Tu Luật Thánh Augustinô – Phần III: Giải Thích Tu Luật (p.1) - OSA Việt

Phần III:  GIẢI THÍCH TU LUẬT

NHẬP ĐỀ : GIỚI RĂN YÊU THƯƠNG

Trong những bản văn cổ xưa, hai số đầu tiên của Bản luật được xem như là lời giới thiệu cho bản Ordo monasterii. Ngày nay các học giả đã nhìn nhận hai số này thuộc về chính Tu luật thánh Augustinô. Do đó xét về mặt hình thức, chúng ta có thể xem như là phần nhập đề của Tu luật, và xét về nội dung, nó phát biểu ý tưởng then chốt của bản luật: đó là nhắm kiến tạo một cộng đoàn yêu thương. Các số kế tiếp chỉ đề ra các phương thế để thực thi lý tưởng đó.

1. HT NHÂN THEN CHT CA TU LUT

Số 1 : “Chị em rất thân yêu, trên hết mọi sự hãy yêu mến Thiên Chúa và rồi yêu thương tha nhân vì đó là những lệnh truyền được ban cho làm nền tảng”.

Luật cao cả nhất của đời sống đó là tình yêu : yêu mến Thiên Chúa và yêu thương người thân cận. Chính Chúa Giêsu đã tóm lược giới răn này : “Tất cả luật Môsê và các ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy” (Mt 22, 40). Thánh Phaolô cũng cho rằng “yêu người là chu toàn lề luật” (Rm 13, 8).

Đi tìm căn tính của Luật dòng, Công đồng Vatican II cũng khẳng định : “Theo Chúa Kitô là luật tối hậu của dòng tu” (PC số 2). Thánh Phanxicô mở đầu Bản luật của ngài cũng nói : “Luật và đời sống của các anh em hèn mọn là tuân giữ Phúc âm thánh của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta” (I, 2). Thánh Biển Đức cũng phát biểu nội dung tương tự với từ ngữ “phụng sự Chúa” (Prol. 45). Tất cả những lối diễn tả trên đây tuy khác nhau nhưng chỉ có chung một ý : tình yêu là điểm trọng yếu của đời sống Kitô hữu, cách riêng của đời sống tu trì.

Khi viết Tu luật, thánh Augustinô thích nhấn mạnh về tình yêu. Thật vậy, Bản luật hoàn toàn mang dấu nhấn của tình yêu. Tình yêu là ý tưởng chủ đạo của toàn bộ Tu luật : người luôn nhắc nhở chị em hãy đặt tình yêu lên vị trí hàng đầu, nhất là trong trường hợp sửa lỗi (số 26), khi phải ra hình phạt (số 27-28), hay là khi thi hành quyền bính (số 43-46). Trước khi kết thúc, nhà viết luật lại khuyên nhủ chị em phải giữ luật vì lòng yêu mến (số 48).

Bản luật mở đầu : “Chị em rất thân yêu, trên hết mọi sự hãy yêu mến …”. Tình yêu là điểm khởi đầu, là trung gian, và cùng đích của cuộc hành trình tiến về với Chúa và hướng đến anh chị em. Tình yêu (hay đức ái) luôn chiếm vị trí trung tâm trong học thuyết của thánh Augustinô. Người nói rất nhiều và rất sâu về đức ái do Chúa Thánh Thần đổ đầy trong tâm hồn các tín hữu. Tư tưởng này có thể tóm tắt như sau : tình yêu đối với Chúa và đối với tha nhân là nội dung của toàn bộ Sách thánh, là tổng hợp của triết lý, là đích điểm của thần học, là linh hồn của giáo dục học, là bí quyết của chính trị, là yếu tính và mức độ của sự hoàn hảo Kitô hữu, là tuyệt đỉnh của mọi nhân đức, là hứng khởi của ân sủng, là ơn ban xuất phát từ mọi linh ân[1].

Người thốt lên : “Có tình yêu là có tất cả” (In Jo. 32, 8). Tình yêu tóm lược toàn bộ Kinh thánh :

“Tình yêu chiếm một chỗ thật cao cả và trải rộng trong từng trang Kinh thánh. Vậy nếu bạn không có thì giờ đào sâu tất cả các trang Kinh thánh, hãy yêu đi … bạn sẽ đạt được những điều bạn đã học trong Kinh thánh và thậm chí, đạt được cả những điều bạn chưa học …Vì thế, ai có tình yêu trong cuộc sống thì sẽ có tất cả những điều được bày tỏ và còn ẩn giấu trong lời Chúa” (Serm. 350, 2-3)

 Câu nói nổi tiếng của thánh nhân “Yêu đi, rồi làm những gì bạn muốn” (In 1 Jo. 7-8) cũng giải thích điều này. Người còn thêm :

“Nếu bạn im lặng, hãy im lặng vì tình yêu; nếu bạn lên tiếng, hãy lên tiếng với tình yêu; nếu bạn sửa dạy, hãy sửa dạy bằng tình yêu, nếu bạn tha thứ, hãy tha thứ vì tình yêu […] Hãy để tình yêu đâm rễ trong bạn, và từ gốc rễ này chỉ có thể phát sinh điều tốt mà thôi” (ibid).

“Trên hết mọi sự hãy yêu mến Thiên Chúa và rồi hãy yêu thương tha nhân”. Có một thứ tự trong giới răn thương yêu : trước là mến Chúa, sau là yêu người. Thứ tự của Bản luật tuân theo lời dạy của Đức Kitô (x. Mc 12, 28-34).

Tình yêu đối với Chúa thì tuyệt đối và vô điều kiện, như thánh Augustinô đã phát biểu : “Đấng đã tạo dựng nên bạn thì muốn bạn thuộc trọn về Ngài” (In Mat. 22,37). Một đồ đệ của thánh nhân tên là Severus, trong thư gửi cho thầy mình để bàn về tình yêu Thiên Chúa, đã khẳng định một câu nổi tiếng : “Mức độ của tình yêu là tình yêu không mức độ” (Ep. 109, 2).

Nhưng hễ ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng yêu thương tha nhân. Thật vậy, chính Đức Kitô luôn nối kết hai giới răn thành một (Mt 22, 34-40). Tại sao ? Bởi vì luôn có một mối dây sâu xa nối kết Thiên Chúa và con người trên bình diện tự nhiên (sáng tạo) cũng như trên bình diện ân sủng. Để quảng diễn ý tưởng này, nhà thần học Augustinô thích nhấn mạnh hình ảnh Thân mình của Đức Kitô, trong đó Đầu (chính Đức Kitô) và các chi thể (các tín hữu) gắn kết với Ngài thật hữu cơ. Thánh nhân nói :

“Nếu bạn yêu cái Đầu thì bạn cũng sẽ yêu các chi thể, bởi vì nếu bạn không yêu các chi thể thì bạn cũng sẽ không yêu được cái Đầu” (In Jo. 10, 3).

Ngược lại, thánh nhân dùng một hình ảnh khác để minh hoạ cho sự chia cắt giữa tình yêu đối với Chúa và khinh dể người anh chị em, bằng một lối nói rất ý nghĩa như sau :

“Nó giống như một người vừa muốn hôn trán bạn vừa đạp lên chân bạn” (In 1Jo. 10, 8).

Hơn nữa, có khi người tỏ cho thấy tình yêu đối với tha nhân đi trước lòng yêu mến Chúa :

“Bắt đầu bằng tình yêu thứ hai để đến với tình yêu thứ nhất” (Serm, 265, 9). Người còn viết : “Tình yêu đối với Chúa là điều đầu tiên được truyền khiến cho chúng ta, còn tình yêu đối với anh em là điều đầu tiên mà chúng ta phải thực hành” (In Jo. 17, 8).

Tất nhiên, theo thứ tự của tầm quan trọng thì tình yêu đối với Chúa luôn luôn đi trước.

Trong thực tế, ở đây có một tiến trình xoay vòng : Tình yêu đối với Chúa đòi hỏi tình yêu đối với tha nhân, ví như ai đã yêu người cha thì cũng yêu người con (1Ga 5, 1). Ngược lại, tình yêu tha nhân cũng cần đến tình yêu đối với Chúa, ví như ai yêu người con thì cũng yêu cả người cha nữa. Augustinô quả quyết rằng :

“Ai không yêu Đấng đã dựng nên con người thì không yêu con người cách đúng đắn” (Ep. 258, 2); hoặc bằng một cách diễn tả tích cực hơn : “Ai yêu mến bạn mình thực tình thì cũng yêu mến Thiên Chúa ở trong người bạn của mình, bởi vì hoặc là Thiên Chúa đã ở trong người ấy hoặc là mong cho Thiên Chúa ở trong người ấy” (Serm. 336, 2, 2).

2. TU LUT MANG TÍNH THC HÀNH

Số 2 : “Vậy đây là những chỉ thị chúng tôi truyền cho chị em sống trong đan viện”.

Tiếp theo số mở đầu mang tính thần học, số thứ hai được coi như nút dây chuyển tiếp sang Bản luật, muốn cho thấy Tu luật gồm những quy định sống cụ thể chứ không phải những nguyên tắc lý thuyết.

Dựa theo lời lẽ của số này mà ngày nay một số học giả muốn trở về với hạn từ Praeceptum (có nghĩa là chỉ thị hay mệnh lệnh), để gọi bản luật (thay vì Regula).

CHƯƠNG I : MỤC ĐÍCH VÀ NỀN TẢNG CỦA ĐỜI SỐNG CHUNG

Chương thứ I của Tu luật là chương quan trọng nhất, gói ghém những điều then chốt của đời sống tu trì : trước hết là hiệp thông trong tâm hồn; kế đó là hiệp thông trong của cải; tiếp đến là sự khiêm nhường và lòng tôn kính Thiên Chúa trong người chị em là thái độ căn bản của người tu sĩ.

1. HIỆP THÔNG TRONG TÂM HỒN

Số 3 : “Lý do chính yếu mà chị em đoàn tụ làm một là để sống đồng tâm nhất trí trong một nhà, và để chị em chỉ có một lòng một ý hướng về Thiên Chúa”.

“Chỉ có một lòng một ý”. Không có một lý tưởng nào tốt đẹp hơn ! Thực sự đó là ơn gọi của mỗi người chúng ta. Chỉ trong sự hiệp thông mới có hạnh phúc, cũng như trong đời sống hôn nhân “cả hai sẽ trở nên một xương một thịt” (Mc 10, 8; St 2, 24) thì cũng vậy đời sống tu trì phải “một lòng một ý” với nhau.

Thật vậy, cộng đoàn là diễn nghĩa của đời sống Thiên Chúa Ba ngôi. Cộng đoàn tu trì là biểu tượng của sự hiệp thông Ba trong Một (đời sống gia đình cũng vậy). Đối với thánh Augustinô, nếu ba ngôi vị hiệp thông với nhau thành một Thiên Chúa duy nhất, thì trong đời sống tu trì, nhiều người hiệp lại thành “một lòng một ý” (Ep. 238, 16). Nhân tố làm nên sự hiệp thông Ba Ngôi là Chúa Thánh Thần. Ngài chính là mối giây ràng buộc Cha và Con, và cũng chính Ngài trong ngày lễ Ngũ tuần đã hiệp nhất các tín hữu đầu tiên thành một Giáo hội duy nhất, nơi đó “chỉ có một lòng một ý” ngự trị. Như vậy, sự hiệp nhất Giáo Hội và cộng đoàn là công trình và hoa trái của Chúa Thánh Thần. Chính khi bàn đến sự hiệp nhất cộng đoàn mà thánh Augustinô đã gán thêm một ý nghĩa mới cho từ monachus : trước đây, danh từ này vốn được hiểu như người ẩn sĩ đi tìm một mình Chúa (đan tu), nhưng Người tán giải rằng đó là người sống một lòng một ý với anh em (In Ps. 132,6).

Tu luật nói chị em “sống đồng tâm nhất trí một nhà” (số 3). Thật vậy, không phải ngôi nhà tạo nên cộng đoàn, nhưng chính là tâm hồn chị em. Nếu chỉ sống dưới cùng một mái nhà mà thôi thì đâu khác chi một khách sạn ? Việc sống chung là cần thiết nhưng chưa đủ; cần phải cùng nhau chia sẻ một chương trình, một kế hoạch chung.

Thánh Augustinô quảng diễn lý tưởng của đời sống tu trì cộng đoàn trong khi chú giải thánh vịnh 132 như sau :

“Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay, anh em được sống vui vầy bên nhau (Tv 132,1). Những lời Thánh vịnh này nghe sao thật ngọt ngào, giai điệu thật du dương ngân vang trong lời ca và trong tâm trí, mở toang cánh cửa cho cộng đoàn tu trì… Vì thế câu hát này là tiếng kèn vang vọng cho thế giới, cho những người tản mác bắt đầu quy tụ lại. Tiếng kêu thần linh sẽ làm cho toàn thể thế giới cảm kích, đó là tiếng kêu của Chúa Thánh Thần, tiếng kêu của các ngôn sứ…” (In Ps. 132, 2).

Đến đây chúng ta không thể không nói đến ý nghĩa của tình bạn trong đời tu. Tình bạn là một nỗi đam mê lớn trong cuộc đời của thánh Augustinô. Không ít học giả đã cống hiến công trình nghiên cứu cho đề tài nổi bật này của Augustinô. Các tác giả tóm lược tình bạn cao quý ấy vào 3 điểm sau đây[2] :

–  Thánh Augustinô cảm nhận sâu xa từ trong tâm hồn mỗi người nhu cầu có một tình bạn và muốn trân trọng nó.

–  Người đã du nhập lý tưởng cổ điển về tình bạn vào trong cộng đoàn Kitô hữu, chứng tỏ cho thấy người Kitô hữu có thể tìm thấy sự trọn lành, hoàn hảo trong lý tưởng tình bạn. Đóng góp này quả là bước quyết định cho sự phát triển tư tưởng Kitô giáo về tình bạn.

