều hãy cứ trông vào một ta. 1365 Đã gần chi có điều xa? Đá vàng đã quyết phong ba cũng liều. Cùng nhau căn vặn đến điều, Chỉ non thề bể nặng gieo đến lời. Nỉ non đêm ngắn tình dài, 1370 Ngoài hiên thỏ đã non đoài ngậm gương. Mượn điều trúc viện thừa lương, Rước về hãy tạm giấu nàng một nơi. Chiến hòa sắp sẵn hai bài, Cậy tay thầy thợ mượn người dò la. 1375 Bắn tin đến mặt Tú Bà, Thua cơ mụ cũng cầu hòa dám sao. Rõ ràng của dẫn tay trao, Hoàn lương một thiếp thân vào cửa công. Công tư đôi lẽ đều xong, 1380 Gót tiên phút đã thoát vòng trần ai. Một nhà sum họp trúc mai, Càng sâu nghĩa bể càng dài tình sông. Hương càng đượm lửa càng nồng, Càng sôi vẻ ngọc càng lồng màu sen. 1385 Nửa năm hơi tiếng vừa quen, Sân ngô cành biếc đã chen lá vàng. Giậu thu vừa nảy giò sương, Gối yên đã thấy xuân đường đến nơi. Phong lôi nổi trận bời bời, 1390 Nặng lòng e ấp tính bài phân chia. Quyết ngay biện bạch một bề, Dạy cho má phấn lại về lầu xanh. Thấy lời nghiêm huấn rành rành, Đánh liều sinh mới lấy tình nài kêu. 1395 Rằng: Con biết tội đã nhiều, Đẫu rằng sấm sét búa rìu cũng cam. Trót vì tay đã nhúng chàm, Dại rồi còn biết khôn làm sao đây. Cùng nhau vả tiếng một ngày, 1400 Ôm cầm ai nỡ dứt dây cho đành. Lượng trên quyết chẳng thương tình, Bạc đen thôi có tiếc mình làm chi. Thấy lời sắt đá tri tri, Sốt gan ông mới cáo quỳ cửa công. 1405 Đất bằng nổi sóng đùng đùng, Phủ đường sai lá phiếu hồng thôi tra. Cùng nhau theo gót sai nha, Song song vào trước sân hoa lạy quỳ. Trông lên mặt sắt đen sì, 1410 Lập nghiêm trước đã ra uy nặng lời: Gã kia dại nết chơi bời, Mà con người thế là người đong đưa. Tuồng chi hoa thải hương thừa, Mượn màu son phấn đánh lừa con đen. 1415 Suy trong tình trạng nguyên đơn, Bề nào thì cũng chưa yên bề nào. Phép công chiếu án luận vào. Có hai đường ấy muốn sao mặc mình. Một là cứ phép gia hình, 1420 Một là lại cứ lầu xanh phó về. Nàng rằng: đã quyết một bề! Nhện này vương lấy tơ kia mấy lần. Đục trong thân cũng là thân. Yếu thơ vâng chịu trước sân lôi đình! 1425 Dạy rằng: Cứ phép gia hình! Ba cây chập lại một cành mẫu đơn. Phận đành chi dám kêu oan, Đào hoen quẹn má liễu tan tác mày. Một sân lầm cát đã đầy, 1430 Gương lờ nước thủy mai gầy vóc sương. Nghĩ tình chàng Thúc mà thương, Nẻo xa trông thấy lòng càng xót xa. Khóc rằng: Oan khốc vì ta! Có nghe lời trước chẳng đà lụy sau. 1435 Cạn lòng chẳng biết nghĩ sâu. Để ai trăng tủi hoa sầu vì ai. Phủ đường nghe thoảng vào tai, Động lòng lại gạn đến lời riêng tây. Sụt sùi chàng mới thưa ngay, 1440 Đầu đuôi kể lại sự ngày cầu thân: Nàng đà tính hết xa gần, Từ xưa nàng đã biết thân có rày. Tại tôi hứng lấy một tay, Để nàng cho đến nỗi này vì tôi. 1445 Nghe lời nói cũng thương lời, Dẹp uy mới dạy cho bài giải vi. Rằng: Như hẳn có thế thì Trăng hoa song cũng thị phi biết điều. Sinh rằng: Chút phận bọt bèo, 1450 Theo đòi vả cũng ít nhiều bút nghiên. Cười rằng: đã thế thì nên! Mộc già hãy thử một thiên trình nghề. Nàng vâng cất bút tay đề, Tiên hoa trình trước án phê xem tường. 1455 Khen rằng: Giá đáng Thịnh đường! Tài này sắc ấy nghìn vàng chưa cân! Thật là tài tử giai nhân, Châu Trần còn có Châu Trần nào hơn? Thôi đừng rước dữ cưu hờn, 1460 Làm chi lỡ nhịp cho đòn ngang cung. Đã đưa đến trước cửa công, Ngoài thì là lý song trong là tình. Dâu con trong đạo gia đình, Thôi thì dẹp nỗi bất bình là xong. 1465 Kíp truyền sắm sửa lễ công, Kiệu hoa cất gió đuốc hồng điểm sao. Bày hàng cổ xúy xôn xao, Song song đưa tới trướng đào sánh đôi. Thương vì hạnh trọng vì tài, 1470 Thúc ông thôi cũng dẹp lời phong ba. Huệ lan sực nức một nhà, Từng cay đắng lại mặn mà hơn xưa. Mảng vui rượu sớm cờ trưa, Đào đà phai thắm sen vừa nẩy xanh. 1475 Trướng hồ vắng vẻ đêm thanh, E tình nàng mới bày tình riêng chung: Phận bồ từ vẹn chữ tòng, Đổi thay nhạn yến đã hòng đầy niên. Tin nhà ngày một vắng tin, 1480 Mặn tình cát lũy lạt tình tào khang. Nghĩ ra thật cũng nên đường, Tăm hơi ai dễ giữ giàng cho ta? Trộm nghe kẻ lớn trong nhà, Ở vào khuôn phép nói ra mối đường. 1485 E thay những dạ phi thường, Dễ dò rốn bể khôn lường đáy sông! Mà ta suốt một năm ròng, Thế nào cũng chẳng giấu xong được nàọ Bấy chầy chưa tỏ tiêu hao, 1490 Hoặc là trong có làm sao chăng là? Xin chàng kíp liệu lại nhà, Trước người đẹp ý sau ta biết tình. Đêm ngày giữ mức giấu quanh, Rày lần mai lữa như hình chưa thông. 1495 Nghe lời khuyên nhủ thong dong, Đành lòng sinh mới quyết lòng hồi trang. Rạng ra gửi đến xuân đường, Thúc ông cũng vội giục chàng ninh gia. Tiễn đưa một chén quan hà, 1500 Xuân đình thoắt đã dạo ra cao đình. Sông Tần một dải xanh xanh, Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương quan. Cầm tay dài ngắn thở than, Chia phôi ngừng chén hợp tan nghẹn lời. 1505 Nàng rằng: Non nước xa khơi, Sao cho trong ấm thì ngoài mới êm. Dễ lòa yếm thắm trôn kim, Làm chi bưng mắt bắt chim khó lòng! Đôi ta chút nghĩa đèo bòng, 1510 Đến nhà trước liệu nói sòng cho minh. Dù khi sóng gió bất tình, Lớn ra uy lớn tôi đành phận tôi. Hơn điều giấu ngược giấu xuôi. Lại mang những việc tày trời đến sau. 1515 Thương nhau xin nhớ lời nhau, Năm chầy cũng chẳng đi đâu mà chầy. Chén đưa nhớ bữa hôm nay, Chén mừng xin đợi ngày này năm sau! Người lên ngựa kẻ chia bào, 1520 Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san. Dặm hồng bụi cuốn chinh an, Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh. Người về chiếc bóng năm canh, Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi. 1525 Vầng trăng ai xẻ làm đôi, Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường. Kể chi những nỗi dọc đường, Buồn trong này nỗi chủ trương ở nhà: Vốn dòng họ Hoạn danh gia, 1530 Con quan Lại bộ tên là Hoạn Thư. Duyên đằng thuận nẻo gió đưa, Cùng chàng kết tóc xe tơ những ngày. Ở ăn thì nết cũng hay, Nói điều ràng buộc thì tay cũng già. 1535 Từ nghe vườn mới thêm hoa, Miệng người đã lắm tin nhà thì không. Lửa tâm càng dập càng nồng, Trách người đen bạc ra lòng trăng hoa: Ví bằng thú thật cùng ta, 1540 Cũng dung kẻ dưới mới là lượng trên. Dại chi chẳng giữ lấy nền, Tốt chi mà rước tiếng ghen vào mình? Lại còn bưng bít giấu quanh, Làm chi những thói trẻ ranh nực cười! 1545 Tính rằng cách mặt khuất lời, Giấu ta ta cũng liệu bài giấu cho! Lo gì việc ấy mà lo, Kiến trong miệng chén có bò đi đâu? Làm cho nhìn chẳng được nhau, 1550 Làm cho đầy đọa cất đầu chẳng lên! Làm cho trông thấy nhãn tiền, Cho người thăm ván bán thuyền biết tay. Nỗi lòng kín chẳng ai hay, Ngoài tai để mặc gió bay mái ngoài. 1555 Tuần sau bỗng thấy hai người, Mách tin ý cũng liệu bài tâng công. Tiểu thư nổi giận đùng đùng: Gớm tay thêu dệt ra lòng trêu ngươi! Chồng tao nào phải như ai, 1560 Điều này hẳn miệng những người thị phi! Vội vàng xuống lệnh ra uy, Đứa thì vả miệng đứa thì bẻ răng. Trong ngoài kín mít như bưng. Nào ai còn dám nói năng một lời! 1565 Buồng đào khuya sớm thảnh thơi, Ra vào một mực nói cười như không. Đêm ngày lòng những dặn lòng, Sinh đà về đến lầu hồng xuống yên. Lời tan hợp nỗi hàn huyên, 1570 Chữ tình càng mặn chữ duyên càng nồng. Tẩy trần vui chén thong dong, Nỗi lòng ai ở trong lòng mà ra. Chàng về xem ý tứ nhà, Sự mình cũng rắp lân la giãi bày. 1575 Mấy phen cười nói tỉnh say, Tóc tơ bất động mảy may sự tình. Nghĩ đà bưng kín miệng bình, Nào ai có khảo mà mình đã xưng? Những là e ấp dùng dằng, 1580 Rút dây sợ nữa động rừng lại thôi. Có khi vui chuyện mua cười, Tiểu thư lại giở những lời đâu đâu. Rằng: Trong ngọc đá vàng thau, Mười phần ta đã tin nhau cả mười. 1585 Khen cho những chuyện dông dài, Bướm ong lại đặt những lời nọ kia. Thiếp dù bụng chẳng hay suy, Đã dơ bụng nghĩ lại bia miệng cười! Thấy lời thủng thỉnh như chơi, 1590 Thuận lời chàng cũng nói xuôi đỡ đòn. Những là cười phấn cợt son, Đèn khuya chung bóng trăng tròn sánh vai. Thú quê thuần hức bén mùi, Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô. 1595 Chạnh niềm nhớ cảnh giang hồ, Một màu quan tái mấy mùa gió trăng. Tình riêng chưa dám rỉ răng, Tiểu thư trước đã liệu chừng nhủ qua: Cách năm mây bạc xa xa, 1600 Lâm Tri cũng phải tính mà thần hôn. Được lời như cởi tấc son, Vó câu chẳng ruổi nước non quê người. Long lanh đáy nước in trời, Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng. 1605 Roi câu vừa gióng dặm trường, Xe hương nàng cũng thuận đường quy ninh. Thưa nhà huyên hết mọi tình, Nỗi chàng ở bạc nỗi mình chịu đen. Nghĩ rằng: Ngứa ghẻ hờn ghen, 1610 Xấu chàng mà có ai khen chi mình! Vậy nên ngảnh mặt làm thinh, Mưu cao vốn đã rắp ranh những ngày. Lâm Tri đường bộ tháng chầy, Mà đường hải đạo sang ngay thì gần. 1615 Dọn thuyền lựa mặt gia nhân, Hãy đem dây xích buộc chân nàng về. Làm cho cho mệt cho mê, Làm cho đau đớn ê chề cho coi! Trước cho bõ ghét những người, 1620 Sau cho để một trò cười về sau. Phu nhân khen chước rất mầu, Chiều con mới dạy mặc dầu ra tay. Sửa sang buồm gió lèo mây, Khuyển ưng lại chọn một bầy côn quang. 