–   Ngài đã đưa lý tưởng tình bạn vào đan viện.

1) Nhu cầu và lòng ngưỡng mộ tình bạn

Nếu không có tình bạn, thánh Augustinô đã không cảm nhận được ý vị của cuộc đời. Nếu không có tình bạn, cuộc sống của ngài cảm thấy trống rỗng, vô vị và tối tăm. Thật vậy, sau cái chết đột ngột của một người bạn mà người say yêu nhất từ thời niên thiếu, người đã có một tình bạn “ngọt ngào” với Alipio, Nebridio, Evodio, Seveo, Profuturo, Possidio và nhiều bạn khác ở Phi châu và ở những nơi khác xa xăm. Vào lúc cuối đời, chung quanh giường bệnh luôn luôn có mặt những kẻ mà người đã yêu mến và được họ yêu lại : là các giám mục, bạn đồng nghiệp, những kẻ ngưỡng mộ.

Tình huynh đệ trong đời tu còn cao quý hơn cả tình bạn, nhưng không loại trừ tình bạn hữu. Trái lại, trong Tự Thuật, chúng ta có thể thấy những trang mô tả tuyệt đẹp về tình bạn :

“Có nhiều điều khác làm con say mê tâm tình bạn hữu như: chuyện trò cười đùa với nhau và tỏ tình hào hiệp cho nhau; cùng nhau đọc những trang sách hay; đùa giỡn với nhau, tôn trọng lẫn nhau; thỉnh thoảng bất đồng ý kiến với nhau, nhưng không cay cú như thường xảy ra, và chính sự bất đồng ý kiến rất hoạ hiếm đó càng làm nổi bật sự đồng tâm nhất trí thường xuyên với nhau; dạy bảo và học hỏi lẫn nhau, nhớ mong người vắng mặt, vui vẻ đón tiếp người mới trở về. Từ tâm hồn những kẻ yêu và được yêu lại, các dấu hiệu ấy và các dấu hiệu khác tương tự được biểu lộ qua miệng, lưỡi, con mắt và trăm ngàn cử chỉ rất nhã nhặn khác. Thật là như những ngọn lửa nung nấu tâm hồn làm cho nhiều người hoà hợp nên một” (Conf. 4, 8, 13).

Người viết về người bạn Nebridio như sau :

“”Nebridio đã rời bỏ quê quán gần Cartagine, và cả Cartagine là nơi anh năng lui tới. Anh từ bỏ lại gia sản giàu có của cha, bỏ lại nhà cửa và mẹ, không muốn theo anh, mà đến Milanô, không vì lý do nào khác là được sống với con trong sự say mê tìm kiếm chân lý và sự khôn ngoan” (Conf. 6,10,17).

Và kể về Severo :

“Anh biết tôi như tôi biết chính tôi… anh là một linh hồn khác của tôi; còn hơn thế nữa, linh hồn anh và linh hồn tôi không gì khác hơn là chỉ có một” (Ep 110,2-4).

Sau nhiều năm được an ủi sống trong tình bạn, người viết lên câu triết lý này : “Trong tất cả những gì mang tính con người, thì không có gì quý giá bằng có một người bạn” (Ep 120,2,4).

2) Lý tưởng tình bạn trong đời sống Kitô hữu

Do bởi ơn ban và như một ơn gọi, thánh Augustinô đã hiểu biết sâu xa các tác phẩm và lý tưởng tình bạn của người xưa, đặc biệt nhờ tiếp xúc với cuốn sách nói về Tình bạn của ông Cicêro. Khi trở thành Kitô hữu, người vận dụng tài năng của mình để chứng tỏ rằng trong Kitô giáo, lý tưởng tình bạn cũng thật lớn lao như trong văn hoá đương thời. Người đã đào sâu ý niệm, đặc tính và cứu cánh của tình bạn, và đặc biệt người nhấn mạnh rằng nền tảng của tình bạn là tình yêu đối với Chúa :

“Ai yêu bạn mình thực sự là yêu Thiên Chúa ở trong người bạn đó, bởi vì Thiên Chúa ở trong người bạn đó” (Serm.  336, 2).

Theo đó tình bạn do chính Thiên Chúa thắt chặt bằng ân sủng của Ngài. Không có tình bạn chân chính nếu tình bạn đó không do Chúa nối kết giữa chúng ta với những người khác bằng sợi dây yêu thương đong đầy con tim chúng ta, nhờ tác động của Chúa Thánh Thần mà chính Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Hơn nữa tình bạn chân chính chỉ có sự liên kết và sức mạnh nơi Đức Kitô. Tình bạn sẽ không chân thực nếu không phát xuất từ lòng quý mến, và sẽ không bền vững nếu không ở trong Đức Kitô.

Tình bạn tự bản chất bao gồm hai đặc tính trung thành và vĩnh viễn. Nếu bạn và tôi cùng tuân giữ giới răn yêu thương của Chúa đến mức trung thành tối đa thì tình bạn của chúng ta sẽ chân thành và vĩnh cửu, nó sẽ kết hợp chúng ta lại, không chỉ trong mức độ người này ở trong người kia mà còn ở trong chính Chúa. Ngoài ra tình bạn còn có hai đặc tính khác là tin tưởng và tự do (xem Lá thư 73 và 82 thánh Augustinô hồi âm cho thánh Giêrônimô).

3) Lý tưởng tình bạn trong đời sống đan viện

Thánh Augustinô đã suy tư về tình bạn trong đời đan tu. Ở đây tình bạn cũng mang những đặc tính đã nói : trung thành và vĩnh viễn, tín nhiệm và tự do :

–  Tình bạn làm nền cho đời tu : “Tất cả mọi sự làm của chung” (số 4)

–  Tình bạn là trung tâm của đức ái : “Chị em hãy sống đồng tâm nhất trí với nhau” (số 9)

–  Tình bạn như là khởi hứng cho sự hiệp thông tròn đầy (số 3)

Nhưng một tình bạn để trở nên đúng đắn và sống động trong đời tu phải đặt nền tảng trên sự thật. Không thể xây dựng một tình bạn vững chắc trên sự giả dối; tình bạn không thể thực hiện xung quanh sự bất chính. Thánh Augustinô đã khẳng định rất rõ điều này : “Để làm bạn của ai đó thì trước hết cần phải là bạn của sự thật” (Ep. 155,1). Thật đúng như vậy, nền tảng sự thật sẽ cho phép chị em và bạn bè sửa lỗi cho nhau như chúng ta sẽ thấy trong những chương sau. Thật vậy, yêu mến người khác là muốn điều tốt cho người khác dù cho điều đó thật đắt giá.

2. HIỆP THÔNG TRONG CỦA CẢI : LUẬT CỦA CÁC TÔNG ĐỒ VÀ CỦA CÁC TÍN HỮU TIÊN KHỞI

Số 4 : “Chị em đừng nói : “cái này của tôi”, nhưng tất cả đều là của chung cho chị em. Bề trên sẽ phân phát của ăn áo mặc cho mỗi người, nhưng không phải ai cũng như nhau, vì không phải tất cả chị em đều khoẻ mạnh như nhau, nhưng ai cần bao nhiêu sẽ cho bấy nhiêu. Thật vậy chị em đọc thấy trong sách Công vụ Tồng đồ : ‘Họ để mọi sự làm của chung và phân phát cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu của mình’”.

Cần phải ý thức rằng chúng ta là những con người chứ không phải là các thiên thần. Chúng ta mang lấy một thân xác với tất cả những gì là thiết yếu vật chất. Chắc chắn không có sự hiệp nhất trong tâm hồn thì đời tu không thể có sự sống; nhưng nếu thiếu sự hiệp nhất cụ thể về của cải vật chất thì hiệp thông tinh thần trở thành gian dối và giả hình. Như vậy khi để mọi sự làm của chung, sự hiệp thông giữa các tâm hồn trở thành hữu hình và nhập thể, đồng thời hiệp thông của cải cũng là điều kiện và con đường dẫn đến sự hiệp nhất đời tu.

Khoản Tu luật trên cho thấy rõ ràng tổ chức kinh tế của cộng đoàn tu trì đứng trên hai cột trụ : để mọi sự làm của chung và phân phát của cải cho cân xứng với nhu cầu. Nó hoạ lại đời sống của các Kitô hữu tiên khởi được mô tả trong sách Công vụ tông đồ về vấn đề sử dụng của cải với nguyên tắc cơ bản là: “bình đẳng trong sự khác biệt”. Bình đẳng vì mỗi người đều được hưởng dùng của cải, nhưng khác biệt theo cách phân phối cân xứng với nhu cầu của mỗi người.

Qua việc đề cao lý tưởng của sách Công vụ tông đồ (4,32.35), Tu luật thánh Augustinô được mang danh là Luật của các Tông đồ (Regula apostolorum).

Tác giả bản Tu luật xác tín rằng nếu không có sự hiệp thông về của cải vật chất thì không có cộng đoàn đích thực. Tại sao thế ?

Theo ông, việc tư hữu của cải sẽ gây ra chia rẽ, “của chung nối kết, của riêng phân ly” :

“Khi lãnh quyền tư hữu người ta sẽ kiêu căng” (In Ps. 131, 7).

Nó là nguồn gốc của mọi sự xung đột :

“Do bởi tư hữu mà xảy ra cãi vã, thù nghịch, bất hoà, chiến tranh giữa con người, mâu thuẫn với bản thân, cớ vấp phạm, tội lỗi, giết người,… hạnh phúc cho những ai không vui mừng vì có cái gì làm sở hữu, bởi vì làm như thế họ thay chỗ cho Thiên Chúa” (In Ps. 135, 5)

Về điểm này, nhiều thần học gia, cổ cũng như hiện đại, chủ trương rằng chủ nghĩa xã hội bắt nguồn từ Kitô giáo.

Không tư hữu là để đảm bảo sống đời đạm bạc, chị em sẽ nhận lãnh những cái thiết yếu từ tay Bề trên. Bản luật nói : “Bề trên của chị em sẽ phân phát của ăn áo mặc cho mỗi người trong chị em…” Của ăn áo mặc là kiểu nói tiêu biểu ám chỉ những điều thiết yếu nhất cho cuộc sống. Ví dụ trong thư thứ nhất Timôthêô, thánh Phaolô viết : “Nếu có cơm ăn áo mặc, ta hãy lấy thế làm đủ” (1 Tm 6, 8). Truyền thống Kitô giáo phác hoạ mẫu sống lý tưởng của sự nghèo khó Phúc âm.

Nếu cộng đoàn giàu có mà cá nhân tu sĩ nghèo nàn cũng là một mối nguy. Thánh Phanxicô đã thấy điều đó và sẵn sàng làm tất cả để sự nghèo khó cũng mang tính tập thể. Người không chỉ muốn cá nhân tu sĩ nghèo nhưng muốn cả cộng đoàn nghèo nữa. Công đồng Vatican II đã nhắc nhớ chúng ta bài học này :

“Chính các Hội dòng, tuỳ theo hoàn cảnh địa phương, hãy nỗ lực với tư cách tập thể làm chứng về đức khó nghèo… mặc dù các Hội dòng có quyền sở hữu tất cả những gì cần thiết để sống ở đời này và để hoạt động… nhưng hãy tránh khỏi mọi hình thức xa hoa trục lợi quá đáng hoặc thu tích dư dật” (PC 13).

Theo thánh Augustinô, quan niệm sống tinh thần thanh bần “để mọi sự làm của chung” không có nghĩa là mở ra cánh cửa cho các cộng đoàn giàu có xuất hiện, mà luôn luôn ngụ ý “để mọi sự làm của chung” là giới hạn sử dụng những cái thiết yếu nhất và biết chia sẻ cái còn dư thừa cho người nghèo hơn.

SỰ LỘT BỎ: CÁNH CỔNG ĐI VÀO ĐỜI TU

Số 5 : “Ai khi còn ở ngoài đời có cái gì, thì khi gia nhập đan viện phải sẵn sàng để làm của chung”.

Ở đây chúng ta không nghe nội dung của lời kêu gọi sống bác ái chia sẻ đối với người nghèo : “Hãy đi và bán hết tất cả những gì anh có mà cho kẻ nghèo…” (Mc 10, 21) mà thoạt thấy đâu đây vang vọng lời của sách Công vụ : “Tất cả những người có ruộng đất, nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền đem đặt dưới chân các Tông đồ” (Cv 4, 34-35). Khó nghèo luôn luôn mang ý nghĩa là giũ bỏ và giải phóng tinh thần mình khỏi sự khống chế của vật chất. Tuy nhiên, theo thánh Augustinô, việc từ bỏ của cải không phải là chuyển sang phân phối của cải cho người nghèo cho bằng nhượng lại quyền sử dụng và tư hữu cho cộng đoàn. Thật vậy, nghèo khó không có nghĩa là ‘không có của” nhưng là “có của chung”.

CÁM DỖ CỦA NGƯỜI NGHÈO TRONG ĐỜI TU

Số 6 : “Còn ai khi trước không có gì, thì đừng tìm trong đan viện những gì không thể có khi mình còn ở ngoài đời. Tuy vậy phải cung cấp cho họ những gì họ cần, cho dù khi còn ở ngoài đời họ nghèo đến nỗi không thể liệu được những thứ thiết yếu. Dù sao họ đừng nghĩ mình hạnh phúc vì tìm được của ăn áo mặc mà khi còn ở ngoài đời mình không thể tìm được”.

Bản Tu luật thật là hiện thực đối chiếu với hoàn cảnh cụ thể của các cộng đoàn thời đó. Các đan viện ngày xưa đón nhận vào cộng đoàn tất cả mọi người, giàu cũng như nghèo, nghị sĩ và nô lệ, ông chủ và nhân công (thợ thủ công và người làm ruộng), cho nên luôn luôn có một sự chênh lệch giai cấp giữa những người xuất thân từ hoàn cảnh xã hội khác nhau trong cùng một cộng đoàn. Chính thánh Augustinô cũng thuộc vào tầng lớp trung lưu thời đó bởi vì là con của một tiểu công chức.

Trong tác phẩm De opere monachorum (Công việc của các đan sĩ) thánh nhân mô tả những điều kiện xã hội của người gia nhập đan viện như sau :

“Đa số họ xuất thân từ thân phận nô lệ hoặc là những người đã được phóng thích… nông dân, người thợ thủ công. Sẽ là một tội phạm nếu ta không tiếp nhận họ, bởi vì ‘Thiên Chúa đã chọn trong thế gian những gì là yếu đuối’ (1Cr 1, 27). Tư tưởng đạo đức và thánh thiện này mở cửa đan viện cho cả những ai không chứng tỏ đã hoán cải hoặc trở nên tốt hơn. Chúng ta không biết họ đến với ý định phụng sự Chúa hay là để trốn tránh cuộc sống nghèo khổ, cơ cực, để được đảm bảo có của ăn áo mặc và cũng để được người đời tôn trọng, mà trước đây họ bị người ta khinh dể và xua đuổi” (22, 25).

Chúng ta có thể tưởng tượng biết bao vấn đề về đời sống chung tất yếu sẽ xảy ra. Những người giàu thì hy sinh dâng những lợi nhuận riêng tư cho cộng đoàn cách quảng đại, còn người nghèo thì lợi dụng để hưởng nhờ. Thánh Augustinô đối diện với vấn đề này rất thẳng thắn và dứt khoát.

Đối với thánh Augustinô, cám dỗ đầu tiên của người nghèo trong cuộc sống tu trì là lòng tham lam và ước vọng cao xa. Họ muốn có nhiều hơn khi họ còn ở ngoài đời, họ muốn tích luỹ đồ dùng. Vị thánh tiến sĩ xác tín rằng giải thoát họ khỏi cám dỗ giữ tiền bạc thì không đủ, điều cần thiết và trên hết là giải thoát khỏi tính tham lam là gốc rễ của sự tích luỹ tiền bạc. Điều quan trọng là sự khó nghèo trên bình diện tinh thần, nghĩa là không bám víu và ham muốn. Cần phải nghèo xét về mặt không chiếm giữ tài sản đã vậy, nhưng hơn thế nữa, cần phải nghèo xét về mặt không quyến luyến với cái đang có hoặc ham muốn có nhiều hơn nữa. Khó nghèo Phúc âm bao gồm cả hai chiều kích đó.

Như vậy Bản luạt vạch mặt cho thấy mối nguy của người nghèo trong đời tu là đi tìm phương tiện thăng tiến bản thân về mặt kinh tế và xã hội. Đó là lý do vì sao Tu luật viết : “Còn ai khi trước không có, thì đừng tìm trong đan viện những gì không thể có khi mình còn ở ngoài”. Như vậy họ phải tiếp tục sống cảnh túng quẫn trong đan viện mãi sao ? Chắc chắn là không, bởi vì họ được bảo đảm những thứ thiết yếu, cho dù xem ra họ đã có phần thăng tiến so với điều kiện sống của họ trước đây.

Bản luật cũng cảnh báo một nguy cơ thứ hai của các đan sĩ xuất thân từ gia đình nghèo là tìm sự an nhàn. Sự thực là trong cộng đoàn có một số người biếng nhác không muốn làm việc. Đó là tình trạng mà trong sách De opere monachorum, thánh Augustinô nhắc đến : có người vào dòng chỉ để tìm “của ăn ngon quần áo ủi đẹp”. Trong trường hợp này đan viện và đời tu trở thành một phương tiện sinh nhai. Cha Hugues de Saint-Victor cũng nói rất rõ về điểm này khi suy tư về tình trạng của đời tu thời Trung cổ : “Nhiều người đi tu không phải vì khao khát phần rỗi các linh hồn nhưng để thoả mãn những nhu cầu của thân xác. Họ không phục vụ Chúa nhưng phục vụ cái bụng của mình”. Bản Tu luật nói đến “của ăn áo mặc” và những người làm như thế thì “nghĩ mình hạnh phúc” phải được đọc trong bối cảnh đó.

Chắc chắn ngày nay cám dỗ này không đến nỗi nặng nề, dù vậy đời tu vẫn còn những dấu hiệu cho thấy mối lo ngại làm vẩn đục đời sống chứng nhân của đời thánh hiến : một số người vào dòng chấp nhận đời sống khó khăn thanh đạm, nhưng có những người khác lại tìm kiếm một cuộc sống an nhàn, ổn định.

Số 7 : “Đừng vênh váo vì được hợp đoàn với những người mà xưa kia ở ngoài đời mình không thể đến gần. Nhưng hãy hướng lòng lên và đừng tìm kiếm những gì phù phiếm thế gian : kẻo đan viện nên hữu ích cho người giàu, mà không cho người nghèo, nếu ở đó người giàu thì khiêm nhường còn người nghèo lại kiêu ngạo”.

Tự mãn là cám dỗ khác của các đan sĩ mà trước kia họ là những người nghèo. Thật vậy, đời tu đăt họ vào tương quan với giai cấp “nổi tiếng”, cho dù chỉ nổi tiếng vì sự thánh thiện. Đan viện ban cho các đan sĩ xuất thân từ giai cấp thấp hèn một địa vị cao hơn, và điều đó có thể tạo nên đà nhún để leo lên chỗ danh vọng.

Bản luật mạnh mẽ chống lại sự lợi dụng không trong sáng, làm méo mó lý tưởng đời tu : “Kẻo đan viện nên hữu ích cho người giàu, mà không cho người nghèo”, vì thế nhà viết Tu luật khuyên nhủ những người nghèo đừng tự mãn. “Hãy hướng lòng lên” chứ không phải là “hãy vênh váo lên”. Thái độ khiêm nhường chính là thái độ của người nghèo. Trong một bài giảng khác thánh Augustinô thiết tha kêu gọi :

“Ôi người nghèo ! Cả bạn nữa cũng hãy là người nghèo. Tôi có ý muốn nói là khiêm nhường” (Serm 14, 3-5)

CÁM DỖ CỦA NGƯỜI GIÀU TRONG ĐỜI TU

Số 8 : “Đàng khác, ai khi còn ở ngoài đời có được sự kính trọng thế nào đi nữa thì đừng khinh bỉ các chị em của mình vốn nghèo khó nhưng đã gia nhập cộng đoàn thánh thiện này. Đúng hơn phải hãnh diện không phải vì cha mẹ giàu sang quyền quý, nhưng vì được sống chung với chị em nghèo. Đừng khoe khoang vì đã chuyển nhượng một phần tài sản của mình cho cộng đoàn; đừng kiêu căng vì đã phân chia của cải cho đan viện, thay vì hưởng dụng ngoài đời. Thật vậy, các nết xấu khác thì thúc đẩy người ta làm việc xấu, còn tính kiêu ngạo lại xâm nhập vào cả việc tốt để làm cho việc tốt hư đi. Có ích chi nếu ta từ bỏ của cải để phân phát cho người nghèo và trở nên nghèo nhưng linh hồn khốn nạn lại trở nên kiêu căng hơn vì khinh chê của cải hơn khi sở hữu ?

Bản luật cho thấy cơn cám dỗ đầu tiên của người giàu là khinh thị những chị em tầm thường nhất trong cộng đoàn. Trong cộng đoàn luôn luôn có những người tầm thường giản dị, thiếu học thức, thiếu văn hoá, xuất thân từ hoàn cảnh nghèo hoăc tuổi cao sức yếu. Bản luật đưa ra một toa thuốc quí giá đối nghịch lại : “Đúng hơn phải hãnh diện … vì được sống chung với chị em nghèo”. Người ta cũng đọc thấy trong bản dự thảo Luật Dòng của Thánh Phanxicô ý tưởng này :

“Anh em phải vui mừng khi sống giữa những người kém văn hoá và bị khinh khi, giữa những người nghèo khổ và yếu đuối, giữa những người đau yếu và bệnh phong cùi, giữa những người ăn xin trên đường phố”.

Cách sống như vậy có một lý do thần học sâu sắc, đó là Thiên Chúa đã chọn những người nghèo :

“Những gì thế gian cho là điên dại thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh” (1Cr 1, 27). “Thiên Chúa đã chọn những kẻ nghèo khó trước mặt người đời để họ trở nên người giàu đức tin và thừa hưởng vương quốc Người đã hứa cho những ai yêu mến người hay sao ?” (Gc 2, 5)

Nguy hiểm thứ hai của tu sĩ giàu có trước khi vào dòng là tự mãn về những của cải mình đã dâng cho nhà dòng. Tu luật cảnh tỉnh họ về một hình thức nguy hiểm của tính kiêu ngạo, đó là tính tự mãn thiêng liêng. Đây cũng chính là sự tự mãn của người Biệt phái, huênh hoang về việc bố thí mình đã làm (Mt 6, 3-4), về việc ăn chay và dâng cúng cho đền thờ (Lc 18, 12). Đức Giêsu đã lên án thái độ này.

Tu luật còn nói tiếp về sức huỷ hoại của lòng kiêu ngạo : “Thật vậy, các nết xấu khác thì thúc đẩy người ta làm việc xấu, còn tính kiêu ngạo lại xâm nhập vào cả việc tốt để làm cho việc tốt hư đi”. Đây chính là cái đặc trưng của tính kiêu ngạo : nó không phải là quả độc, nhưng tệ hơn nữa nó là con giòi độc ở trong trái ngon. Phúc âm không chỉ trích người thâu thuế tội lỗi thì biết xưng thú ăn năn, nhưng người Biệt phái tự đắc nghĩ mình là công chính. Sự ngạo mạn không chỉ huỷ hoại cái xấu xa mà còn phá huỷ chính cái tốt nữa. Đây là sức mạnh tàn phá của kiêu ngạo mà thánh Augustinô đã có lần nói tới trong một lá thư khác : “Những nết xấu khác thì đáng sợ vì tội lỗi; trái lại, tính kiêu ngạo thì đáng sợ vì nằm trong cả việc tốt” (Ep. 118, 22)

Thánh Augustinô cho thấy rằng một người giàu biết khiêm nhường còn hơn một người nghèo mà kiêu ngạo : “Có ích chi nếu ta từ bỏ của cải để phân phát cho người nghèo và trở nên nghèo, nhưng linh hồn khốn nạn lại trở nên kiêu căng hơn vì khinh chê của cải hơn khi sở hữu ?. Ngài cũng nói ở chỗ khác bằng lối nói so sánh và tương phản : “Một người lập gia đình khiêm nhường thì tốt hơn nhiều một tu sĩ kiêu ngạo” (De sancta virginitate, 51, 52). Tư tưởng này có lẽ đã được một giám mục là Optatus Milevi phát biểu trước đó : “Thà một tội lỗi với lòng khiêm nhường thì còn hơn sự thanh sạch kiêu ngạo” (Contra Donatistas, II). Đức Giêsu đã chẳng nói như vậy khi đối chiếu đứa con “hoang đàng” với đứa con “luôn luôn làm điều tốt” đó sao (Lc 15,25-32) ?

Tóm lại, đối với thánh Augustinô, không thể có cộng đoàn đích thực nếu không có đức khiêm nhường. Nhân đức này là nền móng thiêng liêng để xây dựng nên cộng đoàn. Chỉ có lòng khiêm nhường mới duy trì được sự hiệp nhất và sự khác biệt. Thánh nhân nói : “Ở đâu có khiêm nhường ở đó có bác ái” (In 1Jo, prol.). Người nhấn lại nhiều lần nhân đức này trong một lá thư viết cho người bạn :

“Dioscoro thân mến, để đến với sự thật, con đường đầu tiên là khiêm nhường, con đường thứ hai là khiêm nhường và con đường thứ ba vẫn là khiêm nhường. Mỗi lần bạn hỏi tôi về điều này thì tôi sẽ mãi mãi trả lời như vậy” (Ep. 118, 3, 22).

Đức “khiêm nhường” không phải khẩu hiệu thời trang của thời đại chúng ta, thậm chí ngay cả nơi người Kitô hữu. Có lẽ bởi vì người ta đã lạm dụng nó, nhất là với mục đích chế ngự người khác. Ngày nay người ta thích thay thế nó bằng những từ khác như : từ tốn, bình dị, phục vụ… Thực ra từ ngữ không quan trọng cho bằng thực chất. Tuy nhiên điều chắc chắn là khiêm nhường được hiểu đúng nghĩa sẽ không bao giờ có nghĩa là sự “nhỏ nhen ti tiện” như thánh Augustinô nói : “Ở đâu có khiêm nhường, ở đó thật cao cả” (ubi humilitas, ibi majestas) (Serm 160, 4)

3. TÔN KÍNH THIÊN CHÚA NƠI NGƯỜI KHÁC

Số 9 : “Vậy hết thảy chị em hãy sống đồng tâm nhất trí, hoà thuận với nhau; hãy tôn kính Thiên Chúa ở chị em, vì chị em là đền thờ của Người”.