1625 Dặn dò hết các mọi đường, Thuận phong một lá vượt sang bến Tề. Nàng từ chiếc bóng song the, Đường kia nỗi nọ như chia mối sầu. Bóng đâu đã xế ngang đầu, 1630 Biết đâu ấm lạnh biết đâu ngọt bùi. Tóc thề đã chấm ngang vai, Nào lời non nước nào lời sắt son. Sắn bìm chút phận cỏn con, Khuôn duyên biết có vuông tròn cho chăng? 1635 Thân sao nhiều nỗi bất bằng, Liều như cung Quảng ả Hằng nghĩ nao! Đêm thu gió lọt song đào, Nửa vành trăng khuyết ba sao giữa trời. Nén hương đến trước Phật đài, 1640 Nỗi lòng khấn chửa cạn lời vân vân. Dưới hoa dậy lũ ác nhân, Ầm ầm khốc quỷ kinh thần mọc ra. Đầy sân gươm tuốt sáng lòa, Thất kinh nàng chửa biết là làm sao. 1645 Thuốc mê đâu đã rưới vào, Mơ màng như giấc chiêm bao biết gì. Vực ngay lên ngựa tức thì, Phòng đào viện sách bốn bề lửa dong. Sẵn thây vô chủ bên sông, 1650 Đem vào để đó lộn sòng ai hay? Tôi đòi phách lạc hồn bay, Pha càn bụi cỏ gốc cây ẩn mình. Thúc ông nhà cũng gần quanh, Chợt trông ngọn lửa thất kinh rụng rời. 1655 Tớ thầy chạy thẳng đến nơi, Tơi bời tưới lửa tìm người lao xao. Gió cao ngọn lửa càng cao, Tôi đòi tìm đủ nàng nào thấy đâu! Hớt hơ hớt hải nhìn nhau, 1660 Giếng sâu bụi rậm trước sau tìm quàng. Chạy vào chốn cũ phòng hương, Trong tro thấy một đống xương cháy tàn. Tình ngay ai biết mưu gian, Hẳn nàng thôi lại còn bàn rằng ai! 1665 Thúc ông sùi sụt ngắn dài, Nghĩ con vắng vẻ thương người nết na. Di hài nhặt gói về nhà, Nào là khâm liệm nào là tang trai. Lễ thường đã đủ một hai, 1670 Lục trình chàng cũng đến nơi bấy giờ. Bước vào chốn cũ lầu thơ, Tro than một đống nắng mưa bốn tường. Sang nhà cha tới trung đường, Linh sàng bài vị thờ nàng ở trên. 1675 Hỡi ôi nói hết sự duyên, Tơ tình đứt ruột lửa phiền cháy gan! Gieo mình vật vã khóc than: Con người thế ấy thác oan thế này. Chắc rằng mai trúc lại vầy, 1680 Ai hay vĩnh quyết là ngày đưa nhau! Thương càng nghĩ nghĩ càng đau, Dễ ai lấp thảm quạt sầu cho khuây. Gần miền nghe có một thầy, Phi phù trí quỷ cao tay thông huyền. 1685 Trên tam đảo dưới cửu tuyền, Tìm đâu thì cũng biết tin rõ ràng. Sắm sanh lễ vật rước sang, Xin tìm cho thấy mặt nàng hỏi han. Đạo nhân phục trước tĩnh đàn, 1690 Xuất thần giây phút chưa tàn nén hương. Trở về minh bạch nói tường: Mặt nàng chẳng thấy việc nàng đã tra. Người này nặng kiếp oan gia, Còn nhiều nợ lắm sao đà thoát cho! 1695 Mệnh cung đang mắc nạn to, Một năm nữa mới thăm dò được tin. Hai bên giáp mặt chiền chiền, Muốn nhìn mà chẳng dám nhìn lạ thay! Điều đâu nói lạ dường này, 1700 Sự nàng đã thế lời thầy dám tin! Chẳng qua đồng cốt quàng xiên, Người đâu mà lại thấy trên cõi trần? Tiếc hoa những ngậm ngùi xuân, Thân này dễ lại mấy lần gặp tiên. 1705 Nước trôi hoa rụng đã yên, Hay đâu địa ngục ở miền nhân gian. Khuyển ưng đã đắt mưu gian, Vực nàng đưa xuống để an dưới thuyền. Buồm cao lèo thẳng cánh suyền, 1710 Đè chừng huyện Tích băng miền vượt sang. Dỡ đò lên trước sảnh đường, Khuyển ưng hai đứa nộp nàng dâng công. Vực nàng tạm xuống môn phòng, Hãy còn thiêm thiếp giấc nồng chưa phai. 1715 Hoàng lương chợt tỉnh hồn mai, Cửa nhà đâu mất lâu đài nào đây? Bàng hoàng giở tỉnh giở say, Sảnh đường mảng tiếng đòi ngay lên hầu. A hoàn trên dưới giục mau, 1720 Hãi hùng nàng mới theo sau một người. Ngước trông tòa rộng dãy dài, Thiên Quan Trủng Tể có bài treo trên. Ban ngày sáp thắp hai bên, Giữa giường thất bảo ngồi trên một bà. 1725 Gạn gùng ngọn hỏi ngành tra, Sự mình nàng phải cứ mà gửi thưa. Bất tình nổi trận mây mưa, Mắng rằng: Những giống bơ thờ quên thân! Con này chẳng phải thiện nhân, 1730 Chẳng phường trốn chúa thì quân lộn chồng. Ra tuồng mèo mả gà đồng, Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào. Đã đem mình bán cửa tao, Lại còn khủng khỉnh làm cao thế này. 1735 Nào là gia pháp nọ bay! Hãy cho ba chục biết tay một lần. A hoàn trên dưới dạ ran, Dẫu rằng trăm miệng không phân lẽ nào. Trúc côn ra sức đập vào, 1740 Thịt nào chẳng nát gan nào chẳng kinh. Xót thay đào lý một cành, Một phen mưa gió tan tành một phen. Hoa nô truyền dạy đổi tên, Buồng the dạy ép vào phiên thị tì. 1745 Ra vào theo lũ thanh y, Dãi dầu tóc rối da chì quản bao. Quản gia có một mụ nào, Thấy người thấy nết ra vào mà thương. Khi chè chén khi thuốc thang, 1750 Đem lời phương tiện mở đường hiếu sinh. Dạy rằng: May rủi đã đành, Liểu bồ mình giữ lấy mình cho hay. Cũng là oan nghiệp chi đây, Sa cơ mới đến thế này chẳng dưng. 1755 Ở đây tai vách mạch rừng, Thấy ai người cũ cũng đừng nhìn chi. Kẻo khi sấm sét bất kỳ, Con ong cái kiến kêu gì được oan? Nàng càng giọt ngọc như chan, 1760 Nỗi lòng luống những bàng hoàng niềm tây: Phong trần kiếp chịu đã đầy, Lầm than lại có thứ này bằng hai. Phận sao bạc chẳng vừa thôi, Khăng khăng buộc mãi lấy người hồng nhan. 1765 Đã đành túc trái tiền oan, Cũng liều ngọc nát hoa tàn mà chi. Những là nương náu qua thì, Tiểu thư phải buổi mới về ninh gia. Mẹ con trò chuyện lân la, 1770 Phu nhân mới gọi nàng ra dạy lời: Tiểu thư dưới trướng thiếu người, Cho về bên ấy theo đòi lầu trang. Lãnh lời nàng mới theo sang, Biết đâu địa ngục thiên đàng là đâu. 1775 Sớm khuya khăn mắt lược đầu, Phận con hầu giữ con hầu dám sai. Phải đêm êm ả chiều trời, Trúc tơ hỏi đến nghề chơi mọi ngày. Lĩnh lời nàng mới lựa dây, 1780 Nỉ non thánh thót dễ say lòng người. Tiểu thư xem cũng thương tài, Khuôn uy dường cũng bớt vài bốn phân. Cửa người đày đọa chút thân, Sớm ngơ ngẩn bóng đêm năn nỉ lòng. 1785 Lâm Tri chút nghĩa đèo bồng, Nước bèo để chữ tương phùng kiếp sau. Bốn phương mây trắng một màu, Trông vời cố quốc biết đâu là nhà. Lần lần tháng trọn ngày qua, 1790 Nỗi gần nào biết đường xa thế này. Lâm Tri từ thuở uyên bay, Buồng không thương kẻ tháng ngày chiếc thân. Mày ai trăng mới in ngần, Phần thừa hương cũ bội phần xót xa. 1795 Sen tàn cúc lại nở hoa, Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân. Tìm đâu cho thấy cố nhân? Lấy câu vận mệnh khuây dần nhớ thương. Chạnh niềm nhớ cảnh gia hương, 1800 Nhớ quê chàng lại tìm đường thăm quê. Tiểu thư đón cửa giãi giề, Hàn huyên vừa cạn mọi bề gần xa. Nhà hương cao cuốn bức là, Buồng trong truyền gọi nàng ra lạy mừng. 1805 Bước ra một bước một dừng, Trông xa nàng đã tỏ chừng nẻo xa: Phải chăng nắng quáng đèn lòa, Rõ ràng ngồi đó chẳng là Thúc Sinh? Bây giờ tình mới rõ tình, 1810 Thôi thôi đã mắc vào vành chẳng sai. Chước đâu có chước lạ đời? Người đâu mà lại có người tinh ma? Rõ ràng thật lứa đôi ta, Làm ra con ở chúa nhà đôi nơi. 1815 Bề ngoài thơn thớt nói cười, Mà trong nham hiểm giết người không dao. Bây giờ đất thấp trời cao, Ăn làm sao nói làm sao bây giờ? Càng trông mặt càng ngẩn ngơ, 1820 Ruột tằm đòi đoạn như tơ rối bời. Sợ uy dám chẳng vâng lời, Cúi đầu nép xuống sân mai một chiều. Sinh đà phách lạc hồn siêu: Thương ơi chẳng phải nàng Kiều ở đây? 1825 Nhân làm sao đến thế này? Thôi thôi ta đã mắc tay ai rồi! Sợ quen dám hở ra lời, Không ngăn giọt ngọc sụt sùi nhỏ sa. Tiểu thư trông mặt hỏi tra: 1830 Mới về có việc chi mà động dong? Sinh rằng hiếu phục vừa xong, Suy lòng trắc dĩ đau lòng chung thiên. Khen rằng: Hiếu tử đã nên! Tẩy trần mượn chén giải phiền đêm thu. 1835 Vợ chồng chén tạc chén thù, Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi. Bắt khoan bắt nhặt đến lời, Bắt quỳ tận mặt bắt mời tận tay. Sinh càng như dại như ngây, 1840 Giọt dài giọt ngắn chén đầy chén vơi. Ngảnh đi chợt nói chợt cười, Cáo say chàng đã giạm bài lảng ra. Tiểu thư vội thét: Con Hoa! Khuyên chàng chẳng cạn thì ta có đòn. 1845 Sinh càng nát ruột tan hồn, Chén mời phải ngậm bồ hòn ráo ngay. Tiểu thư cười nói tỉnh say, Chưa xong cuộc rượu lại bày trò chơi. Rằng: Hoa nô đủ mọi tài, 1850 Bản đàn thử dạo một