Ngay từ số nhập đề, Tu luật xác định động lực quy tụ các phần tử trong cộng đoàn lại với nhau là yếu tố siêu nhiên, là “đi tìm Thiên Chúa” (sit vobis anima una et cor unum in Deum : số 1). Theo linh đạo của Augustinô, Thiên Chúa là đích điểm của cuộc hành trình : Tâm hồn của con người luôn khắc khoải đi tìm hạnh phúc, và duy chỉ có Thiên Chúa mới mang lại cho nó sự yên hàn. Nhưng đồng thời, Thiên Chúa cũng là Đấng đang hiện diện trong mỗi người chị em như trong đền thờ của Người. Do đó thờ phượng Thiên Chúa và tôn trọng nhau là hai thái độ có tương quan chặt chẽ và bổ túc cho nhau. Thánh Augustinô nói : “Chúa được tôn vinh khi anh em sống hoà thuận với nhau. Anh em đừng ca tụng Chúa trong sự bất hoà” (In Ps. 123, 13). Chương thứ nhất được kết thúc với lời mời gọi các tu sĩ hãy tôn kính Thiên Chúa trong người khác và tôn kính người khác trong Thiên Chúa. Tôn kính chị em mình bằng cách loại bỏ mọi thái độ khiếm nhã, mọi lời nói thô tục, mọi cử chỉ đê tiện (x. Ep 5,3-4; Cl 3,8; Pl 4,8).

Ở Ấn độ người ta thường chào nhau “Namastê“, có nghĩa là: “Thiên Chúa ở trong tôi chào Thiên Chúa ở trong anh”. Phụng vụ Giáo hội cũng có lời chào này “Chúa ở cùng anh chị em. Và ở cùng cha”. Đời sống huynh đệ trong đời tu chúng ta hôm nay phải chăng là một buổi cử hành phụng vụ kéo dài, một thánh lễ không bao giờ kết thúc ?

Chương II. CẦU NGUYỆN

Trong Bản luật thánh Augustinô, việc cầu nguyện được bàn ở chương hai, sau khi đã nói về huynh đệ cộng đoàn trong Thiên Chúa. Điều này có nghĩa là đời sống đi trước (sống đức tin và đức ái), rồi sau mới đến cầu nguyện. Thứ tự hệ trật này rất đúng. Một điểm quan trọng khác cần lưu ý : chương bàn về cầu nguyện ngắn nhất, bởi vì đúng ra Bản luật chỉ nói đến vài điều thực hành, chứ không phải là khảo luận thần học về cầu nguyện và cũng bỏ qua nhiều điểm quan trọng chẳng hạn việc cử hành Thánh Thể. Mặt khác nên biết rằng Bản luật cũng nhắc đến việc cầu nguyện trong nhiều đoạn khác nữa, ví dụ số 29a, 42c, 42e và 43b (cầu nguyện và tha thứ cho nhau), và số 49 (cầu nguyện và tuân giữ luật).

1. TRUNG THÀNH CU NGUYN

Số 10 : “Chị em hãy chuyên cần cầu nguyện vào những giờ và những lúc đã định”.

Nhiều giáo phụ giải thích sự “cầu nguyện liên lỉ” (x. Rm 12,12; 1 Tx 5,7) trước hết có nghĩa là giữ nhịp độ điều đặn tiếp xúc với Chúa, trung thành với “những giờ và những lúc đã định”. Cầu nguyện liên lỉ không có nghĩa là đọc kinh liên miên cho bằng cầu nguyện vào những giờ khắc đã ấn định. Nhưng nói thế vẫn chưa đủ. Cầu nguyện không chỉ là đọc kinh, nhưng còn là hướng lòng lên cùng Chúa, ước muốn kết hiệp với Chúa bằng lòng yêu mến. Thánh Augustinô viết cho một người bạn gái Proba về đề tài này, kể lại kinh nghiệm các đan sĩ Ai cập nuôi dưỡng lý tưởng “cầu nguyện luôn luôn”, bằng cách vừa làm việc, vừa dâng ý chỉ lên cùng Chúa. Thánh Tiến sĩ đã giải thích rất khôn ngoan làm thế nào để cả hai việc cầu nguyện và lao động có thể tan chảy trong nhau : “Trong những bận rộn của từng ngày, ước muốn của con tim phải là một lời cầu nguyện liên tục. Cầu nguyện nhiều không có nghĩa, như một vài người tưởng, là cầu nguyện nhiều lời. Lời lẽ dài dòng là một chuyện, tình yêu liên lỉ là chuyện hoàn toàn khác biệt” (Ep 130, 19). Thánh Augustinô đã dành nhiều bài giảng để nhấn mạnh đến việc nuôi dưỡng lòng ước muốn trong việc cầu nguyện : “Hãy khao khát cầu nguyện luôn luôn ngay cả khi miệng lưỡi im bặt. Nếu bạn ao ước luôn luôn, thì bạn sẽ cầu nguyện luôn luôn. Khi nào thì cầu nguyện bị ngủ quên ? Đó là khi ước muốn trở nên lạnh nhạt” (Serm 80, 7). Hoặc trong một đoạn khác : “Lời cầu nguyện của bạn chính là sự khao khát của bạn. Nếu niềm khao khát còn tiếp tục thì lời cầu nguyện của bạn cũng tiếp tục” (In Ps 37, 14). Chính trong nghĩa này mà ta hiểu được lời của thánh Phaolô : “Theo Thần Khí, anh em hãy dùng mọi lời kinh và mọi tiếng van nài mà cầu nguyện luôn mãi. Để được như vậy, anh em hãy chuyên cần tỉnh thức và cầu nguyện cho toàn thể dân thánh” (Ep 6, 18). Cụ thể hơn nữa, lời cầu nguyện của chúng ta là chính cuộc sống “ở trong Chúa”; nhưng điều đó không miễn trừ việc quy định thời khắc, thời khoá biểu rõ ràng cho cầu nguyện. Như vậy hai mức độ : đời sống cầu nguyện và cầu nguyện bằng cuộc sống bổ túc cho nhau. Nhưng để trở thành lời cầu nguyện, cuộc sống phải được đức tin và tình yêu từ bên trong chiếu sáng, định hướng và linh hoạt. Cầu nguyện phải trở thành hơi thở của chúng ta.

2. NƠI CU NGUYN THÍCH HP

Số 11 : “Nhà nguyện chỉ được sử dụng vào việc xứng hợp với mục tiêu và danh nghĩa của nơi ấy. Vì thế nếu chị em nào rảnh rỗi muốn cầu nguyện ngoài giờ đã định thì không bị ngăn trở bởi người muốn dùng nơi ấy vào mục tiêu khác”.

Bản luật gọi nơi cầu nguyện là Oratorium. Đây là lần đầu tiên danh từ oratorium xuất hiện trong lịch sử Kitô giáo. Có người cho rằng ngày xưa trong nhà nguỵên, đan sĩ có thể làm việc khác ngoài cầu nguyện, vì thế mà có khoản luật này, nghĩa là đừng sử dụng nhà nguyện vào các mục tiêu khác. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng vào thời đó, các đan sĩ cầu nguyện chung với dân chúng trong nhà thờ địa phương, cho nên không cần đến một nơi dành riêng cho việc cầu nguyện chung trong cộng đoàn. Ở Híppô, các tín hữu đến nhà thờ cầu nguyện vào buổi sáng và buổi chiều, nhưng ở nhà, họ cũng cầu nguyện nhiều lần trong ngày, như chính thánh Augustinô đã kể : “Mỗi ngày tôi thức dậy và đến nhà thờ. Tôi đọc thánh thi vào buổi sáng và buổi chiều tôi cũng đọc một thánh thi khác. Tôi làm giờ thứ ba và thứ tư tại nhà. Như vậy tôi thánh hoá mỗi ngày sống như của lễ ngợi khen dâng lên Thiên Chúa của tôi”[3] Như thế, khoản luật này được hiểu về việc cầu nguyện riêng. Thánh Augustinô muốn cộng đoàn dành một không gian thích hợp để tạo điều kiện thuận tiện cho những ai muốn cầu nguyện ngoài giờ đã định. Những điều kiện cần phải có là : nơi tụ họp, thời gian rảnh rỗi và sự sắp xếp cá nhân. Người ước ao trong mỗi cộng đoàn có một nhà nguyện riêng và muốn phấn khích các tu sĩ cầu nguyện ngoài giờ.

3. NGUYÊN TẮC HOÀ HỢP GIỮA CON TIM VÀ MIỆNG LƯỠI

Số 12 : “Khi chị em cầu nguyện với Thiên Chúa bằng thánh vịnh và thánh ca, thì phải suy niệm trong lòng điều mà môi miệng đọc lên”.

Khoản luật này nhấn mạnh phải có sự hoà hợp giữa miệng đọc và lòng suy khi cầu nguyện, đối lập với thái độ vụ hình thức, lặp đi lặp lại cách máy móc, không quan tâm đến nội dung của lời cầu nguyện. Khoản luật yêu cầu các đan sĩ phải loại trừ mọi cách cầu nguyện vì câu nệ, theo thói quen. Lời cầu nguyện của họ phải chân thật như sẽ được nói tới trong số 42c : “Chị em càng siêng đọc lời cầu nguyện bao nhiên thì càng phải thực hành bấy nhiêu”. Chính thánh Phaolô cũng nói như vậy : “Tôi sẽ cầu nguyện với tấm lòng nhưng cũng sẽ cầu nguyện với trí khôn nữa. Tôi sẽ ca hát với tấm lòng nhưng cũng ca hát với trí khôn nữa” (1Cr 14, 15). Nhưng Thiên Chúa cần gì đến lời cầu nguyện của chúng ta vì người biết rõ ta cần gì trước khi chúng ta xin Người (Mt 6, 8) ? Lời cầu nguyện cần thiết cho ta chứ không có ích lợi gì cho Thiên Chúa. Chức năng của lời cầu nguyện là kích thích con tim của chúng ta, thức thỉnh niềm khao khát của chúng ta chứ không phải làm cho Thiên Chúa xoay lòng đổi dạ. Ví dụ khi chúng ta đọc và nghe thánh vịnh, nó gợi lên trong ta những tình cảm chân thành, làm cho ta cảm thấy như chạm tới Chúa. Lời cầu nguyện có thể ví như những con kênh xanh xanh làm vọt lên những khát vọng của ta để vươn lên tới Thiên Chúa. Việc cầu nguyện của ta là sự chuyển động đi từ lời cầu khẩn đến sự cảm nhận. Tuy nhiên người tín hữu hôm nay dường như nhạy bén với chuyển động trái ngược với điều khoản luật đưa ra. Họ thường cầu nguyện những điều họ cảm nghiệm trước, chứ không phải cầu nguyện bằng lời kinh để từ đó cảm nhận sự hiện diện của Chúa ở trong họ. Dù sao cũng cần đến cả hai chuyển động. Cách “Cầu nguyện điều mình cảm thấy” làm cho nội dung cầu nguyện mang tính cá nhân hơn và nhập thể hơn, nhưng luôn luôn rơi vào nguy cơ chủ quan, nghĩa là giản lược cầu nguyện thành tấm gương phóng dọi cái tôi của ta, làm cho nó thêm hỗn tạp vì những tình cảm, tư tưởng và nhu cầu của ta. Còn “cảm nhận điều ta cầu nguyện” khi chúng ta tham dự giờ cầu nguyện cộng đoàn với các bài thánh ca, thánh thi sẽ giúp ta mở tung bức tường ngăn cách cõi lòng và nếm thử những tình cảm mới sâu xa hơn. Cách cầu nguyện này cũng gây nên một mối nguy là đánh mất tính cá nhân và chính mình. Trong mọi trường hợp, khi cầu nguyện bộc phát hay đọc những công thức có sẵn, điều quan trọng là phải luôn luôn chân thành, sống động và có cảm nhận.

4. BÀI HÁT TRONG CNG ĐOÀN

Số 13 : “Đừng hát ngoài những gì luật truyền phải hát. Còn những gì không buộc phải hát thì đừng hát”

Khoản luật này cũng gây cho chúng ta không ít ngạc nhiên. Thánh Augustinô nói về bài hát với nhiều dè dặt như vậy có mục đích gì ? Có lẽ những tu sĩ trẻ sẽ thích một khoản luật khác linh động và phóng khoáng hơn : hát được bao nhiêu có thể thì cứ hát. Theo một số học giả (L. Veiheijen), vào thời đó có nhiều bản dịch Thánh vịnh khác nhau, cho nên tác giả Tu luật muốn các đan sĩ trong cộng đoàn của mình chỉ hát những Thánh vịnh theo bản dịch đã được chấp nhận, chứ đừng tìm thêm hay du nhập những bài khác vào. Có ý kiến khác[4] cho rằng thánh Augustinô luôn bận tâm với các bài hát trong lúc cầu nguyện vì nhiều lý do. Trước hết, các đối thủ của người là nhóm ly giáo Đônatô luôn luôn hát và cầu nguyện một cách cuồng nhiệt ( x. Ep. 55, 18, 34), phần nào cũng giống vài phong trào đạo đức hiện nay. Một lý do nữa là có lẽ hồi ấy, các bài ca du dương thánh thót là “mốt” mang tính cách văn nghệ, không thích hợp với tinh thần khó nghèo của nếp sống tu trì, theo như câu nói được gán cho thánh Antôn, tổ phụ đời đan tu : “Ca hát không phải là của nhà tu mà là của các giáo sĩ và giáo dân”. Thực ra, điều làm cho thánh Augustinô lo ngại là âm điệu du dương của bài hát thay vì giúp cầu nguyện sẽ trở nên ngăn trở, nếu đan sĩ chỉ chú ý thưởng thức âm nhạc mà không để ý đến lời ca. Dù sao, chúng ta phải tìm ra tinh thần của khoản luật này cho đời tu hôm nay. Một trong những đề nghị căn bản là ta phải lưu ý để đừng chạy theo âm nhạc vì âm nhạc, thay vì coi nó như là phương thế giúp cầu nguyện.

Chương III. THANH ĐẠM VÀ KHỔ CHẾ

Ý tưởng chính của chương này là đời sống đạm bạc hay là sự khổ chế. Đời sống của người thánh hiến đòi hỏi một phong cách và lối sống giản dị, khiêm tốn, thanh thoát và từ bỏ; đó là đời sống hoà hợp với đức khó nghèo. Đây không phải là cứu cánh mà chỉ là phương tiện nhắm tới một cứu cánh khác quan trọng hơn, đó là theo Đức Kitô và phục vụ triều đại của Người. Khi chúng ta càng sống nghèo, chúng ta càng trở nên tự do và sẵn sàng phục vụ Tin mừng (Mt 10, 9-10). Chúng ta cần phải vượt lên trên ý tưởng cho rằng nói về khó nghèo đời tu là nói đến sự khốn khổ cơ cực. Thật không phải như thế: “cơ cực” là thiếu thốn những cái cần thiết, trong khi “khó nghèo” là vắng bóng những cái dư dật (Léon Bloy). Thánh Augustinô đã nhiều lần khẳng định : mỗi người được nhận lãnh những cái cần thiết, theo lý tưởng của cộng đoàn tín hữu tiên khởi Giêrusalem (Cv 2, 45; 4, 35). Bản luật ý thức rằng không thể quy định cho mỗi người cái gì là “cần thiết” như nhau, bởi vì chủ thể thì thay đổi theo chức năng, công việc và thời đại. Do đó bản luật cần phải được áp dụng cách linh động và khoan dung tuỳ theo khả năng thể lý và luân lý.

1. HÃM MÌNH LÀ THC HÀNH T CH

Số 14 :”Chị em hãy chế ngự xác thịt bằng chay tịnh và kiêng ăn uống tuỳ theo sức khỏe cho phép. Ai không thể giữ chay (có bản thêm : ‘cho tới chiều tối’) thì ít là không được ăn gì ngoài bữa, trừ khi đau yếu”.

Để hiểu khoản luật này cần phải trở lại hoàn cảnh lịch sử mà Tu luật ra đời. Vào thời Augustinô, người ta thường ăn hai bữa : bữa sáng vào khoảng 10 giờ (gọi là prandium), và bữa chiều vào khoảng từ 4 đến 6 giờ (gọi là coena). Bữa ăn chiều là bữa quan trọng hơn, và ăn chay là không dùng bữa prandium. Theo một số học giả (L. Verheijen), ăn chay theo nghĩa chuyên môn là chỉ ăn một bữa chính. Trái lại, kiêng thịt là không dùng thịt, phó-mát, rượu và thậm chí, kiêng tắm… Phải nhận rằng nói chung các đan sĩ vào thời của Augustinô hãm mình rất khắt khe. Có một số người giữ chay 5 ngày trong một tuần, một số khác giữ chay tuyệt đối, nghĩa là không ăn và không uống trong 3 ngày liền. Tuy nhiên, Tu luật của thánh Augustinô quy định về ăn hay hãm mình có giọng văn mạnh mẽ nhưng không khắt khe : mạnh mẽ bởi vì khẳng định rất dứt khoát : “Chị em hãy chế ngự xác thịt bằng chay tịnh và kiêng ăn uống”; nhưng nó không khắt khe bởi vì nhà lập luật đưa ra một tiêu chuẩn khi áp dụng là phải tôn trọng sức khoẻ : “kiêng ăn uống tuỳ theo sức khoẻ cho phép”. Sức khoẻ là ơn ban của Chúa. Ta không thể hy sinh sức khoẻ để làm việc hãm mình theo ý muốn của ta, nhưng sức khoẻ được ban cho ta là để phục vụ nước Trời và anh em. Hugues de Saint Victor bình luận như sau : “Chúng ta phải dưỡng nuôi thân xác để sống phục vụ. Chúng ta phải chế ngự thân xác để nó không kiêu căng. Chúng ta phải dập tắt các nết xấu chứ không phải thân xác”[5]. Vì thế phải luôn luôn biện phân khi tuân giữ việc hãm mình hay khổ chế. Khi viết “Tiểu sử thánh Augustinô” Possidius cho biết : tại bàn ăn, Augustinô luôn tiếp thịt cho khách được mời và cho những người bệnh. Trên bàn ăn không bao giờ thiếu rượu, bát đĩa cũng khiêm tốn, hoặc bằng gỗ, bằng gốm, hoặc bằng đá hoa. Nhưng muỗm, nĩa thì chỉ bằng bạc (chương 22). Những đồ dùng đó thực sự là đạm bạc so với hoàn cảnh và địa vị của Người trong cộng đoàn đan tu lúc bấy giờ. Ngoài ra khoản Luật rất tế nhị nhìn đến khả năng và giới hạn của từng cá nhân, biết có những người không thể giữ chay vì đau yếu thể lý, vì làm việc nạng, hay đơn giản, vì không có thói quen đó. Cả trong trường hợp này, Luật yêu cầu làm được bao nhiêu có thể, tuy nhiên “ít là không được ăn gì ngoài bữa”, chỉ ăn trong bữa mà thôi. Giả như có ai đói trước hoặc sau bữa ăn thì sao ? Thánh nhân khuyên họ cố gắng chịu đựng như một thái độ hãm mình. Dù sao luật vẫn có trừ lệ cho những ai đau ốm. Họ không buộc phải giữ luật; trái lại, chịu đựng bệnh hoạn và đau yếu tự nó đã là cách hãm mình tốt rồi !

2. LƯƠNG THỰC VÀ LỜI CHÚA

Số 15 : “Trong suốt bữa ăn, chị em hãy nghe đọc sách theo như thói quen, đừng gây động đạc và cãi vã, kẻo chỉ có miệng đón nhận lương thực còn tai lại đói Lời Thiên Chúa”.

Chúng ta chỉ có thể hiểu được mệnh lệnh này nếu đặt vào khung cảnh của thời đại. Khi đó, đọc sách trong nhà ăn là thời khắc phát triển khả năng và bồi dưỡng văn hoá cao nhất; đó là cơ hội tốt để cả cộng đoàn học hỏi. Hơn nữa, không phải mọi tu sĩ đều có thể tiếp xúc với văn hoá học đường, bởi vì hồi đó có rất nhiều người mù chữ, và sách vở thì vô cùng hiếm hoi (chỉ có những bản chép tay). Vì thế ngoài những giờ quy tụ với nhau trong các buổi hội họp và Thánh lễ, các đan viện tận dụng những cuộc gặp gỡ trong giờ ăn để dạy dỗ. Đây không phải là sáng kiến của danh sư Augustinô; thói quen đọc sách trong nhà ăn đã có nguồn gốc từ các đan viện bên Đông phương (chứ không phải từ Ai cập), chẳng hạn trong Luật của thánh Basiliô (Regula brevius, n.180). Gioan Cassiano cũng có khoản này (De Institutis Coenobiorum, IV, 17). Dù sao thánh Augustinô cũng không khắt khe buộc anh em phải tuân giữ triệt để. Possidius cho biết, đan viện giáo sĩ của thánh nhân đọc sách trong khi ăn nhưng họ cũng nói chuyện nữa. Ông viết : “Tại bàn ăn họ chú ý đến bài đọc và trao đổi với nhau hơn là chú ý đến của ăn thức uống” (Vita, chương 22). Thánh Augustinô tiếp nhận khoản này với lý do gì ? Như chúng ta đã nói về bài hát, thánh Augustinô vẫn còn nghi ngại về cám dỗ giác quan. Đối với ông, đọc sách sẽ giúp cho các đan sĩ khỏi thưởng thức các món ăn ! Người còn cho rằng trong bàn ăn mà nói về vấn đề đồ ăn thức uống thì thô tục quá. Ví dụ trong bàn ăn mà anh em trao đổi với nhau : “Con cá này ở hồ nào vậy ? Rượu này đến từ đâu thế ?” thì kiến thức đó là “chuyên khoa hèn hạ” (miseranda peritia) (De quantitate animae, XIX). Đối với chúng ta ngày nay, quan niệm như vậy là thiên kiến hoặc bối rối ! Mặt khác, chúng ta có nhiều cơ hội để học hỏi ở trường lớp, trên truyền hình, radio, sách báo và các phương tiện truyền thông đại chúng khác nữa. Chuyện vãn vui vẻ trong bữa ăn, vừa để làm tăng triển tình huynh đệ cộng đoàn, vừa giúp sảng khoái và tiêu hoá sau những giờ làm việc mệt mỏi, đó không phải là điều lành mạnh và tự nhiên sao ? Tuy nhiên, nếu câu chuyện hàn huyên với nhau xoay quanh những vấn đề tầm thường và viễn vông, trong khi còn biết bao điều cao cả hơn phải làm và suy nghĩ, thì đó cũng là dấu hiệu cho thấy tâm hồn chúng ta nông cạn, nếu không muốn nói là phù phiếm. Tu luật còn chú ý thêm kỷ luật trong bữa ăn : “Đừng gây động đạc và cãi vã”. Đây là một lệnh truyền rất thực tiễn. Thật vậy, người thời đó rất năng động. Họ thường phản ứng lại các bài giảng của các vị giảng thuyết, các nhà hùng biện, hộ giáo. Họ thường đặt câu hỏi và bình phẩm trong khi nghe đọc sách. Đó là lý do tại sao thánh Augustinô viết thêm khoản này. Tuy nhiên có lẽ cần phải tìm hiểu xem bên trong mệnh lệnh này có điều gì sâu sắc. Phải chăng người muốn đưa ra một hướng dẫn thiêng liêng, ao ước mỗi người lắng nghe lời Chúa với thái độ nội tâm ? Họ cần phải lắng nghe cách chăm chú, ngoan nguỳ và sẵn sàng, như thái độ của người con vâng phục. Cho dù lời vừa nghe xem ra khó hiểu và cứng cỏi, họ đừng đối kháng như thái độ của người con quậy phá (De serm. Domini in monte, I, 3, 10; 11, 32; Ep. 171A)

3. MI NGƯỜI HÃY LÀM THEO KH NĂNG CA MÌNH

Số 16 : “Nếu ai yếu ớt vì lối sống trước đây, nay được đối đãi khá hơn về ăn uống, thì người mạnh khỏe hơn đừng buồn phiền và cũng đừng cho là bất công. Cũng đừng nghĩ họ may mắn hơn vì được dùng những món mình không được dùng; nhưng hãy vui mừng vì mình có khả năng sống kham khổ hơn”.

Chúng ta đang đứng trước một khoản luật quan trọng bàn về sự đối xử không đồng đều trong đời sống cộng đoàn, mà Bản luật đã tiên liệu trong chương I. Con người không phải chỉ là những con số trên nhãn hiệu của lon coca cola. Thánh Augustinô rất tôn trọng nhân cách của mỗi người, cách riêng về sự huấn luyện và giáo dục hình thành nhân cách của họ trong quá khứ. Ông đã biết đến quyền lợi của mỗi người và tìm lại sự khác biệt giữa họ mà không rơi vào chủ nghĩa cá nhân. Nhìn vào bản văn chúng ta nhớ rằng Tu luật giả định trong cộng đoàn có sự khác biệt rõ ràng về tầng lớp xã hội mà các đan sĩ xuất thân. Ví dụ có nghị sĩ và người nô lệ sống trong cùng một cộng đoàn. Nhưng chắc chắn Tu luật không chú ý nhiều đến sự khác nhau về mặt tự nhiên như tuổi tác, tính tình, nền văn hoá… lại càng không nói đến sự khác nhau về chức vụ và công việc như : người thì làm giám mục, người khác là nhà huấn luyện, kẻ khác là quản thủ thư viện. Bản luật bận tâm đến sự khác biệt về khả năng luân lý, nghĩa là sự tiết độ, khổ chế của các đan sĩ xuất phát từ thói quen ăn uống tiêu dùng trong điều kiện xã hội trước khi đi tu. Tất nhiên phải tôn trọng sự khác biệt này, nhưng tự nó không cấu thành những vấn đề trong đời sống tu trì. Trái lại cộng đoàn sẽ nảy sinh ra vấn đề khi có sự khác biệt đối xử trong ăn uống mà không theo đòi hỏi của khó nghèo Phúc âm. Chúng ta có thể gọi đó là khác biệt về khả năng khổ chế của mỗi người. Tình cảnh của cộng đoàn chúng ta ngày ngay thì khác. Phần lớn tu sĩ xuất thân từ tầng lớp bình dân, nông thôn. Ngoài ra trong hành trình chuẩn bị bước vào đời sống tu trì thực thụ, nhiều tu sĩ trẻ được đào tạo trong nhiều lãnh vực khoa học và xã hội, tổng quát và chuyên biệt; dù có chuyên môn, chúng ta cũng chỉ thuộc tầng lớp trung bình. Vì thế nhu cầu ăn uống và tiêu dùng giữa các thành viên trong cộng đoàn hôm nay thì tương đối đồng nhất và không có sự chênh lệch đáng kể. Tóm lại, khoản luật này bận tâm đến sự phân biệt còn tồn đọng trong cộng đoàn với 3 điểm tiêu cực : – Đừng khó chịu về người khác; – Đừng cho đó là bất công; – Đừng ghen tị với chị em mình, nhưng hãy vui mừng vì mình đã không đòi hỏi những đặc ân. Như vậy vấn đề ở đây là “người khác”. Thánh Augustinô chỉ yêu cầu chị em một điều là hiểu biết và cảm thông lẫn nhau.

4. HIP THÔNG VI NHNG NGƯỜI YU ĐUI

Số 17 : (a) Và nếu những người trước đây vốn sống sung túc, nay vào đan viện được đồ ăn áo mặc, chăn mền mà những người khoẻ, tức là may mắn hơn không được, thì những người này phải nghĩ rằng các chị em kia đã từ bỏ biết bao khi rời đời sống thế gian để vào đan viện này, dù không thể sống đạm bạc như những người khoẻ mạnh hơn. (b) Chị em đừng đòi hỏi tất cả những gì chỉ được cấp cho một vài người, không phải vì họ được tôn trọng nhưng vì phải khoan nhượng, kẻo xảy ra điều ngược đời đang tiếc là trong đan viện, những người giàu thì cố gắng hết sức, còn những người nghèo lại yêu sách đòi hỏi”.