bài chàng nghe. Nàng đà tán hoán tê mê, Vâng lời ra trước bình the vặn đàn. Bốn dây như khóc như than, Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng. 1855 Cùng chung một tiếng tơ đồng, Người ngoài cười nụ người trong khóc thầm. Giọt châu lã chã khôn cầm, Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt Tương. Tiểu thư lại thét lấy nàng: 1860 Cuộc vui gảy khúc đoạn trường ấy chi? Sao chẳng biết ý tứ gì? Cho chàng buồn bã tội thì tại ngươi. Sinh càng thảm thiết bồi hồi, Vội vàng gượng nói gượng cười cho qua. 1865 Giọt rồng canh đã điểm ba, Tiểu thư nhìn mặt dường đà can tâm. Lòng riêng khấp khởi mừng thầm: Vui này đã bõ đau ngầm xưa nay. Sinh thì gan héo ruột đầy, 1870 Nỗi lòng càng nghĩ càng cay đắng lòng. Người vào chung gối loan phòng, Nàng ra tựa bóng đèn chong canh dài: Bây giờ mới rõ tăm hơi, Máu ghen đâu có lạ đời nhà ghen! 1875 Chước đâu rẽ thúy chia uyên, Ai ra đường nấy ai nhìn được ai. Bây giờ một vực một trời, Hết điều khinh trọng hết lời thị phi. Nhẹ như bấc nặng như chì, 1880 Gỡ cho ra nữa còn gì là duyên? Lỡ làng chút phận thuyền quyên, Bể sâu sóng cả có tuyền được vay? Một mình âm ỉ đêm chày, Đĩa dầu vơi nước mắt đầy năm canh. 1885 Sớm trưa hầu hạ đài doanh, Tiểu thư chạm mặt đè tình hỏi tra. Lựa lời nàng mới thưa qua: Phải khi mình lại xót xa nỗi mình. Tiểu thư hỏi lại Thúc Sinh: 1890 Cậy chàng tra lấy thực tình cho nao! Sinh đà rát ruột như bào, Nói ra chẳng tiện trông vào chẳng đang! Những e lại lụy đến nàng, Đánh liều mới sẽ lựa đường hỏi tra. 1895 Cúi đầu quỳ trước sân hoa, Thân cung nàng mới dâng qua một tờ. Diện tiền trình với Tiểu thư, Thoạt xem dường có ngẩn ngơ chút tình. Liền tay trao lại Thúc Sinh, 1900 Rằng: Tài nên trọng mà tình nên thương! Ví chăng có số giàu sang, Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên! Bể trần chìm nổi thuyền quyên, Hữu tài thương nỗi vô duyên lạ đời! 1905 Sinh rằng: Thật có như lời, Hồng nhan bạc mệnh một người nào vay! Nghìn xưa âu cũng thế này, Từ bi âu liệu bớt tay mới vừa. Tiểu thư rằng: ý trong tờ, 1910 Rắp đem mệnh bạc xin nhờ cửa Không. Thôi thì thôi cũng chiều lòng, Cũng cho khỏi lụy trong vòng bước ra. Sẵn Quan âm các vườn ta, Có cây trăm thước, có hoa bốn mùa. 1915 Có cổ thụ, có sơn hồ, Cho nàng ra đó giữ chùa chép kinh. Tàng tàng trời mới bình minh, Hương hoa, ngũ cúng, sắm sanh lễ thường. Đưa nàng đến trước Phật đường, 1920 Tam quy, ngũ giới, cho nàng xuất gia. Áo xanh đổi lấy cà sa, Pháp danh lại đổi tên ra Trạc Tuyền. Sớm khuya sắm đủ dầu đèn, Xuân, Thu, cắt sẵn hai tên hương trà. 1925 Nàng từ lánh gót vườn hoa, Dường gần rừng tía, dường xa bụi hồng. Nhân duyên đâu lại còn mong, Khỏi điều thẹn phấn, tủi hồng thì thôi. Phật tiền thảm lấp sầu vùi, 1930 Ngày pho thủ tự, đêm nồi tâm hương. Cho hay giọt nước cành dương, Lửa lòng tưới tắt mọi đường trần duyên. Nâu sồng từ trở màu thiền, Sân thu trăng đã vài phen đứng đầu, 1935 Cửa thiền, then nhặt, lưới mau, Nói lời trước mặt, rời châu vắng người. Gác kinh viện sách đôi nơi, Trong gang tấc lại gấp mười quan san. Những là ngậm thở nuốt than, 1940 Tiểu thư phải buổi vấn an về nhà. Thừa cơ, sinh mới lẻn ra, Xăm xăm đến mé vườn hoa với nàng. Sụt sùi giở nỗi đoạn tràng, Giọt châu tầm tã đẫm tràng áo xanh: 1945 Đã cam chịu bạc với tình, Chúa xuân để tội một mình cho hoa! Thấp cơ thua trí đàn bà, Trông vào đau ruột nói ra ngại lời. Vì ta cho lụy đến người, 1950 Cát lầm ngọc trắng, thiệt đời xuân xanh! Quản chi lên thác xuống ghềnh, Cũng toan sống thác với tình cho xong. Tông đường chút chửa cam lòng, Nghiến răng bẻ một chữ đồng làm hai. 1955 Thẹn mình đá nát vàng phai, Trăm thân dễ chuộc một lời được sao? Nàng rằng: Chiếc bách sóng đào, Nổi chìm cũng mặc lúc nào rủi may! Chút thân quằn quại vũng lầy, 1960 Sống thừa còn tưởng đến rày nữa sao? Cũng liều một giọt mưa rào, Mà cho thiên hạ trông vào cũng hay! Xót vì cầm đã bén dây, Chẳng trăm năm cũng một ngày duyên ta. 1965 Liệu bài mở cửa cho ra, Ấy là tình nặng ấy là ân sâu! Sinh rằng: Riêng tưởng bấy lâu, Lòng người nham hiểm biết đâu mà lường. Nữa khi giông tố phũ phàng, 1970 Thiệt riêng đó cũng lại càng cực đây. Liệu mà xa chạy cao bay, Ái ân ta có ngần này mà thôi! Bâu giờ kẻ ngược người xuôi, Biết bao giờ lại nối lời nước non? 1975 Dẫu rằng sông cạn đá mòn, Con tằm đến thác cũng còn vướng tơ! Cùng nhau kể lể sau xưa, Nói rồi lại nói, lời chưa hết lời. Mặt trông tay chẳng nỡ rời, 1980 Hoa tì đã động tiếng người nẻo xa. Nhận ngừng, nuốt tủi, lảng ra, Tiểu thư đâu đã rẽ hoa bước vào. Cười cười, nói nói ngọt ngào, Hỏi: Chàng mới ở chốn nào lại chơi? 1985 Dối quanh Sinh mới liệu lời: Tìm hoa quá bước, xem người viết kinh. Khen rằng: Bút pháp đã tinh, So vào với thiếp Lan đình nào thua! Tiếc thay lưu lạc giang hồ, 1990 Nghìn vàng, thật cũng nên mua lấy tài! Thiền trà cạn chén hồng mai, Thong dong nối gót thư trai cùng về. Nàng càng e lệ ủ ê, Rỉ tai, hỏi lại hoa tì trước sau. 1995 Hoa rằng: Bà đã đến lâu, Rón chân đứng nép độ đâu nữa giờ. Rành rành kẽ tóc chân tơ, Mấy lời nghe hết đã dư tỏ tường. Bao nhiêu đoạn khổ, tình thương, 2000 Nỗi ông vật vã, nỗi nàng thở than. Ngăn tôi đứng lại một bên, Chán tai rồi mới bước lên trên lầu. Nghe thôi kinh hãi xiết đâu: Đàn bà thế ấy thấy âu một người! 2005 Ấy mới gan ấy mới tài, Nghĩ càng thêm nỗi sởn gai rụng rời! Người đâu sâu sắc nước đời, Mà chàng Thúc phải ra người bó tay! Thực tang bắt được dường này, 2010 Máu ghen ai cũng chau mày nghiến răng. Thế mà im chẳng đãi đằng, Chào mời vui vẻ nói năng dịu dàng! Giận dầu ra dạ thế thường, Cười dầu mới thực khôn lường hiểm sâu! 2015 Thân ta ta phải lo âu, Miệng hùm nọc rắn ở đâu chốn này! Ví chăng chắp cánh cao bay, Rào cây lâu cũng có ngày bẻ hoa! Phận bèo bao quản nước sa, 2020 Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh. Chỉn e quê khách một mình, Tay không chưa dễ tìm vành ấm no! Nghĩ đi nghĩ lại quanh co, Phật tiền sẵn có mọi đồ kim ngân. 2025 Bên mình giắt để hộ thân, Lần nghe canh đã một phần trống ba. Cất mình qua ngọn tường hoa, Lần đường theo bóng trăng tà về tây. Mịt mù dặm cát đồi cây, 2030 Tiếng gà điếm nguyệt dấu giày cầu sương. Canh khuya thân gái dặm trường, Phần e đường xá, phần thương dãi dầu! Trời đông vừa rạng ngàn dâu, Bơ vơ nào đã biết đâu là nhà! 2035 Chùa đâu trông thấy nẻo xa, Rành rành Chiêu ẩn am ba chữ bài. Xăm xăm gõ mái cửa ngoài, Trụ trì nghe tiếng, rước mời vào trong. Thấy màu ăn mặc nâu sồng, 2040 Giác duyên sư trưởng lành lòng liền thương. Gạn gùng ngành ngọn cho tường, Lạ lùng nàng hãy tìm đường nói quanh: Tiểu thiền quê ở Bắc Kinh, Quy sư, quy Phật, tu hành bấy lâu. 2045 Bản sư rồi cũng đến sau, Dạy đưa pháp bảo sang hầu sư huynh. Rày vâng diện hiến rành rành, Chuông vàng khánh bạc bên mình giở ra. Xem qua sư mới dạy qua: 2050 Phải nơi Hằng Thủy là ta hậu tình. Chỉ e đường sá một mình, Ở đây chờ đợi sư huynh ít ngày. Gửi thân được chốn am mây, Muối dưa đắp đổi tháng ngày thong dong. 2055 Kệ kinh câu cũ thuộc lòng, Hương đèn việc cũ, trai phòng quen tay. Sớm khuya lá bối phướn mây, Ngọn đèn khêu nguyệt, tiếng chày nện sương. Thấy nàng thông tuệ khác thường, 2060 Sư càng nể mặt, nàng càng vững chân. Cửa thuyền vừa tiết cuối xuân, Bóng hoa đầy đất, vẻ ngân ngang trời. Gió quang mây tạnh thảnh thơi, Có người đàn việt lên chơi cửa Già. 2065 Giở đồ chuông khánh xem qua, Khen rằng: Khéo giống của nhà Hoạn nương! Giác Duyên thực ý lo lường, Đêm thanh mới hỏi lại nàng trước sau. Nghĩ rằng khôn nỗi giấu mầu, 2070 Sự mình nàng mới gót đầu bày ngay: Bây giờ sự đã dường này, Phận hèn dù rủi, dù may, tại người. Giác Duyên nghe nói rụng rời, Nửa thương, nửa sợ, bồi hồi chẳng xong. 2075 Rỉ tai nàng mới giãi lòng: Ở đây cửa Phật là không hẹp gì; E chăng những sự bất kỳ, Để nàng cho đến thế thì cũng thương! Lánh xa, trước liệu tìm đường, 2080 Ngồi chờ nước đến, nên đường còn quê! Có nhà họ Bạc bên kia, Am mây quen lối đi về dầu hương. Nhắn sang, dặn hết mọi đường, Dọn nhà hãy tạm cho nàng trú chân. 2085 Những mừng được chốn an thân, Vội vàng nào kịp tính gần tính xa. Nào ngờ cũng tổ bợm già, Bạc bà học với Tú Bà đồng môn! Thấy nàng mặt phấn tươi son, 2090 Mừng thầm được mối bán buôn có lời. Hư không đặt để nên lời, Nàng đà nhớn nhác rụng rời lắm phen. Mụ càng xua đuổi cho liền, Lấy lời hung hiểm ép duyên Châu Trần. 2095 Rằng: Nàng muôn dặm một thân, Lại mang lấy tiếng dữ gần, lành xa. Khéo oan gia, của phá gia, Còn ai dám chứa vào nhà nữa đây! Kíp toan kiếm chốn xe dây, 2100 Không dưng chưa dễ mà bay đường trời! Nơi gần thì chẳng tiện nơi, Nơi xa thì chẳng có người nào xa. Này chàng Bạc Hạnh cháu nhà, Cùng trong thân thích ruột rà, chẳng ai. 2105 Cửa hàng buôn bán châu Thai, Thực thà có một, đơn sai chẳng hề. Thế nào nàng cũng phải nghe, Thành thân rồi sẽ liệu về châu Thai. Bấy giờ ai lại biết ai, 2110 Dầu lòng bể rộng sông dài thênh thênh. Nàng dù quyết chẳng thuận tình, Trái lời nẻo trước lụy mình đến sau. Nàng càng mặt ủ mày chau, Càng nghe mụ nói, càng đau như dần. 2115 Nghĩ mình túng đất, sẩy chân, Thế cùng nàng mới xa gần thở than: Thiếp như con én lạc đàn, Phải cung rày đã sợ làn cây cong! Cùng đường dù tính chữ tòng, 2120 Biết người, biết mặt, biết lòng làm sao? Nữa khi muôn một thế nào, Bán hùm, buôn sói, chắc vào lưng đâu? Dù ai lòng có sở cầu, Tâm mình xin quyết với nhau một lời. 2125 Chứng minh có đất, có Trời, Bấy giờ vượt bể ra khơi quản gì? Được lời mụ mới ra đi, Mách tin họ Bạc tức thì sắm sanh. Một nhà dọn dẹp linh đình, 2130 Quét sân, đặt trác, rửa bình, thắp nhang. Bạc sinh quỳ xuống vội vàng, Quá lời nguyện hết Thành hoàng, Thổ công. Trước sân lòng đã giãi lòng, Trong màn làm lễ tơ hồng kết duyên. 2135 Thành thân mới rước xuống thuyền, Thuận buồm một lá, xuôi miền châu Thai. Thuyền vừa đỗ bến thảnh thơi, Bạc sinh lên trước tìm nơi mọi ngày. Cũng nhà hành viện xưa nay, 2140 Cũng phường bán thịt, cũng tay buôn người. Xem người định giá vừa rồi, Mối hàng một, đã ra mười, thì buông. Mượn người thuê kiệu rước nường, Bạc đem mặt bạc, kiếm đường cho xa! 2145 Kiệu hoa đặt trước thềm hoa, Bên trong thấy một mụ ra vội vàng. Đưa nàng vào lạy gia đường, Cũng thần mày trắng, cũng phường lầu xanh! Thoắt trông nàng đã biết tình, 2150 Chim lồng khốn lẽ cất mình bay cao. Chém cha cái số hoa đào, Gỡ ra, rồi lại buộc vào như chơi! Nghĩ đời mà chán cho đời, Tài tình chi lắm, cho trời đất ghen! 2155 Tiếc thay nước đã đánh phèn, Mà cho bùn lại vẩn lên mấy lần! Hồng quân với khách hồng quần, Đã xoay đến thế, còn vần chửa tha. Lỡ từ lạc bước bước ra, 2160 Cái thân liệu những từ nhà liệu đi. Đầu xanh đã tội tình chi? Má hồng đến quá nửa thì chưa thôi. Biết thân chạy chẳng khỏi trời, Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh. 2165 Lần thu gió mát trăng thanh, Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi, Râu hùm, hàm én, mày ngài, Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao. Đường đường một đấng anh hào, 2170 Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài. Đội trời đạp đất ở đời, Họ Từ tên Hải, vốn người Việt đông. Giang hồ quen thú vẫy vùng, Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo. 2175 Qua chơi nghe tiếng nàng Kiều, Tấm lòng nhi nữ cùng xiêu anh hùng. Thiếp danh đưa đến lầu hồng, Hai bên cùng liếc hai lòng cùng ưa. Từ rằng: Tâm phúc tương cờ 2180 Phải người trăng gió vật vờ hay sao? Bấy lâu nghe tiếng má đào, Mắt xanh chẳng để ai vào có không? Một đời được mấy anh hùng, Bõ chi cá chậu, chim lồng mà chơi! 2185 Nàng rằng: Người dạy quá lời, Thân này còn dám xem ai làm thường! Chút riêng chọn đá thử vàng, Biết đâu mà gởi can tràng vào đâu? Còn như vào trước ra sau, 2190 Ai cho kén chọn vàng thau tại mình. Từ rằng: Lời nói hữu tình, Khiến người lại nhớ câu Bình Nguyên Quân. Lại đây xem lại cho gần, Phỏng tin được một vài phần hay không? 2195 Thưa rằng: Lượng cả bao dong, Tấn Dương được thấy mây rồng có phen. Rộng thương cỏ nội hoa hèn, Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau! Nghe lời vừa ý gật đầu, 2200 Cười rằng: Tri kỷ trước sau mấy người! Khen cho con mắt tinh đời, Anh hùng đoán giữa trần ai mới già! Một lời đã biết tên ta, Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau! 2205 Hai bên ý hợp tâm đầu, Khi thân chẳng lọ là cầu mới thân! Ngỏ lời nói với băng nhân, Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn. Buồn riêng sửa chốn thanh nhàn, 2210 Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên. Trai anh hùng, gái thuyền nguyên, Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng. Nửa năm hương lửa đương nồng, Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương. 2215 Trông vời trời bể mênh mang, Thanh gươm, yên ngựa lên đàng thẳng rong. Nàng rằng: Phận gái chữ tòng, Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi! Từ rằng: Tâm phúc tương tri, 2220 Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình? Bao giờ mười vạn tinh binh, Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường Làm cho rõ mặt phi thường, Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia, 2225 Bằng ngay bốn bể không nhà, Theo càng thêm bận, biết là đi đâu? Đành lòng chờ đó ít lâu, Chầy chăng là một năm sau vội gì? Quyết lời rứt áo ra đi, 2230 Cánh bằng tiện gió cất lìa dậm khơi. Nàng thì chiếc bóng song mai, Đêm thâu đằng đẵng, nhặt cài then mây. Sân rêu chẳng vẽ dấu giầy, Cỏ cao hơn thước, liễu gầy vài phân. 2235 Đoái thương muôn dặm tử phần Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa; Xót thay huyên cỗi xuân già, Tấm lòng thương nhớ, biết là có nguôi. Chốc là mười mấy năm trời, 2240 Còn ra khi đã da mồi tóc sương. Tiếc thay chút nghĩa cũ càng, Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng! Duyên em dù nối chỉ hồng, May ra khi đã tay bồng tay mang. 2245 Tấc lòng cố quốc tha hương, Đường kia nỗi nọ ngổn ngang bời bời. Cánh hồng bay bổng tuyệt vời, Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm. Đêm ngày luống những âm thầm, 2250 Lửa binh đâu đã ầm ầm một phương, Ngất trời sát khí mơ màng, Đầy sông kình ngạc, chật đường giáp binh. Người quen kẻ thuộc chung quanh Nhủ nàng hãy tạm lánh mình một nơi. 2255 Nàng rằng: Trước đã hẹn lời, Dẫu trong nguy hiểm dám rời ước xưa. Còn đương dùng dắng ngẩn ngơ Mái ngoài đã thấy bóng cờ tiếng loa. Giáp binh kéo đến quanh nhà, 2260 Đồng thanh cùng gửi: nào là phu nhân? Hai bên mười vị tướng quân, Đặt gươm, cởi giáp, trước sân khấu đầu. Cung nga, thể nữ nối sau, Rằng: Vâng lệnh chỉ rước chầu vu quy. 2265 Sẵn sàng phượng liễn loan nghi, Hoa quan phấp phới hà y rỡ ràng. Dựng cờ, nổi trống lên đàng, Trúc tơ nổi trước, kiệu vàng theo sau. Hỏa bài tiền lộ ruổi mau, 2270 Nam đình nghe động trống chầu đại doanh. Kéo cờ lũy, phát súng thành, Từ công ra ngựa, thân nghênh cửa ngoài. Rỡ mình, là vẻ cân đai, Hãy còn hàm én mày ngài như xưa. 2275 Cười rằng: Cá nước duyên ưa, Nhớ lời nói những bao giờ hay không? Anh hùng mới biết anh hùng, Rầy xem phỏng đã cam lòng ấy chưa? Nàng rằng: Chút phận ngây thơ, 2280 Cũng may dây cát được nhờ bóng cây. Đến bây giờ mới thấy đây, Mà lòng đã chắc những ngày một hai. Cùng nhau trông mặt cả cười, Dan tay về chốn trướng mai tự tình. 2285 Tiệc bày thưởng tướng khao binh Om thòm trống trận, rập rình nhạc quân. Vinh hoa bõ lúc phong trần, Chữ tình ngày lại thêm xuân một ngày. Trong quân có lúc vui vầy, 2290 Thong dong mới kể sự ngày hàn vi: Khi Vô Tích, khi Lâm Tri, Nơi thì lừa đảo, nời thì xót thương. Tấm thân rày đã nhẹ nhàng, Chút còn ân oán đôi đàng chưa xong. 2295 Từ Công nghe nói thủy chung, Bất bình nổi trận đùng đùng sấm vang. Nghiêm quân tuyển tướng sẵn sàng, Dưới cờ một lệnh vội vàng ruổi sao. Ba quân chỉ ngọn cờ đào, 2300 Đạo ra Vô Tích, đạo vào Lâm Tri, Mấy người phụ bạc xưa kia, Chiếu danh tầm nã bắt về hỏi tra. Lại sai lệnh tiễn truyền qua, Giữ giàng họ Thúc một nhà cho yên. 2305 Mụ quản gia, vãi Giác Duyên, Cũng sai lệnh tiễn đem tin rước mời. Thệ sư kể hết mọi lời, Lòng lòng cũng giận, người người chấp uy! Đạo trời báo phục chỉn ghê, 2310 Khéo thay! Một mẻ tóm về đầy nơi, Quân trung gươm lớn áo dài, Vệ trong thị lập, cơ ngoài song phi. Sẵn sàng tề chỉnh uy nghi, Bác đồng chật đất, tinh kỳ rợp sân. 2315 Trướng hùm mở giữa trung quân, Từ Công sánh với phu nhân cùng ngồi. Tiên nghiêm trống chửa dứt hồi Điểm danh trước dẫn chực ngoài cửa viên. Từ rằng: ân, oán hai bên, 2320 Mặc nàng xử quyết báo đền cho minh Nàng rằng: Nhờ cậy uy linh, Hãy xin báo đáp ân tình cho phu. Báo ân rồi sẽ trả thù. Từ rằng: Việc ấy phó cho mặc nàng. 2325 Cho gươm mời đến Thúc lang, Mặt như chàm đổ, mình giường giẽ run. Nàng rằng: Nghĩa trọng nghìn non, Lâm Tri người cũ, chàng còn nhớ không? Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng, 2330 Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân? Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân, Tạ lòng dễ xứng, báo ân gọi là! Vợ chàng quỷ quái tinh ma, Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau! 2335 Kiến bò miệng chén chưa lâu, Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa. Thúc Sinh trông mặt bấy giờ, Mồ hôi chàng đã như mưa ướt đầm. Lòng riêng mừng sợ khôn cầm, 2340 Sợ thay mà lại mừng thầm cho ai. Mụ già, sư trưởng thứ hai, Thoắt đưa đến trước vội mời lên trên: Dắt tay mở mặt cho nhìn: Hoa Nô kia với Trạc Tuyền cũng tôi. 2345 Nhớ khi lỡ bước xẩy vời, Non vàng chưa dễ đền bồi tấm thương. Nghìn vàng gọi chút lễ thường, Mà lòng phiếu mẫu mấy vàng cho cân? Hai người, trông mặt tần ngần, 2350 Nửa phần khiếp sợ, nửa phần mừng vui. Nàng rằng: Xin hãy dốn ngôi, Xem cho rõ mặt, biết tôi báo thù! Kíp truyền chư tướng hiến phù, Lại đem các tích phạm tù hậu tra. 2355 Dưới cờ, gươm tuốt nắp ra, Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư. Thoạt trông nàng đã chào thưa: Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây? Đàn bà dễ có mấy tay, 2360 Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan? Dễ dàng là thói hồng nhan, Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều! Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu, Khấu đầu dưới trướng, liệu điều kêu ca. 2365 Rằng: Tôi chút dạ đàn bà, Ghen tuông thì cũng người ta thường tình, Nghĩ cho khi gác viết kinh, Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo. Lòng riêng riêng những kính yêu; 2370 Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai. Trót lòng gây việc chông gai, Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng? Khen cho: Thật đã nên rằng, Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời, 2375 Tha ra thì cũng may đời, Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen. Đã lòng tri quá thì nên, Truyền quân lệnh xuống trường tiền tha ngay. Tạ lòng lạy trước sân may, 2380 Cửa viên lại dắt một dây dẫn vào, Nàng rằng: Lồng lộng trời cao, Hại nhân, nhân hại sự nào tại ta? Trước là Bạc Hạnh, Bạc Bà, Bên là Ưng, Khuyển, bên là Sở Khanh. 2385 Tú Bà cùng Mã Giám Sinh, Các tên tội ấy đáng tình còn sao? Lệnh quân truyền xuống nội đao, Thề sao thì lại cứ sao gia hình, Máu rơi thịt nát tan tành, 2390 Ai ai trông thấy hồn kinh phách rời. Cho hay muôn sự tại trời, Phụ người, chẳng bõ khi người phụ ta! Mấy người bạc ác tinh ma, Mình làm mình chịu kêu mà ai thương. 2395 Ba quân đông mặt pháp trường, Thanh thiên, bạch nhật rõ ràng cho coi. Việc nàng báo phục vừa rồi, Giác Duyên vội vã gởi lời từ quy. Nàng rằng: Thiên tải nhất thì, 2400 Cố nhân đã dễ mấy khi bàn hoàn. Rồi đây bèo hợp mây tan, Biết đâu hạc nội mây ngàn là đâu! Sư rằng: Cũng chẳng bao lâu, Trong năm năm lại gặp nhau đó mà. 2405 Nhớ ngày hành cước phương xa, Gặp sư Tam Hợp vốn là tiên tri. Bảo cho hội ngộ chi kỳ, Năm nay là một nữa thì năm năm. Mới hay tiền định chẳng lầm, 2410 Đã tin điều trước ắt nhằm việc sau. Còn nhiều ân ái với nhau, Cơ duyên nào đã hết đâu vội gì? Nàng rằng: Tiền định tiên tri, Lời sư đã dạy ắt thì chẳng sai. 2415 Họa bao giờ có gặp người, Vì tôi cậy hỏi một lời chung thân. Giác Duyên vâng dặn ân cần, Tạ từ thoắt đã dời chân cõi ngoài. Nàng từ ân oán rạch ròi, 2420 Bể oan dường đã vơi vơi cạnh lòng. Tạ ân lạy trước Từ công: Chút thân bồ liễu nào mong có rày! Trộm nhờ sấm sét ra tay, Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi! 2425 Chạm xương chép dạ xiết chi, Dễ đem gan óc đền nghì trời mây! Từ rằng: Quốc sĩ xưa nay, Chọn người tri kỷ một ngày được chăng? Anh hùng tiếng đã gọi rằng, 2430 Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha! Huống chi việc cũng việc nhà, Lọ là thâm tạ mới là tri ân. Xót nàng còn chút song thân, Bấy nay kẻ Việt người Tần cách xa. 2435 Sao cho muôn dặm một nhà, Cho người thấy mặt là ta cam lòng. Vội truyền sửa tiệc quân trung, Muôn binh nghìn tướng hội đồng tẩy oan. Thừa cơ trúc chẻ ngói tan, 2440 Binh uy từ ấy sấm ran trong ngoài. Triều đình riêng một góc trời, Gồm hai văn võ rạch đôi sơn hà. Đòi phen gió quét mưa sa, Huyện thành đạp đổ năm tòa cõi nam. 2445 Phong trần mài một lưỡi gươm, Những loài giá áo túi cơm sá gì! Nghênh ngang một cõi biên thùy, Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương! Trước cờ ai dám tranh cường, 2450 Năm năm hùng cứ một phương hải tần. Có quan tổng đốc trọng thần, Là Hồ Tôn Hiến kinh luân gồm tài. Đẩy xe vâng chỉ đặc sai, Tiện nghi bát tiểu việc ngoài đổng nhung. 2455 Biết Từ là đấng anh hùng, Biết nàng cũng dự quân trung luận bàn. Đóng quân làm chước chiêu an, Ngọc vàng gấm vóc sai quan thuyết hàng. Lại riêng một lễ với nàng, 2460 Hai tên thể nữ ngọc vàng nghìn cân. Tin vào gởi trước trung quân, Từ công riêng hãy mười phân hồ đồ. Một tay gây dựng cơ đồ, Bấy lâu bể Sở sông Ngô tung hoành! 2465 Bó thân về với triều đình, Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu? Áo xiêm ràng buộc lấy nhau, Vào luồn ra cúi công hầu mà chi? Sao bằng riêng một biên thùy, 2470 Sức này đã dễ làm gì được nhau? Chọc trời khuấy nước mặc dầu, Dọc ngang nào biết trên đầu có ai? Nàng thời thật dạ tin người, Lễ nhiều nói ngọt nghe lời dễ xiêu. 2475 Nghĩ mình mặt nước cánh bèo, Đã nhiều lưu lạc lại nhiều gian truân. Bằng nay chịu tiếng vương thần, Thênh thênh đường cái thanh vân hẹp gì! Công tư vẹn cả hai bề, 2480 Dần dà rồi sẽ liệu về cố hương. Cũng ngôi mệnh phụ đường đường, Nở nang mày mặt rỡ ràng mẹ cha. Trên vì nước dưới vì nhà, Một là đắc hiếu hai là đắc trung. 2485 Chẳng hơn chiếc bách giữa dòng, E dè sóng vỗ hãi hùng cỏ hoa. Nhân khi bàn bạc gần xa, Thừa cơ nàng mới bàn ra nói vào. Rằng: Trong Thánh trạch dồi dào, 2490 Tưới ra đã khắp thấm vào đã sâu. Bình thành công đức bấy lâu, Ai ai cũng đội trên đầu xiết bao. Ngẫm từ gây việc binh đao, Đống xương Vô định đã cao bằng đầu. 2495 Làm chi để tiếng về sau, Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào! Sao bằng lộc trọng quyền cao, Công danh ai dứt lối nào cho qua? Nghe lời nàng nói mặn mà, 2500 Thế công Từ mới trở ra thế hàng. Chỉnh nghi tiếp sứ vội vàng, Hẹn kỳ thúc giáp quyết đường giải binh. Tin lời thành hạ yêu minh, Ngọn cờ ngơ ngác trống canh trễ tràng. 2505 Việc binh bỏ chẳng giữ giàng, Vương sư dòm đã tỏ tường thực hư. Hồ công quyết kế thừa cơ, Lễ tiên binh hậu khắc cờ tập công. Kéo cờ chiêu phủ tiên phong, 2510 Lễ nghi dàn trước bác đồng phục sau. Từ công hờ hững biết đâu, Đại quan lễ phục ra đầu cửa viên. Hồ công ám hiệu trận tiền, Ba bề phát súng bốn bên kéo cờ. 2515 Đương khi bất ý chẳng ngờ, Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn! Tử sinh liều giữa trận tiền, Dạn dầy cho biết gan liền tướng quân! Khí thiêng khi đã về thần, 2520 Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng! Trơ như đá vững như đồng, Ai lay chẳng chuyển ai rung chẳng dời. Quan quân truy sát đuổi dài. Ầm ầm sát khí ngất trời ai đang. 2525 Trong hào ngoài lũy tan hoang, Loạn quân vừa dắt tay nàng đến nơi. Trong vòng tên đá bời bời, Thấy Từ còn đứng giữa trời trơ trơ. Khóc rằng: Trí dũng có thừa, 2530 Bởi nghe lời thiếp nên cơ hội này! Mặt nào trông thấy nhau đây? Thà liều sống thác một ngày với nhau! Dòng thu như dội cơn sầu, Dứt lời nàng cũng gieo đầu một bên. 2535 Lạ thay oan khí tương triền! Nàng vừa phục xuống Từ liền ngã ra. Quan quân kẻ lại người qua, Xót nàng sẽ lại vực ra dần dần. Đem vào đến trước trung quân, 2540 Hồ công thấy mặt ân cần hỏi han. Rằng: Nàng chút phận hồng nhan, Gặp cơn binh cách nhiều nàn cũng thương! Đã hay thành toán miếu đường, Giúp công cũng có lời nàng mới nên. 2545 Bây giờ sự đã vẹn tuyền, Mặc lòng nghĩ lấy muốn xin bề nào? Nàng càng giọt ngọc tuôn dào, Ngập ngừng mới gửi thấp cao sự lòng. Rằng: Từ là đấng anh hùng, 2550 Dọc ngang trời rộng vẫy vùng bể khơi! Tin tôi nên quá nghe lời, Đem thân bách chiến làm tôi triều đình. Ngỡ là phu quý phụ vinh, Ai ngờ một phút tan tành thịt xương! 