(a) Khoản luật này triển khai khoản trước nói về việc cung cấp cho người yếu đuối những tiện nghi như đồ ăn, áo mặc, chăn mền. Ngoài ra Luật còn cho biết thêm lý do, và biện bạch tại sao có luật trừ này. Nó không tạo thuận lợi cho một cuộc sống thoải mái dung túng nhưng bày tỏ sự cảm thông và đáp ứng những nhu cầu luân lý đã phát sinh do thói quen trước đây của họ. Nhà viết Tu luật áp dụng các nguyên tắc chung cách linh động và cởi mở chứ không nệ vào nguyên tắc : giống nhau nhưng không đồng bộ, hiệp nhất nhưng trong sự khác biệt. Thật vậy, sống khó nghèo là một đòi hỏi của Tin mừng dành cho tất cả mọi người không trừ một ai, và cần phải thực hiện với tinh thần tự do. Do đó Luật chỉ đề nghị hai chỉ dẫn khôn ngoan : – Mỗi người hãy làm những gì có thể làm được. – Nhưng phải tôn trọng những giới hạn của người khác. Khoản luật cho thấy ý nghĩa cao cả của tình người : chấp nhận con người của họ với tất cả những giới hạn luân lý. Đối với người yếu đuối hơn, Tu luật yêu cầu sự thông cảm : “phải nghĩ rằng các chị em kia đã từ bỏ biết bao khi rời đời sống thế gian để vào đan viện này”, và áp dụng cách giải quyết của thánh Phaolô về việc ăn của kiêng, khi người yêu cầu các tín hữu phải bác ái đối với người yếu tin : “Người ăn đừng có khinh kẻ không ăn, còn kẻ không ăn cũng đừng xét đoán người ăn, vì Thiên Chúa đã đón nhận người ấy” (Rm 14, 3). Đây là một trong những điểm của Tu luật được đánh giá rất cao; thánh Augustinô được giới học giả và các nhà lập luật cho là có tinh thần cởi mở và sẵn sàng lưu tâm đến sự yếu đuối của người khác. Bản luật của ngài chất chứa sự tế nhị, tình bao dung cao cả và đầy lòng nhân ái. Đây cũng chính là kinh nghiệm cá nhân của Augustinô[6]. Sau khi chịu phép rửa và cái chết của mẹ Monica tại Ostia, Augustinô ở lại Rôma trong vòng một năm, miệt mài nghiên cứu về “các phong tục của Giáo Hội”, cách riêng của các đan sĩ Rôma. Người cảm nhận : “Trong đan viện đó, không ai bị bó buộc phải gánh chịu những gì mà mình không thể chịu đựng được, không ai bị ép buộc làm những gì vượt quá sức mình, và cũng không có ai lên án những người đó… Chỉ có một điều duy nhất mà các đan sĩ chăm lo trên tất cả mọi sự, đó là tình yêu. Tất cả đều qui về tình yêu : của ăn, áo mặc, lời nói, cử chỉ, nét mặt. Mỗi người gắng hết sức cộng tác để xây dựng sự hiệp nhất trong tình yêu. Lỗi phạm đến tình yêu bị coi là xúc phạm đến chính Chúa. Nếu điều gì chống lại tình yêu thì lập tức bị quăng ném đi. Nếu ai xâm phạm đến tình yêu thì không thể được dung thứ dù chỉ một ngày. Tất cả mọi người đều nhận biết rằng chính Đức Kitô và các tông đồ đã yêu cầu mọi người sống yêu thương : nơi nào thiếu tình yêu, ở đó sẽ trở nên rỗng tuếch; ở đâu có tình yêu hiện diện thì tất cả được viên mãn tròn đầy” (De moribus Ecclesiae catholicae, 1, 333, 70-73). Xét về sự khác biệt trong đời sống tu trì khi thực hiện nhân cách, thánh Augustinô suy tư như một nhà thần học, ngài ứng dụng đạo lý về sự “hiệp thông giữa các thánh” : “Mỗi người trong anh em hãy làm theo khả năng của mình. Người không có khả năng thì nhờ người có khả năng hơn làm thay. Chỉ cần bạn yêu trong công việc của người khác điều mà bạn không thể làm với sức của mình. Ai làm ít hơn thì đừng cản trở người làm nhiều hơn, và người nào khoẻ hơn thì đứng ép người yếu hơn” (Ep. 130, 16, 31). Chúng ta có thể gọi đây là sự hiệp thông trong sức mạnh, ân huệ, đoàn sủng và cả công trạng. Có một tác giả vô danh vào thế kỷ IV giảng như sau : “Phải đối xử với nhau như anh em. Người cầu nguyện thì đừng xét đoán người khác không cầu nguyện vì anh đang làm việc. Ai làm việc thì đừng xét đoán người đang cầu nguyện và nói rằng : ‘đây là người làm mất thời giờ, trong khi tôi đây phải làm việc’. Ai đang làm việc thì đừng phán đoán người khác. Trái lại, mỗi người làm bất cứ việc gì thì hãy làm tất cả vì danh Chúa. Ai đang đọc sách, hãy nghĩ đến người anh em đang cầu nguyện với tình yêu mến, và nhủ rằng : ‘anh ấy cũng đang cầu nguyện thay cho tôi’. Ai đang cầu nguyện hãy nghĩ đến anh em đang làm việc : ‘Anh ấy đang làm việc vì lợi ích cho cả cộng đoàn’”. (Hom. III, 1-3; PG 34, 467-470) Sự hiệp thông trong tình yêu và đoàn sủng thể hiện rất rõ trong tư tưởng của nhà giảng thuyết Augustinô : “Đối với tôi, nếu người nào đó nói : ‘tôi thực hành Tin mừng khi tôi đi chân không’. Tôi sẽ trả lời với bạn : ‘Bạn có thể làm được điều đó, còn tôi thì không. Chúng ta hãy giữ gìn những điều chúng ta đã nhận lãnh. Nhưng bằng cách nào ? Bằng tình yêu. Chúng ta hãy yêu thương nhau, hãy đốt cháy tình yêu. Như vậy tôi yêu sức mạnh của bạn và bạn mang lấy sự yếu đuối của tôi” (Serm. 101, 7) Theo thánh nhân, trao đổi những đoàn sủng cho nhau là báo trước những điều sẽ xảy ra cách viên mãn trong triều đại cánh chung. Ở đó chỉ có tình yêu hoàn hảo, ai có cái gì riêng thì mọi người đều được hưởng chung. Cũng vậy, khi tôi yêu tôi sẽ có trong người khác những gì mà tôi không có. Sự khác nhau về vinh quang sẽ không gây ghen tị bởi vì tất cả mọi người đều được chế ngự bởi sự hiệp nhất trong tình yêu (In Jo. 67, 2). (b) Phần thứ hai của khoản luật nhắc lại hoàn cảnh đặc biệt như vừa nói ở trên và bổn phận phải khoan nhượng cho những kẻ yếu đuối, chiếu cố đến sự “yếu đuối” của một số tu sĩ có thói quen xấu. Tuy nhiên đây không phải là một đặc ân. Thật vậy khoản luật này vẫn giữ nguyên tắc chung và vẫn còn có giá trị, nghĩa là kêu gọi mỗi người cố gắng sống khó nghèo, điều độ và khổ chế. Nhưng nếu một vài người nào đó không thể tiến gần đến con đường này thì hãy nhẫn nại, hãy cảm thông và hiểu cho họ. Lại một lần nữa Tu luật ghi nhận đời sống tu trì có thể trở thành bức biếm hoạ (như đã nói trong số 7) của sự ngược đời, nghịch lại với lý tưởng tu trì : trong đó người giàu thì cố gắng sống nghèo, còn những người nghèo thì khó hài lòng với những cái hiện có. Chắc chắn người giàu phải giũ bỏ lối sống xa hoa và người nghèo phải giữ được cuộc sống thanh đạm và khổ chế. Bài học này còn có giá trị cho chúng ta ngày hôm nay nữa không ? Đối với nhiều người, đời tu có phải là phương tiện để thăng tiến xã hội hay không ? Tu luật chấp nhận một sự thăng tiến nào đó của người tu sĩ đến từ điều kiện xã hội cực kỳ khó khăn (số 18b). Nhưng sự thăng tiến này chỉ được chấp nhận khi nó phục vụ cho Nước Chúa và anh em, chứ không phục vụ cho mục đích vụ lợi bản thân hay cho sự nghiệp của riêng mình.

5. THÁNH AUGUSTINÔ BÊNH VC NGƯỜI GIÀU ?

Chúng ta không thể phủ nhận điều này : trong hai số vừa rồi (16 và 17), nhà viết tu luật thích nghi luật cách mềm dẻo khi đụng tới người giàu, nhưng lại nghiêm khắc đối với người nghèo. Tại sao ông dùng những khoản luật xem ra bảo vệ chị em con nhà giàu, và yêu cầu chị em con nhà nghèo phải chịu đựng sự yếu đuối của họ ? Tại sao ông không can đảm mời họ phải lột bỏ “con người cũ” của quá khứ và đón nhận dứt khoát nếp sống mới ? Phải chăng tại vì hồi đó rất ít người giàu vào đan viện, cho nên ông muốn bảo vệ nhóm thiểu số ? Dù thế nào đi nữa, phải nhận rằng khác với các giáo phụ cùng thời (như Ambrôsiô, Basiliô, Gioan Kim Khẩu), thánh Augustinô không tỏ ra nhạy bén đối vấn đề xã hội. Người nhìn vấn đề dưới khía cạnh thiêng liêng và tu đức, còn những chuyện “bên ngoài” như khó nghèo về kinh tế thì không được quan tâm nhiều. Sự khó nghèo vật chất tự nó không mang giá trị thần học; chỉ có chủ ý sống khó nghèo mới làm cho nó có ý nghĩa mà thôi. Cũng vậy, không chỉ có người giàu vì tiền của mà còn có người giàu vì tham lam, dù cho người ấy rất nghèo về kinh tế. Thánh Augustinô rất nhạy cả về tính xấu này. Theo người, gốc rễ của sự giàu có vật chất nằm ở trong tâm hồn của mỗi người : “Thiên Chúa không nhìn cái túi tiền mà nhìn ước vọng của họ” (In Ps 131, 26). “Nào ích lợi chi khi không có tiền mà lòng đầy tham lam ?” (In Ps 51, 14). Do đó dù là giầu hay nghèo, người tu sĩ phải diệt trừ tận gốc tính tham lam, tức là sự giàu có tinh thần theo lời dạy của Đức Giêsu đã từng nói : “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam” (Lc 12, 15). Chúng ta nghĩ thế nào ? Chắc chắn ngày hôm nay chúng ta rất nhạy bén với vấn đề cái nghèo vật chất. Chúng ta sẽ không thoả mãn với chủ trương chỉ dừng lại trên cái nghèo tinh thần : cứ có nhiều của cải đi, miễn là tâm hồn ta không bị dính bén là được ! Chúng ta phải làm cho Tu luật thêm phong phú với linh đạo có tính nhập thế hơn, một linh đạo không chỉ nhìn thấy sự nghèo khó Phúc âm theo chiều kích nội tâm nhưng còn phải liên kết bất khả phân ly với cái nghèo bên ngoài nữa.

6. GƯƠNG SNG KH CH CA THÁNH AUGUSTINÔ

Thánh Augustinô thực sự đã sống đời thanh đạm, khó nghèo và giản dị như người đã dạy dỗ và rao giảng. Lý tưởng sống khó nghèo có 3 nguyên tắc chính : – Để mọi sự làm của chung : loại trừ mọi hình thức tư hữu; – Phân phát theo nhu cầu : loại trừ cảnh cơ cực lầm than; – Sống đạm bạc tuỳ theo khả năng của mỗi người : loại trừ sự tích luỹ của cải. Thánh nhân đã từng bước nêu gương sống trong cả ba nguyên tắc trên. 1) Để mọi sự làm của chung là điểm quan trọng hơn cả. Ngay sau khi hoán cải, Augustinô đã bán một số mẫu đất và lấy tiền cho người nghèo (Ep. 126, 7). Đó là gia sản mà thân phụ đã để lại làm cơ nghiệp, nhưng người thú nhận nó chẳng đáng giá bao nhiêu : “Tôi không phải là một người giàu, cả các tông đồ cũng từng là những người nghèo … Tuy nhiên, ai từ bỏ thế gian, người đó không chỉ từ bỏ những cái mình có mà còn từ bỏ cả những cái mình muốn có” (Ep 157, 4, 39). Rồi sau đó người sống như một thầy tu và để mọi sự mình có làm của chung. Người tiếp nhận các giáo sĩ vào cộng đoàn đan viện, họ là “những người nghèo giống như mình nhưng biết phó thác vào lòng thương xót của Chúa” (Serm 355, 6). Trong cộng đoàn đan viện giáo sĩ của người có một linh mục tên là Januarius, trước khi chết làm tờ di chúc để lại tiền bạc của mình cho Giáo hội, thánh Augustinô bị sốc mạnh mẽ vì cảm thấy đó là gương mù rất nặng. Người liền tụ họp dân chúng vào nhà thờ và tuyên bố rằng đan sĩ đó không thể làm chúc thư, bởi vì ông không được phép sở hữu gì hết ! Rồi người tự thú : “Này anh em, việc này gây cho tôi đau khổ biết là chừng nào! Vì nỗi đau khổ này, tôi đã quyết định không nhận phần gia tài này cho Giáo hội” (Serm. 355,3). Tác giả cuốn tiểu sử về thánh Augustinô cho ta biết rằng : “Người không làm chúc thư, bởi vì là người nghèo của Thiên Chúa, người không có tiền của” (Possidius, Vita, 31, 6). Người qua đời mà không có gì để lại, thật đúng như lúc còn sống. 2) Thánh nhân đã sống trong đan viện, và cộng đoàn có bổn phận phải đáp ứng quyền lợi của mỗi cá nhân tu sĩ, nghĩa là quyền được nhận những cái thiết yếu. 3) Người không phải là người hoang phí nhưng rất quân bình trong việc sử dụng đồ dùng. Lối sống của người rất khiêm tốn và giản dị. Những chi tiết về cuộc sống thanh đạm của người sẽ được bàn khi nói về việc sự dụng của cải (chương V).

7. CHÚ Ý ĐẾN NHỮNG NGƯỜI ĐAU YẾU

Số 18 : “Bởi vì khi đau yếu thì phải ăn uống ít kẻo bệnh ra nặng. Cho nên khi dưỡng bệnh, các chị em cần được chăm sóc làm sao để sớm bình phục cho dù họ xuất thân từ địa vị cùng cực. Thật vậy cơn bệnh đã gây ra sự yếu ớt cũng như nếp sống phong lưu của những người giàu trước đây. Nhưng khi đã bình phục, họ hãy trở lại mức sống bình thường là điều quý hơn, bởi vì càng bớt ưu sách bao nhiêu thì càng xứng hợp với tôi tớ Chúa bấy nhiêu. Khi đã mạnh lại thì đừng tiếp tục nếp sống dễ dàng như khi còn đau yếu. Họ hãy nghĩ rằng ai càng khoẻ mạnh chịu đựng kham khổ thì càng giàu có hơn, bởi vì thà thiếu thốn chút ít còn hơn dư thừa “.

Tu luật xem xét trường hợp của người đau yếu bằng một sự chăm sóc ân cần tối đa, chú ý đến nhu cầu của họ chứ không đếm xỉa điều kiện xã hội của họ trước kia. Giám mục Augustinô định liệu khoản luật này cho các đan sĩ đau bệnh về thể lý, theo lời chỉ dẫn của khoa y học cổ xưa, chẳng hạn các thầy thuốc nổi tiếng thời cổ như Soranô Êphêxô và Celiô Aurelianô. “Bởi vì khi đau yếu thì phải ăn uống ít kẻo bệnh ra nặng”. Thật vậy, họ thường bắt đầu chữa bệnh bằng cách bắt kiêng ăn hoàn toàn trong hai hoặc ba ngày. Theo nhận xét của G. Bardy, dường như thánh Augustinô thích nghiên cứu y học, vì thế đã sử dụng nhiều từ ngữ y khoa trong bản Tu luật (xem số 18, 26, 27c, 34, 35, 42g). Bản luật đòi buộc chị em không được phân biệt đối xử khi tu sĩ đang cần phục hồi sức khoẻ, dù trước đây họ là người rất nghèo. “Cho nên khi dưỡng bệnh, các chị em cần được chăm sóc làm sao để sớm bình phục cho dù họ xuất thân từ địa vị cùng cực”. Họ được hưởng quyền lợi và sự thoải mái như những người giàu mà thánh nhân đã bênh vực (số 16 và 17). Người bảo đảm cho mỗi người tất cả những nhu cầu cuộc sống như đồ ăn, sức khoẻ, áo mặc…, cách vô điều kiện, theo tinh thần của sách Công vụ : “Mỗi người nhận theo nhu cầu của mình” (Cv 2, 45; 3, 35). Sau khi đã bình phục, người nhắc nhớ chị em hãy trở lại nhịp sống đều đặn của cộng đoàn, và cảnh giác cám dỗ của chị em muốn được săn sóc đặc biệt như khi còn đau bệnh. Tại sao thánh Augustinô lại chú ý đến điểm này ? Đối với chúng ta, trở về nếp sống bình thường sau khi đau yếu là chuyện đương nhiên, nhưng đặt vào bối cảnh mà Tu luật ra đời, có nhiều đan sĩ đau ốm xuất thân từ tình cảnh cực khổ, và rồi trong thời gian chữa trị và hồi phục họ được đối đãi “như người giàu”, cho nên mới xảy ra chuyện là họ muốn tiếp tục duy trì hoàn cảnh tiện nghi hơn, đang khi đời sống thường nhật luôn đòi hỏi nhiều sự hy sinh hãm mình. Vì thế thánh Augustinô dạy rằng lý tưởng tu trì là một cuộc sống giảm thiểu nhu cầu : “Hãy nghĩ rằng ai càng khoẻ mạnh chịu đựng kham khổ thì càng giàu có hơn, bởi vì thà thiếu thốn chút ít còn hơn dư thừa”. Nơi khác, nhân dịp mùa chay, người khuyên tất cả mọi người tín hữu hãy “bắt chước chế độ sống của những người nghèo” (Serm. 210, 9, 11) Tóm lại, khoản luật này muốn bài trừ tận gốc sự thu tích “tài sản bất lương” (Lc 16, 9. 11), nghĩa là lòng tham lam vô đáy, lòng ham muốn tích luỹ cho mình. Hơn thế nữa, thánh Augustinô không quan tâm đến việc người tu sĩ hiện “có” bao nhiêu tài sản, cho bằng “lòng” ham muốn đến đâu : tình cảnh một người tuy ít tiền nhưng lòng tham không đáy thì còn nguy hiểm hơn kẻ có tiền nhưng không để cho tiền tài chiếm đoạt mình.

Chương IV : GÌN GIỮ KHIẾT TỊNH và SỬA LỖI HUYNH ĐỆ

Mục 1 : GÌN GIỮ KHIẾT TỊNH

1. MỘT CẢM TƯỞNG TIÊU CỰC

Chúng ta đã đến một điểm rất tế nhị và khó khăn của Bản luật. Khó khăn không phải do bản chất của vấn nạn mà do cung cách trình bày vấn đề. Thật vậy, khi đọc toàn bộ chương IV, chúng ta có cảm giác lạ lẫm và nặng nề, những ấn tượng ấy vẫn còn đọng lại trong tâm hồn của nhiều tu sĩ khi tiếp xúc với bản văn. Sau đây là lời phát biểu của một tu sĩ nam sau khi đọc Bản luật viết cho nam giới. Cảm tưởng của tu sĩ trẻ này rất chân thành và đồng thời cũng rất thông minh. “Điều gây nên ấn tượng cho tôi ngay từ đầu là cách đi vào đề rất đột ngột : ‘Đôi mắt của anh em khi thấy phụ nữ, đừng chằm chằm nhìn vào một người nào’ (số 22a). Rồi sau đó cả chương xoay đi trở lại vấn đề khiết tịnh, nói nhiều về nguy hiểm đàn bà cho đến khi chán ngấy. Giọng điệu trình bày khiết tịnh nhìn chung không được trong sáng và vui vẻ lắm. Đâu là lý tưởng Phúc Âm của độc thân vì nước Trời ? Đâu là nét đẹp và lý do thần học, huyền bí hướng thượng đẩy tới con đường khiết tịnh của đời thánh hiến ? Tôi đã hoài công tìm kiếm mà không thấy. Trái lại, tôi cảm thấy một bầu khí đóng kín, căng thẳng và hầu như bệnh hoạn. Khiết tịnh xuất hiện như một sự ám ảnh, một cơn ác mộng. Đó là những cảm giác thách thức con người ngày hôm nay, đặc biệt là những người trẻ khi đọc chương này. Và người phụ nữ thì sao ? Người nữ không xuất hiện như một người phải được tôn trọng, nhưng là cái gì đó rất nguy hiểm. Không thể phủ nhận là Bản luật đã không dạy chúng ta tương quan với phụ nữ cách thanh thản và trưởng thành, nhưng chỉ thấy nàng là cơn cám dỗ hiểm nguy cần phải xa tránh. Khuynh hướng giới tính không được đối diện cách bình an và tự tin mà được trình bày như sự nghiêng chiều lao vào vực thẳm. Khi đối chiếu Tu luật thánh Augustin với các Bản luật khác, cảm tưởng này được củng cố và xác thực hơn, chứ không phải là thứ cảm giác mơ hồ, ảo ảnh. Luật của thánh Biển Đức rất cao cả và thanh đạm gồm 72 chương, nhưng chỉ dành một chương cho đề tài này, giới hạn vào hai hay ba khuyên nhủ gián tiếp rải rác trong Bản luật (IV, 4. 6; VII, 23-25), và chỉ có một mệnh lệnh vắn gọn, trực tiếp : “Anh em hãy yêu mến đức khiết tịnh” (IV, 64). Bản luật của dòng Cát-minh còn ít hơn nữa, chỉ có một chú thích “với Khiết tịnh” (xem chương I). Thánh Phanxicô cũng chỉ dành khoảng 5, 7 hàng cho đức Khiết tịnh (xem chương XI), còn Tu luật thánh Augustinô thì để ra hầu như 1/4 bản văn cho vấn đề này. Cũng thế, phần thứ hai của chương IV nói về việc sửa lỗi cho nhau cũng gây ra khá nhiều dị ứng : nó tạo ra một bầu khí nghi ngờ, tò mò để ý tới đời tư của người khác, rồi tố cáo lỗi lầm của họ, khi thì vạch mặt người anh em giữa cộng đoàn lúc lại trừng phạt và thậm chí trục xuất họ ra khỏi dòng. Tất cả những điều này gây cảm giác ngột ngạt. Vì thế chẳng khó gì hình dung những tâm trạng bối rối lo âu về việc lỗi đức khiết tịnh do đọc bản Tu luật này.”[7]. Do đó bước đầu tiên của chúng ta là đánh tan những cảm tưởng tiêu cực, rồi sau đó giải thích và bình luận những điểm tích cực. Trước hết nên biết rằng, bản văn không hề dùng từ ngữ “khiết tịnh”, cũng không có từ “độc thân” hay là “tiết dục”, mà chỉ tập trung vào kỷ luật trong cái nhìn. Phần đông các nhà chuyên môn hiện đại nghiên cứu Tu luật, ví dụ Lucas Verheijen, nhận ra rất chính xác rằng Bản luật cho thấy sự thay đổi giọng văn khi bước sang vấn đề đang bàn[8]. Theo ông, vào lúc biên soạn Tu luật (397), tác giả chưa có cái nhìn thấu suốt về đức khiết tịnh. Những quan niệm vẫn còn nghèo nàn và thậm chí lệch lạc. Thật vậy, người chưa thoát ra khỏi ý tưởng của người đương thời coi giới tính là đồ hèn hạ, và “quan hệ tính dục” là dơ bẩn, xấu xa, kinh tởm, như đã viết trong tác phẩm Soliloqui (1, 13) vừa sau khi trở lại. Cũng vậy, người tiếp tục bênh vực ý kiến của một số người cho rằng trong vườn địa đàng, Ađam và Evà đã sống với nhau như hai anh em ruột, bởi vì quan hệ tình dục là hậu quả của tội lỗi. Vì thế người quyết tâm chạy trốn khỏi tính dục, lẩn tránh phụ nữ hơn bất cứ điều gì khác, cho dù đó là người đàn bà đẹp nhất được ban cho thế giới (1, 10, 17). Mãi về sau, người mới bổ sung và triển khai đạo lý thần học và huyền bí đúng đắn về sự thanh khiết của đời thánh hiến, trong khảo luận tuyệt vời “De sancta virginitate” (401). Cho đến lúc đó, khiết tịnh là chỉ là một sự kiện do đời tu đòi hỏi, chứ chưa được nhìn như một giá trị cao quý. Cần phải giữ khiết tịnh trong đời tu; nhưng để làm gì ? Tu luật không trả lời cho câu hỏi này. Chuyên gia Verheijen thốt lên : “Chúng ta chỉ có thể hối tiếc một điều là Tu luật đã không ra đời trễ hơn một chút”[9].

2. KINH NGHIỆM CAY ĐẮNG CỦA CHÀNG AUGUSTINÔ

Để hiểu rõ hơn quan điểm của thánh Augustinô về sự khiết tịnh, chúng ta đừng nên quên kinh nghiệm bản thân của ông trong lãnh vực giới tính. Lúc lên khoảng 17 tuổi chàng Augustinô chung tình với một cô gái, và sau đó ít lâu thì nàng cho ra đời một cậu con trai tên là Adeodato. Rồi cậu qua đời trong tuổi thanh xuân (khi lên 17 tuổi). Augustinô đã chung sống với nàng được 14 năm, nghĩa là cho đến năm 31 tuổi, khi mà dưới sự ép của mẹ Mônica, chàng đã xé lòng chia tay người tình ấy. Thực ra bà Mônica rất yêu con, mong muốn con trai mình kết hôn theo luật định và bà đã chọn được một nàng dâu tương lai. Nhưng bởi vì người con gái đó còn quá trẻ chưa đến tuổi thành hôn theo luật pháp (14 tuổi), Augustinô đã không thể chịu đựng được thời gian chờ đợi trong hai năm, chàng bèn tìm đến một cô gái khác (Conf.  6,13,23; 6, 15,25), mà chàng buộc phải từ biệt chia tay sau đó vài tháng. Lúc ấy chàng được ơn hoán cải toàn bộ và dứt khoát : “Con trở về với Ngài trong tâm trạng không còn muốn tìm kiếm một người vợ dấu yêu và cũng không tìm kiếm niềm hy vọng nào khác trong thế gian này nữa”[10]. Những kinh nghiệm này chắc chắn đã xé rách tâm hồn Augustinô, và nhất là làm tổn thương các mối quan hệ với phụ nữ. Môn sinh Possidius viết tiểu sử của ngài kể lại rằng : “Không một phụ nữ nào lui tới nhà người, cũng chẳng ở lại đó trong một thời gian, kể cả người em gái đi tu và các cháu. Người làm thế là để tránh xa cơn cám dỗ và cất đi gương mù cho những người yếu đuối […] Nếu được mời đi thăm một người phụ nữ, người luôn đi chung với một giáo sĩ nào đó. Người không bao giờ nói chuyện một mình với phụ nữ kể cả khi phải nói điều gì đó riêng tư cho họ” (Vita 26, 1-3). Câu chuyện này có phần phóng đại và quá đáng chăng ? Đó là nét đặc trưng của thể văn viết hạnh các thánh ngày xưa mà !