2555 Năm năm trời bể ngang tàng, Đem mình đi bỏ chiến trường như không. Khéo khuyên kể lấy làm công, Kể bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu! Xét mình công ít tội nhiều, 2560 Sống thừa tôi đã nên liều mình tôi! Xin cho tiện thổ một doi, Gọi là đắp điếm cho người tử sinh. Hồ công nghe nói thương tình, Truyền cho cảo táng di hình bên sông. 2565 Trong quân mở tiệc hạ công, Xôn xao tơ trúc hội đồng quân quan. Bắt nàng thị yến dưới màn, Dở say lại ép cung đàn nhặt tâu. Một cung gió thảm mưa sầu, 2570 Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay! Ve ngâm vượn hót nào tày, Lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu. Hỏi rằng: Này khúc ở đâu? Nghe ra muôn oán nghìn sầu lắm thay! 2575 Thưa rằng: Bạc mệnh khúc này, Phổ vào đàn ấy những ngày còn thơ. Cung cầm lựa những ngày xưa, Mà gương bạc mệnh bây giờ là đây! Nghe càng đắm ngắm càng say, 2580 Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình! Dạy rằng: Hương lửa ba sinh, Dây loan xin nối cầm lành cho ai. Thưa rằng: Chút phận lạc loài, Trong mình nghĩ đã có người thác oan. 2585 Còn chi nữa cánh hoa tàn, Tơ lòng đã dứt dây đàn Tiểu Lân. Rộng thương còn mảnh hồng quần, Hơi tàn được thấy gốc phần là may! Hạ công chén đã quá say, 2590 Hồ công đến lúc rạng ngày nhớ ra. Nghĩ mình phương diện quốc gia, Quan trên nhắm xuống người ta trông vào. Phải tuồng trăng gió hay sao, Sự này biết tính thế nào được đây? 2595 Công nha vừa buổi rạng ngày, Quyết tình Hồ mới đoán ngay một bài. Lệnh quan ai dám cãi lời, Ép tình mới gán cho người thổ quan. Ông tơ thực nhẽ đa đoan! 2600 Xe tơ sao khéo vơ quàng vơ xiên? Kiệu hoa áp thẳng xuống thuyền, Lá màn rủ thấp ngọn đèn khêu cao. Nàng càng ủ liễu phai đào, Trăm phần nào có phần nào phần tươi? 2605 Đành thân cát lấp sóng vùi, Cướp công cha mẹ thiệt đời thông minh! Chân trời mặt bể lênh đênh, Nắm xương biết gởi tử sinh chốn nào, Duyên đâu ai dứt tơ đào, 2610 Nợ đâu ai đã dắt vào tận tay! Thân sao thân đến thế này? Còn ngày nào cũng dư ngày ấy thôi! Đã không biết sống là vui, Tấm thân nào biết thiệt thòi là thương! 2615 Một mình cay đắng trăm đường, Thôi thì nát ngọc tan vàng thì thôi! Mảnh trăng đã gác non đoài, Một mình luống những đứng ngồi chưa xong. Triều đâu nổi tiếng đùng đùng, 2620 Hỏi ra mới biết rằng sông Tiền Đường. Nhớ lời thần mộng rõ ràng, Này thôi hết kiếp đoạn trường là đây! Đạm Tiên nàng nhé có hay! Hẹn ta thì đợi dưới này rước ta. 2625 Dưới đèn sẵn bức tiên hoa, Một thiên tuyệt bút gọi là để sau. Cửa bồng vội mở rèm châu, Trời cao sông rộng một màu bao la. Rằng: Từ công hậu đãi ta, 2630 Chút vì việc nước mà ra phụ lòng. Giết chồng mà lại lấy chồng, Mặt nào còn đứng ở trong cõi đời? Thôi thì một thác cho rồi, Tấm lòng phó mặc trên trời dưới sông! 2635 Trông vời con nước mênh mông, Đem mình gieo xuống giữa dòng Trường Giang. Thổ quan theo vớt vội vàng, Thời đà đắm ngọc chìm hương mất rồi! Thương thay cũng một kiếp người, 2640 Hại thay mang lấy sắc tài làm chi! Những là oan khổ lưu ly, Chờ cho hết kiếp còn gì là thân! Mười lăm năm bấy nhiêu lần, Làm gương cho khách hồng quần thử soi! 2645 Đời người đến thế thì thôi, Trong cơ âm cực dương hồi khốn hay. Mấy người hiếu nghĩa xưa nay, Trời làm chi đến lâu ngày càng thương! Giác Duyên từ tiết giã màng, 2650 Đeo bầu quảy níp rộng đường vân du. Gặp bà Tam Hợp đạo cô, Thong dong hỏi hết nhỏ to sự nàng: Người sao hiếu nghĩa đủ đường, Kiếp sao rặt những đoạn trường thế thôi? 2655 Sư rằng: Phúc họa đạo trời, Cỗi nguồn cũng ở lòng người mà ra. Có trời mà cũng tại ta, Tu là cõi phúc tình là dây oan. Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan, 2660 Vô duyên là phận hồng nhan đã đành, Lại mang lấy một chữ tình, Khư khư mình buộc lấy mình vào trong. Vậy nên những chốn thong dong, Ở không yên ổn ngồi không vững vàng. 2665 Ma đưa lối quỷ đem đường, Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi. Hết nạn ấy đến nạn kia, Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần. Trong vòng giáo dựng gươm trần, 2670 Kề răng hùm sói gởi thân tôi đòi. Giữa dòng nước dẫy sóng dồi, Trước hàm rồng cá gieo mồi thủy tinh. Oan kia theo mãi với tình, Một mình mình biết một mình mình hay. 2675 Làm cho sống đọa thác đầy, Đoạn trường cho hết kiếp này mới thôi! Giác Duyên nghe nói rụng rời: Một đời nàng nhé thương ôi còn gì! Sư rằng: Song chẳng hề chi, 2680 Nghiệp duyên cân lại nhắc đi còn nhiều. Xét trong tội nghiệp Thúy Kiều, Mắc điều tình ái khỏi điều tà dâm, Lấy tình thâm trả nghĩa thâm, Bán mình đã động hiếu tâm đến trời! 2685 Hại một người cứu muôn người, Biết đường khinh trọng biết lời phải chăng. Thửa công đức ấy ai bằng? Túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi! Khi nên trời cũng chiều người, 2690 Nhẹ nhàng nợ trước đền bồi duyên sau. Giác Duyên dù nhớ nghĩa nhau, Tiền Đường thả một bè lau rước người. Trước sau cho vẹn một lời, Duyên ta mà cũng phúc trời chi không! 2695 Giác Duyên nghe nói mừng lòng, Lân la tìm thú bên sông Tiền Đường, Đánh tranh chụm nóc thảo đường, Một gian nước biếc mây vàng chia đôi. Thuê năm ngư phủ hai người, 2700 Đóng thuyền chực bến kết chài giăng sông. Một lòng chẳng quảng mấy công, Khéo thay gặp gỡ cũng trong chuyển vần! Kiều từ gieo xuống duềnh ngân, Nước xuôi bỗng đã trôi dần tận nơi. 2705 Ngư ông kéo lưới vớt người, Ngẫm lời Tam Hợp rõ mười chẳng ngoa! Trên mui lướt mướt áo là, Tuy dầm hơi nước chưa lòa bóng gương. Giác Duyên nhận thật mặt nàng, 2710 Nàng còn thiêm thiếp giấc vàng chưa phai. Mơ màng phách quế hồn mai, Đạm Tiên thoắt đã thấy người ngày xưa. Rằng: Tôi đã có lòng chờ, Mất công mười mấy năm thừa ở đây. 2715 Chị sao phận mỏng phúc dày, Kiếp xưa đã vậy lòng này dễ ai! Tâm thành đã thấu đến trời, Bán mình là hiếu cứu người là nhân. Một niềm vì nước vì dân, 2720 Âm công cất một đồng cân đã già! Đoạn trường sổ rút tên ra, Đoạn trường thơ phải đưa mà trả nhau. Còn nhiều hưởng thụ về lâu, Duyên xưa tròn trặn phúc sau dồi dào! 2725 Nàng nghe ngơ ngẩn biết sao, Trạc Tuyền! nghe tiếng gọi vào bên tai. Giật mình thoắt tỉnh giấc mai, Bâng khuâng nào đã biết ai mà nhìn. Trong thuyền nào thấy Đạm Tiên, 2730 Bên mình chỉ thấy Giác Duyên ngồi kề. Thấy nhau mừng rỡ trăm bề, Dọn thuyền mới rước nàng về thảo lư. Một nhà chung chạ sớm trưa, Gió trăng mát mặt muối dưa chay lòng. 2735 Bốn bề bát ngát mênh mông, Triều dâng hôm sớm mây lồng trước sau. Nạn xưa trút sạch lầu lầu, Duyên xưa chưa dễ biết đâu chốn này. Nỗi nàng tai nạn đã đầy, 2740 Nỗi chàng Kim Trọng bấy chầy mới thương. Từ ngày muôn dặm phù tang, Nửa năm ở đất Liêu dương lại nhà. Vội sang vườn Thúy dò la, Nhìn phong cảnh cũ nay đà khác xưa. 2745 Đầy vườn cỏ mọc lau thưa, Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời. Trước sau nào thấy bóng người, Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông. Xập xè én liệng lầu không, 2750 Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày. Cuối tường gai góc mọc đầy, Đi về này những lối này năm xưa. Chung quanh lặng ngắt như tờ, Nỗi niềm tâm sự bây giờ hỏi ai? 2755 Láng giềng có kẻ sang chơi, Lân la sẽ hỏi một hai sự tình. Hỏi ông ông mắc tụng đình, Hỏi nàng nàng đã bán mình chuộc cha. Hỏi nhà nhà đã dời xa, 2760 Hỏi chàng Vương với cùng là Thúy Vân. Đều là sa sút khó khăn, May thuê viết mướn kiếm ăn lần hồi. Điều đâu sét đánh lưng trời, Thoắt nghe chàng thoắt rụng rời xiết bao! 2765 Vội han di trú nơi cao, Đánh đường chàng mới tìm vào tận nơi. Nhà tranh vách đất tả tơi, Lau treo rèm nát trúc cài phên thưa. Một sân đất cỏ dầm mưa, 2770 Càng ngao ngán nỗi càng ngơ ngẩn đường! Đánh liều lên tiếng ngoài tường, Chàng Vương nghe tiếng vội vàng chạy ra. Dắt tay vội rước vào nhà, Mái sau viên ngoại ông bà ra ngay. 2775 Khóc than kể hết niềm tây: Chàng ôi biết nỗi nước này cho chưa? Kiều nhi phận mỏng như tờ, Một lời đã lỗi tóc tơ với chàng! Gặp cơn gia biến lạ dường, 2780 Bán mình nó phải tìm đường cứu cha. Dùng dằng khi bước chân ra, Cực trăm nghìn nỗi dặn ba bốn lần. Trót lời hẹn với lang quân, Mượn con em nó Thúy Vân thay lời. 2785 Gọi là trả chút nghĩa người, Sầu này dằng dặc muôn đời chưa quên! Kiếp này duyên đã phụ duyên, Dạ đài còn biết sẽ đền lai sinh. Mấy lời ký chú đinh ninh, 2790 Ghi lòng để dạ cất mình ra đi. Phận sao bạc bấy Kiều nhi! Chàng Kim về đó con thì đi đâu? Ông bà càng nói càng đau, Chàng càng nghe nói càng dàu như dưa. 2795 Vật mình vẫy gió tuôn mưa, Dầm dề giọt ngọc thẫn thờ hồn mai! Đau đòi đoạn ngất đòi thôi, Tỉnh ra lại khóc khóc rồi lại mê. Thấy chàng đau nỗi biệt ly, 2800 Nhẫn ngừng ông mới vỗ về giải khuyên: Bây giờ ván đã đóng thuyền, Đã đành phận bạc khôn đền tình chung! Quá thương chút nghĩa đèo bòng, Nghìn vàng thân ấy dễ hòng bỏ sao? 2805 Dỗ dành khuyên giải trăm chiều, Lửa phiền càng dập càng khêu mối phiền. Thề xưa giở đến kim hoàn, Của xưa lại giở đến đàn với hương. Sinh càng trông thấy càng thương. 2810 Gan càng tức tối ruột càng xót xa. Rằng: Tôi trót quá chân ra, Để cho đến nỗi trôi hoa dạt bèo. Cùng nhau thề thốt đã nhiều, Những điều vàng đá phải điều nói không! 2815 Chưa chăn gối cũng vợ chồng, Lòng nào mà nỡ dứt lòng cho đang? Bao nhiêu của mấy ngày đàng, Còn tôi tôi một gặp nàng mới thôi! Nỗi thương nói chẳng hết lời, 2820 Tạ từ sinh mới sụt sùi trở ra. Vội về sửa chốn vườn hoa, Rước mời viên ngoại ông bà cùng sang. Thần hôn chăm chút lễ thường, Dưỡng thân thay tấm lòng nàng ngày xưa. 2825 Đinh ninh mài lệ chép thơ, Cắt người tìm tõi đưa tờ nhắn nhe. Biết bao công mướn của thuê, Lâm Thanh mấy độ đi về dặm khơi. Người một nơi hỏi một nơi, 2830 Mênh mông nào biết bể trời nơi nao? Sinh càng thảm thiết khát khao, Như nung gan sắt như bào lòng son. Ruột tằm ngày một héo don, Tuyết sương ngày một hao mòn hình ve. 2835 Thẩn thờ lúc tỉnh lúc mê, Máu theo nước mắt hồn lìa chiêm bao. Xuân huyên lo sợ biết bao, Quá ra khi đến thế nào mà hay! Vội vàng sắm sửa chọn ngày, 2840 Duyên Vân sớm đã se dây cho chàng. Người yểu điệu kẻ văn chương, Trai tài gái sắc xuân đương vừa thì, Tuy rằng vui chữ vu quy, Vui nào đã cất sầu kia được nào! 2845 Khi ăn ở lúc ra vào, Càng âu duyên mới càng dào tình xưa. Nỗi nàng nhớ đến bao giờ, Tuôn châu đòi trận vò tơ trăm vòng. Có khi vắng vẻ thư phòng, 2850 Đốt lò hương giở phím đồng ngày xưa. Bẻ bai rủ rỉ tiếng tơ, Trầm bay nhạt khói gió đưa lay rèm. Dường như bên nóc trước thềm, Tiếng kiều đồng vọng bóng xiêm mơ màng, 2855 Bởi lòng tạc đá ghi vàng, Tưởng nàng nên lại thấy nàng về đây. Những là phiền muộn đêm ngày, Xuân thu biết đã đổi thay mấy lần? Chế khoa gặp hội trường văn. 2860 Vương, Kim cùng chiếm bảng xuân một ngày. Cửa trời rộng mở đường mây, Hoa chào ngõ hạnh hương bay dặm phần. Chàng Vương nhớ đến xa gần, Sang nhà Chung lão tạ ân chu tuyền. 2865 Tình xưa ân trả nghĩa đền, Gia thân lại mới kết duyên Châu Trần. Kim từ nhẹ bước thanh vân, Nỗi nàng càng nghĩ xa gần càng thương. Ấy ai dặn ngọc thề vàng, 2870 Bây giờ kim mã ngọc đường với ai? Ngọn bèo chân sóng lạc loài, Nghĩ mình vinh hiển thương người lưu ly. Vâng ra ngoại nhậm Lâm Truy, Quan san nghìn dặm thê nhi một đoàn. 2875 Cầm đường ngày tháng thanh nhàn, Sớm khuya tiếng hạc tiếng đàn tiêu dao. Phòng xuân trướng rủ hoa đào, Nàng Vân nằm bỗng chiêm bao thấy nàng. Tỉnh ra mới rỉ cùng chàng, 2880 Nghe lời chàng cũng hai đường tin nghi. Họ Lâm Thanh với Lâm Truy, Khác nhau một chữ hoặc khi có lầm. Trong cơ thanh khí tương tầm, Ở đây hoặc có giai âm chăng là? 2885 Thăng đường chàng mới hỏi tra, Họ Đô có kẻ lại già thưa lên: Sự này đã ngoại mười niên, Tôi đà biết mặt biết tên rành rành. Tú Bà cùng Mã Giám Sinh, 2890 Đi mua người ở Bắc kinh đưa về. Thúy Kiều tài sắc ai bì, Có nghề đàn lại đủ nghề văn thơ. Kiên trinh chẳng phải gan vừa, Liều mình thế ấy phải lừa thế kia. 2895 Phong trần chịu đã ê chề, Tơ duyên sau lại xe về Thúc lang. Phải tay vợ cả phũ phàng, Bắt về Vô tích toan đường bẻ hoa. Rứt mình nàng phải trốn ra, 2900 Chẳng may lại gặp một nhà Bạc kia. Thoắt buôn về thoắt bán đi, Mây trôi bèo nổi thiếu gì là nơi! Bỗng đâu lại gặp một người, Hơn đời trí dũng nghiêng trời uy linh. 2905 Trong tay mười vạn tinh binh, Kéo về đóng chật một thành Lâm Truy. Tóc tơ các tích mọi khi, Oán thì trả oán ân thì trả ân. Đã nên có nghĩa có nhân, 2910 Trước sau trọn vẹn xa gần ngợi khen. Chưa từng được họ được tên, Sự này hỏi Thúc Sinh viên mới tường. Nghe lời đô nói rõ ràng, Tức thì đưa thiếp mời chàng Thúc Sinh. 2915 Nỗi nàng hỏi hết phân minh, Chồng con đâu tá tính danh là gì? Thúc rằng: Gặp buổi loạn ly, Trong quân tôi hỏi thiếu gì tóc tơ. Đại vương tên Hải họ Từ, 2920 Đánh quen trăm trận sức dư muôn ngườị Gặp nàng khi ở châu Thai, Lạ gì quốc sắc thiên tài phải duyên. Vẫy vùng trong bấy nhiêu niên, Làm nên động địa kinh thiên đùng đùng. 2925 Đại quân đồn đóng cõi đông, Về sau chẳng biết vân mồng làm sao. Nghe tường ngành ngọn tiêu hao, Lòng riêng chàng luống lao đao thẫn thờ. Xót thay chiếc lá bơ vơ, 2930 Kiếp trần biết giũ bao giờ cho xong? Hoa trôi nước chảy xuôi dòng, Xót thân chìm nỗi đau lòng hợp tan! Lời xưa đã lỗi muôn vàn, Mảnh hương còn đó phím đàn còn đây, 2935 Đàn cầm khéo ngẩn ngơ dây, Lửa hương biết có kiếp này nữa thôi? Bình bồng còn chút xa xôi, Đỉnh chung sao nỡ ăn ngồi cho an! Rắp mong treo ấn từ quan, 2940 Mấy sông cũng lội mấy ngàn cũng pha. Dấn mình trong án can qua, Vào sinh ra tử họa là thấy nhau. Nghĩ điều trời thẳm vực sâu, Bóng chim tăm cá biết đâu mà nhìn! 2945 Những là nấn ná đợi tin, Nắng mưa biết đã mấy phen đổi dờỉ Năm mây bỗng thấy chiếu trời, Khâm ban sắc chỉ đến nơi rành rành. Kim thì cải nhậm Nam bình, 2950 Chàng Vương cũng cải nhậm thành Châu dương. Sắm xanh xe ngựa vội vàng, Hai nhà cùng thuận một đường phó quan. Xảy nghe thế giặc đã tan, Sóng êm Phúc kiến lửa tàn Chiếc giang. 2955 Được tin Kim mới rủ Vương, Tiện đường cùng lại tìm nàng sau xưa. Hàng Châu đến đó bây giờ, Thật tin hỏi được tóc tơ rành rành. Rằng: Ngày hôm nọ giao binh, 2960 Thất cơ Từ đã thu linh trận tiền. Nàng Kiều công cả chẳng đền, Lệnh quan lại bắt ép duyên thổ tù. Nàng đà gieo ngọc trầm châu, Sông Tiền Đường đó ấy mồ hồng nhan! 2965 Thương ôi! không hợp mà tan, Một nhà vinh hiển riêng oan một nàng! Chiêu hồn thiết vị lễ thường, Giải oan lập một đàn tràng bên sông. Ngọn triều non bạc trùng trùng, 2970 Vời trông còn tưởng cánh hồng lúc gieo. Tình thâm bể thảm lạ điều, Nào hồn tinh vệ biết theo chốn nào? Cơ duyên đâu bỗng lạ sao, Giác Duyên đâu bỗng tìm vào đến nơi. 2975 Trông lên linh vị chữ bài, Thất kinh mới hỏi: Những người đâu ta? Với nàng thân thích gần xa, Người còn sao bỗng làm ma khóc người? Nghe tin ngơ ngác rụng rời, 2980 Xúm quanh kể lể rộn lời hỏi tra: Này chồng này mẹ này cha, Này là em ruột này là em dâu. Thật tin nghe đã bấy lâu, Pháp sư dạy thế sự đâu lạ thường! 2985 Sư rằng: Nhân quả với nàng, Lâm Truy buổi trước Tiền Đường buổi sau. Khi nàng gieo ngọc trầm châu, Đón nhau tôi đã gặp nhau rước về, Cùng nhau nương cửa bồ đề, 2990 Thảo am đó cũng gần kề chẳng xa. Phật tiền ngày bạc lân la, Đăm đăm nàng cũng nhớ nhà khôn khuây. Nghe tin nở mặt nở mày, Mừng nào lại quá mừng này nữa chăng? 2995 Từ phen chiếc lá lìa rừng, Thăm tìm luống những liệu chừng nước mây. Rõ ràng hoa rụng hương bay, Kiếp sau họa thấy kiếp này hẳn thôi. Minh dương đôi ngả chắc rồi, 3000 Cõi trần mà lại thấy người cửu nguyên! Cùng nhau lạy tạ Giác Duyên, Bộ hành một lũ theo liền một khi. Bẻ lau vạch cỏ tìm đi, Tình thâm luống hãy hồ nghi nửa phần. 3005 Quanh co theo dải giang tân, Khỏi rừng lau đã tới sân Phật đường. Giác Duyên lên tiếng gọi nàng, Buồng trong vội dạo sen vàng bước ra. Trông xem đủ mặt một nhà: 3010 Xuân già còn khỏe huyên già còn tươi. Hai em phương trưởng hòa hai, Nọ chàng Kim đó là người ngày xưa! Tưởng bây giờ là bao giờ, Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao! 3015 Giọt châu thánh thót quẹn bào, Mừng mừng tủi tủi xiết bao là tình! Huyên già dưới gối gieo mình, Khóc than mình kể sự tình đầu đuôi: Từ con lưu lạc quê người, 3020 Bèo trôi sóng vỗ chốc mười lăm năm! Tính rằng sông nước cát lầm, Kiếp này ai lại còn cầm gặp đây! Ông bà trông mặt cầm tay, Dung quang chẳng khác chi ngày bước ra. 3025 Bấy chầy dãi nguyệt dầu hoa, Mười phần xuân có gầy ba bốn phần. Nỗi mừng biết lấy chi cân? Lời tan hợp chuyện xa gần thiếu đâu! Hai em hỏi trước han sau, 3030 Đứng trông chàng cũng trở sầu làm tươi. Quây nhau lạy trước Phật đài, Tái sinh trần tạ lòng người từ bi. Kiệu hoa giục giã tức thì, Vương ông dạy rước cùng về một nơi. 3035 Nàng rằng: Chút phận hoa rơi, Nửa đời nếm trải mọi mùi đắng cay. Tính rằng mặt nước chân mây, Lòng nào còn tưởng có rày nữa không? Được rày tái thế tương phùng. 3040 Khát khao đã thỏa tấm lòng lâu nay! Đã đem mình bỏ am mây, Tuổi này gởi với cỏ cây cũng vừạ Mùi thiền đã bén muối dưa, Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng. 3045 Sự đời đã tắt lửa lòng, Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi! Dở dang nào có hay gì, Đã tu tu trót quá thì thì thôi! Trùng sinh ân nặng bể trời, 3050 Lòng nào nỡ dứt nghĩa người ra đi? Ông rằng: Bỉ thử nhất thì, Tu hành thì cũng phải khi tòng quyền. Phải điều cầu Phật cầu Tiên, Tình kia hiếu nọ ai đền cho đây? 3055 Độ sinh nhờ đức cao dày, Lập am rồi sẽ rước thầy ở chung. Nghe lời nàng cũng chiều lòng, Giã sư giã cảnh đều cùng bước ra. Một nhà về đến quan nha, 3060 Đoàn viên vội mở tiệc hoa vui vầy. Tàng tàng chén cúc dở say, Đứng lên Vân mới giãi bày một hai. Rằng: Trong tác hợp cơ trời. Hai bên gặp gỡ một lời kết giao. 3065 Gặp cơn bình địa ba đào, Vậy đem duyên chị buộc vào cho em. Cũng là phận cải duyên kim, Cũng là máu chảy ruột mềm chớ sao? Những là rày ước mai ao, 3070 Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình! Bây giờ gương vỡ lại lành, Khuôn thiêng lừa lọc đã dành có nơi. Còn duyên may lại còn người, Còn vầng trăng bạc còn lời nguyền xưa. 3075 Quả mai ba bảy đương vừa, Đào non sớm liệu xe tơ kịp thì. Dứt lời nàng vội gạt đi: Sự muôn năm cũ kể chi bây giờ? Một lời tuy có ước xưa, 3080 Xét mình dãi gió dầu mưa đã nhiều. Nói càng hổ thẹn trăm chiều, Thà cho ngọn nước thủy triều chảy xuôi! Chàng rằng: Nói cũng lạ đời, Dẫu lòng kia vậy còn lời ấy sao? 3085 Một lời đã trót thâm giao, Dưới dày có đất trên cao có trời! Dẫu rằng vật đổi sao dời, Tử sinh phải giữ lấy lời tử sinh! Duyên kia có phụ chi tình, 3090 Mà toan sẻ gánh chung tình làm hai? Nàng rằng: Gia thất duyên hài, Chút lòng ân ái ai ai cũng lòng. Nghĩ rằng trong đạo vợ chồng, Hoa thơm phong nhị trăng vòng tròn gương. 3095 Chữ trinh đáng giá nghìn vàng, Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa. Thiếp từ ngộ biến đến giờ. Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa. Bấy chầy gió táp mưa sa. 3100 Mấy trăng cũng khuyết mấy hoa cũng tàn. Còn chi là cái hồng nhan, Đã xong thân thế còn toan nỗi nào? Nghĩ mình chẳng hổ mình sao, Dám đem trần cấu dự vào bố kinh! 3105 Đã hay chàng nặng vì tình, Trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru! Từ rày khép cửa phòng thu, Chẳng tu thì cũng như tu mới là! Chàng dù nghĩ đến tình xa, 3110 Đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ. Nói chi kết tóc xe tơ, Đã buồn cả ruột mà dơ cả đời! Chàng rằng: Khéo nói nên lời, Mà trong lẽ phải có người có ta! 3115 Xưa nay trong đạo đàn bà, Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường, Có khi biến có khi thường, Có quyền nào phải một đường chấp kinh. Như nàng lấy hiếu làm trinh, 3120 Bụi nào cho đục được mình ấy vay? Trời còn để có hôm nay, Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời. Hoa tàn mà lại thêm tươi, Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa. 3125 Có điều chi nữa mà ngờ, Khách qua đường để hững hờ chàng Tiêu! Nghe chàng nói đã hết điều, Hai thân thì cũng quyết theo một bài. Hết lời khôn lẽ chối lời, 3130 Cúi đầu nàng những vắn dài thở than. Nhà vừa mở tiệc đoàn viên, Hoa soi ngọn đuốc hồng chen bức là. Cùng nhau giao bái một nhà, Lễ đà đủ lễ đôi đà xứng đôi. 3135 Động phòng dìu dặt chén mồi, Bâng khuâng duyên mới ngậm ngùi tình xưa. Những từ sen ngó đào tơ, Mười lăm năm mới bây giờ là đây! Tình duyên ấy hợp tan này, 3140 Bi hoan mấy nỗi đêm chầy trăng cao. Canh khuya bức gấm rủ thao, Dưới đèn tỏ rạng má đào thêm xuân. Tình nhân lại gặp tình nhân, Hoa xưa ong cũ mấy phân chung tình. 3145 Nàng rằng: Phận thiếp đã đành, Có làm chi nữa cái mình bỏ đi! Nghĩ chàng nghĩa cũ tình ghi, Chiều lòng gọi có xướng tùy mảy may. Riêng lòng đã thẹn lắm thay, 3150 Cũng đà mặt dạn mày dày khó coi! Những như âu yếm vành ngoài, Còn toan mở mặt với người cho qua. Lại như những thói người ta, Vớt hương dưới đất bẻ hoa cuối mùa. 3155 Khéo là giở nhuốc bày trò, Còn tình đâu nữa là thù đấy thôi! Người yêu ta xấu với người, Yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau! Cửa nhà dù tính về sau, 3160 Thì còn em đó lọ cầu chị đây. Chữ trinh còn một chút này, Chẳng cầm cho vững lại giày cho tan! Còn nhiều ân ái chan chan, Hay gì vầy cánh hoa tàn mà chơi? 3165 Chàng rằng: Gắn bó một lời, Bỗng không cá nước chim trời lỡ nhau. Xót người lưu lạc bấy lâu, Tưởng thề thốt nặng nên đau đớn nhiều! Thương nhau sinh tử đã liều, 3170 Gặp nhau còn chút bấy nhiêu là tình. Chừng xuân tơ liễu còn xanh, Nghĩ rằng chưa thoát khỏi vành ái ân. Gương trong chẳng chút bụi trần, Một lời quyết hẳn muôn phần kính thêm! 3175 Bấy lâu đáy bể mò kim, Là nhiều vàng đá phải tìm trăng hoa? Ai ngờ lại họp một nhà, Lọ là chăn gối mới ra sắt cầm! Nghe lời sửa áo cài trâm, 3180 Khấu đầu lạy tạ cao thâm nghìn trùng: Thân tàn gạn đục khơi trong, Là nhờ quân tử khác lòng người ta. Mấy lời tâm phúc ruột rà, Tương tri dường ấy mới là tương tri! 3185 Chở che đùm bọc thiếu chi, Trăm năm danh tiết cũng vì đêm nay! Thoắt thôi tay lại cầm tay, Càng yêu vì nết càng say vì tình. Thêm nến giá nối hương bình, 3190 Cùng nhau lại chuốc chén quỳnh giao hoan. Tình xưa lai láng khôn hàn, Thong dong lại hỏi ngón đàn ngày xưa. Nàng rằng: Vì mấy đường tơ, Lầm người cho đến bây giờ mới thôi! 3195 Ăn năn thì sự đã rồi! Nể lòng người cũ vâng lời một phen. Phím đàn dìu dặt tay tiên, Khói trầm cao thấp tiếng huyền gần xa. Khúc đâu đầm ấm dương hòa, 3200 Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh. Khúc đâu êm ái xuân tình, Ấy hồn Thục đế hay mình đỗ quyên? Trong sao châu nhỏ duềnh quyên, Ấm sao hạt ngọc Lam điền mới đông! 3205 Lọt tai nghe suốt năm cung, Tiếng nào là chẳng não nùng xôn xao. Chàng rằng: Phổ ấy tay nào, Xưa sao sầu thảm nay sao vui vầy? Tẻ vui bởi tại lòng này, 3210 Hay là khổ tận đến ngày cam lai? Nàng rằng: Ví chút nghề chơi, Đoạn trường tiếng ấy hại người bấy lâu! Một phen tri kỷ cùng nhau, Cuốn dây từ đấy về sau cũng chừa. 3215 Chuyện trò chưa cạn tóc tơ, Gà đà gáy sáng trời vừa rạng đông. Tình riêng chàng lại nói sòng, Một nhà ai cũng lạ lùng khen lao. Cho hay thục nữ chí cao, 3220 Phải người tối mận sớm đào như ai? Hai tình vẹn vẽ hòa hai, Chẳng trong chăn gối cũng ngoài cầm thơ. Khi chén rượu khi cuộc cờ, Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên. 3225 Ba sinh đã phỉ mười nguyền, Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy. Nhớ lời lập một am mây, Khiến người thân thích rước thầy Giác Duyên. Đến nơi đóng cửa cài then, 3230 Rêu trùm kẻ ngạch cỏ len mái nhà, Sư đà hái thuốc phương xa, Mây bay hạc lánh biết là tìm đâu? Nặng vì chút nghĩa bấy lâu, Trên am cứ giữ hương dầu hôm mai. 3235 Một nhà phúc lộc gồm hai, Ngàn năm dằng dặc quan giai lần lần. Thừa gia chẳng hết nàng Vân, Một cây cù mộc một sân quế hòe. Phong lưu phú quý ai bì, 3240 Vườn xuân một cửa để bia muôn đời Ngẫm hay muôn sự tại trời, Trời kia đã bắt làm người có thân. Bắt phong trần phải phong trần, Cho thanh cao mới được phần thanh cao. 3245 Có đâu thiên vị người nào, Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai, Có tài mà cậy chi tài, Chữ tài liền với chữ tai một vần. Đã mang lấy nghiệp vào thân, 3250 Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa. Thiện căn ở tại lòng ta, Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài. Lời quê chắp nhặt dông dài, Mua vui cũng được một vài trống canh.
Tác phẩm này, được phát hành trước ngày 1 tháng 1 năm 1929, đã thuộc phạm vi công cộng trên toàn thế giới vì tác giả đã mất hơn 100 năm trước.
Public domainPublic domainfalsefalse Lấy từ “https://vi.wikisource.org/w/index.php?title=Truyện_Kiều&oldid=176923” Thể loại:- 75%
- PVCC-cũ
- Lục bát
- Thơ Việt Nam
- Truyện Nôm
- Thơ Nôm
Từ khóa » Thuý Kiều Wiki
-
Thúy Kiều – Wikipedia Tiếng Việt
-
Truyện Kiều – Wikipedia Tiếng Việt
-
Thúy Kiều (diễn Viên) - Từ điển Wiki
-
Thúy Kiều - Tieng Wiki
-
Phân Tích Vẻ đẹp Của Chị Em Thúy Kiều
-
Dàn ý Cảm Nhận Về Vẻ đẹp Và Tài Năng Của Thuý Kiều Trong Chị Em ...
-
Truyện Kiều – Wikipedia Tiếng Việt - Bàn Làm Việc - Ghế Văn Phòng
-
Tập Tin:Tranh Chị Em Thúy Kiềg - Wikivoyage
-
Truyện Kiều - Bách Khoa Toàn Thư Mở Wikipedia - Nguyễn Du
-
Chị Em Thúy Kiều
-
Phân Tích Diễn Biến Tâm Trạng Của Thúy Kiều Trong đoạn Trích Trao ...
-
Tóm Tắt "Truyện Kiều" Của Nguyễn Du Ngắn Gọn - Wiki Cách Làm