3. AUGUSTINÔ, NGƯỜI CON CỦA THỜI ĐẠI

Thánh Augustinô chắc chắn đã chịu ảnh hưởng não trạng của người xưa : thiếu tôn trọng trong cung cách đối xử với phụ nữ. Não trạng của người đương thời đã bị khắc sâu bởi quan niệm trọng nam khinh nữ. Dù cho thánh nhân ý thức sự ngang hàng giữa người nam và người nữ trước mặt Chúa, dù cho trên bình diện đức tin và luân lý, người nữ được xem như bình đẳng với người nam, dù là nam hay nữ kẻ phạm tội ngoại tình đều bị lên án tử (De adulterinis coniugiis, 20, 21), nhưng trong thực tế, người nữ vẫn phải phục tùng người nam. “Như ta biết, lý trí phải chế ngự tình cảm… thì cũng vậy, người nam phải chế ngự người nữ và đừng để người nữ khống chế người nam. Chừng nào điều này xảy đến gia đình sẽ đảo điên và bất hạnh” (De Genesi adversus manichaeos, II, 11, 15). Khi nói về giới tính, Augustinô bảo : “Nếu chúng ta là đàn ông, hãy khuất phục đàn bà” (De adulterinis coniugiis, 20, 21). Khi viết thư cho Leto, một tu sĩ sắp sửa xuất tu do áp lực của bà mẹ, Augustinô cảnh tỉnh anh : “Đằng sau mỗi người đàn bà, dù là vợ hay là mẹ, đều ẩn núp một bà Evà” (Ep. 243). Học thuyết Plato và Manikê đã tạo nên tâm thức thời đại như thế. Theo hai luồng tư tưởng này, tất cả những gì là vật chất và cảm tính như thân xác, giới tính, tình cảm… đều xấu xa và đáng khinh bỉ. Dù thánh Augustinô đã nỗ lực vượt qua những giới hạn của các luồng tư tưởng sai lạc này nhờ viễn tượng của đức tin và Thánh kinh, học thuyết ngoại lai ấy vẫn ảnh hưởng suốt cả cuộc đời ông. Ảnh hưởng này có thể thấy trong cuộc bút chiến với phái Pelagius, bênh vực giá trị của bản tính tự nhiên[11]. Thánh Augustinô cho rằng “dục vọng” (concupiscentia), – hiểu theo nghĩa là đam mê và xu hướng tự nhiên (đặc biệt là dục tính) -, thì sa đoạ tội lỗi. Trái lại, thánh Tôma Aquinô khẳng định rằng đam mê tự bản chất thì tốt lành và nó chỉ xấu xa khi bị rối loạn và lệch lạc. Do đó ta hiểu được lý do của thái độ dè dặt của thánh Augustinô trong lãnh vực tình cảm, nhất là giới tính. Chắc chắn những quan điểm tiêu cực này cũng có trong các Tu luật cổ khác, dù là của thánh Basiliô hay thánh Biển Đức. Nhưng chúng ta không được phép sửa đổi những đoạn văn này, bởi vì đó là những văn bản cổ kính, được dùng làm chân móng cho cả một toà nhà : dù một vài viên đá bị sắp đặt sai chỗ, chúng vẫn giữ vững được công trình. Vì thế khi giải thích và phân tích bản văn, chúng ta sẽ tìm cách nắm bắt “tinh thần” ẩn giấu đằng sau những mệnh lệnh, và xem tinh thần đó được áp dụng thế nào cho thời đại chúng ta.

4. TU PHỤC VÀ CÁCH ĂN MẶC

Số 19 : “Y phục của chị em đừng có gì gây chú ý; đừng muốn gây cảm tình bằng y phục nhưng bằng phẩm hạnh”

Bản luật không nói gì về tu phục riêng của tu sĩ. Thật vậy, vào thời đó, y phục của tu sĩ giống như thường phục của người dân địa phương. Có lẽ họ khoác thêm một áo choàng (pallium) theo kiểu của các đan sĩ Rôma vẫn thường dùng, nhưng không đồng bộ như nhau như Tu luật cho phép hiểu như thế (số 30)[12]. Nhìn chung, Tu luật khuyên nhủ các tu sĩ tránh mọi cái lập dị trong cách trang phục, tức là phải yêu thích sự giản dị (nhưng không luộm thuộm, cẩu thả) và tươm tất (nhưng không xa hoa, phú quý). Và dù cho ăn mặc giống như người đời, họ cần phải đề phòng khỏi rơi vào sự phù vân, đua đòi. Trong đan viện, chắc chắn không thiếu người thích ăn diện, muốn gây ấn tượng bằng quần áo “khác người”. Tu luật cản ngăn họ “đừng muốn gây cảm tình bằng y phục”, đừng xa hoa, bởi vì “những kẻ ăn mặc gấm vóc lụa là thì ở trong cung điện nhà vua” (Mt 11,8). Bản thân thánh Augustinô cũng là một tấm gương về khổ hạnh, đạm bạc. Possidius viết : “Y phục và giầy dép của người rất khiêm tốn; không chải chuốt cũng không luộm thuộm… người giữ thế quân bình, không thiên lệch về bên trái hay bên phải” (Vita 22). Trong một bài giảng trước công chúng, người nói về chính mình như sau : “Một cái áo choàng quý giá có lẽ thích hợp với một giám mục chứ không thích hợp với Augustinô, một người nghèo sinh ra từ đám dân nghèo… Tôi thú nhận với anh em là tôi rất xấu hổ mặc áo đắt tiền, bởi vì nó không phù hợp với điều tôi đã khấn giữ, với điều mà tôi đã dạy dỗ, với những bài diễn thuyết mà tôi đang trình bày, cũng không phù hợp với thân thể và đầu tóc bạc phơ của tôi” (Sermo 356, 13)

5. HÃY TỎ CHO MỌI NGƯỜI THẤY MÌNH LÀ ANH EM

Số 20 : “Khi ra khỏi nhà chị em hãy đi với nhau. Khi đến nơi nào hãy ở lại cùng với nhau”.

Sự hiệp thông huynh đệ được duy trì ở trong nhà cũng như ở ngoài đường. Đây là ý nghĩa của mệnh lệnh đang bàn. Tự nhiên khi có “khách” thì ta chú ý đến họ hơn là đến chị em trong cộng đoàn. Nhưng biết đâu ta sẽ làm ích cho “người đời” qua việc làm chứng cho tình huynh đệ hơn là tiếp xúc trực tiếp với họ ? Dù sao, ta đừng nên quan niệm rằng cộng đoàn tu sĩ là một “phe nhóm” tách biệt khỏi “người đời” hay “thế gian”. Trong quá khứ, tu sĩ là người rất khác biệt với người đời vì tu phục bên ngoài và vì có những tập tục khác đời. Đời tu xuất hiện như cái gì tách biệt (điển hình qua nội vi tu viện). Ngày nay các cộng đoàn dòng tu có khuynh hướng hoà đồng và hiệp thông với cộng đồng xã hội và nhân loại, tạo những mối quan hệ và sự trao đổi với người dân, nhất là những người cùng khổ. Đây là cơ hội để chúng ta nhận ra sự “thay đổi não trạng” xét về hình ảnh đời tu trì, để rồi từ đó, khám phá ra tinh thần của Bản luật, vượt ra khỏi nghĩa đen của nó.

6. ĐỜI SỐNG CHỨNG TÁ

Số 21 : “Trong cách đi đứng cũng như trong mọi cử chỉ hành vi của chị em đừng có điều gì gây khó coi cho người khác, nhưng phải xứng với sự thánh thiện của chị em”.

Khoản luật yêu cầu chị em đừng “lôi kéo sự chú ý” của người khác. Bản luật không xác định rõ cái gì chướng mắt, “gây khó coi”, nhưng trong tư tưởng của thánh Augustinô đó là lời nói thô lỗ, ăn uống thông tục, chạy vội vã, cười hô hố, la hét ầm ĩ. Thật vậy, những yêu cầu thực tế này đối với người thánh hiến được đọc thấy trong tác phẩm De sancta virginitate : “Giữa chị em đừng để xảy ra những điều thiếu tế nhị, hoặc những gì trái với sự mong đợi của người dân, tức là chị em đừng mang khuôn mặt ủ rũ, cái nhìn tò mò, miệng lưỡi luyên thuyên không ngừng, cười nói ầm ĩ, đùa giỡn thô tục, tư cách ngạo nghễ hay ẻo lả” (53, 54). Như thế phải chăng Tu luật mong muốn chị em cư xử “có giáo dục” ? Không phải như thế ! Tu luật xác định rõ ràng mệnh lệnh yêu cầu chị em phải sống sao cho “xứng với sự thánh thiện của chị em”, nghĩa là sống dễ thương, nhẹ nhàng, dè dặt và nhất là cao thượng. Người trẻ hôm nay rất muốn sống theo cung cách riêng tư của mình, chứ không chịu rập theo khuôn mẫu. Phần nào mỗi người tu sĩ chúng ta cũng thế, nghĩa là mang trách nhiệm riêng của mình trước mặt người khác. Các tu sĩ là người đã “khấn công khai” phục vụ Chúa và anh em, cho nên chúng ta phải cảm thấy mình có nợ với dân chúng. Họ có quyền đòi hỏi và nhận nơi từng người trong chúng ta những tấm gương sáng, những chứng từ sống động “toả ngát hương thơm Chúa Kitô qua cuộc sống tốt lành” (số 48). Cuộc sống chân thành và chứng từ có tương quan mật thiết với nhau. Cuộc sống chân thành sẽ cho lời chứng tá toả hương thơm, còn chứng từ mà không có cuộc sống thì chỉ là lời giả dối như những người Biệt phái. Tuy nhiên lời chứng tá còn cần một chiều kích khác nữa là người nhận. Chỉ có cuộc sống dâng hiến chân thực của chúng ta mà thôi thì chưa đủ, cần phải toả sáng và được cảm nhận từ phía những người khác. Đối với thánh Augustinô, cuộc sống cộng đoàn huynh đệ bên trong đan viện không quan trọng lắm, cuộc sống ấy phải có cả danh thơm tiếng tốt. Người viết : “Các bạn hãy biết phân biệt điều này, lương tâm và tiếng tốt là hai điều khác nhau. Lương tâm là để cho bạn, còn tiếng tốt là để cho tha nhân của bạn. Thật là tai hại nếu như một người tin tưởng vào lương tâm của mình mà xao lãng sống nhân chứng cho người khác, như thánh tông đồ Phaolô đã viết cho môn sinh mình : ‘Chính anh phải làm gương về đức hạnh’ (Tt 2, 7)” (Serm 355,1). Mỗi lần thánh Augustinô thấy trong cộng đoàn có gương mù gây cớ vấp phạm cho người đời, nhất là gương mù liên quan đến tiền bạc và tài sản của Giáo hội, người liền nói ra công khai để làm sáng tỏ sự việc. Khi nghe biết mình bị chỉ trích là “hưởng thụ giàu sang”, người liền lập tức tuyên bố dõng dạc là thà chết về thân xác còn hơn là chết về danh dự, để cho những người yếu đuối khỏi vấp phạm (Serm. 335 và 336; Ep. 126, 8). Augustinô là con người rất coi trọng danh dự cá nhân và cộng đoàn đến nỗi sẵn sàng hiến thân và hy sinh mạng sống để bảo vệ danh dự ấy. Đối với người, có một lương tâm bình thản thì chưa đủ, cần phải lưu tâm đến lương tâm của người khác nữa, nhất là những người bình dân. Chính đức ái đòi buộc chúng ta điều này. “Chúng ta đừng xét đoán nhau nữa. Tốt hơn là hãy tìm cách đừng làm cho anh em mình vấp ngã” (Rm 14, 13). Vì thế người đề cao đời sống chứng tá toả ngát hương thơm “Chúa Kitô”, thi hành sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội. Lòng nhiẹt thành này không khác gì với tâm huyết của vị Tông đồ dân ngoại nhiệt thành. Thánh Phaolô là người rất nhạy bén với tấm gương tốt và ao ước cho ánh sáng từ các những vì sao ấy nở rộ trong khung trời cộng đoàn Kitô hữu : “Chúng tôi quan tâm ăn ở ngay lành không những trước mặt Chúa mà cả trước mặt người đời” (2Cr 8, 21; 1Cr 10, 33; Pl 4, 8-9; 1Tm 3,7). Thậm chí Chúa Giêsu, dù chỉ trích mọi hình thức giả hình đến tận căn, Ngài cũng khuyên nhủ : “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy công việc của anh em làm mà tôn vinh Cha của anh em Đấng ngự trên trời” (Mt 5, 16). Tóm lại, đã làm chứng là làm chứng về cái gì, và điều này giả thiết là có một lương tâm tốt; nhưng làm chứng còn có nghĩa là làm chứng trước mặt ai đó, và điều này hàm ý có danh tiếng tốt. “Lương tâm là của tôi, còn danh thơm tiếng tốt là của bạn”. Đó là ý nghĩa tại sao khoản luật yêu cầu chị em phải ý tứ về cách ăn nết ở, lời nói trước mặt người đời, sống phù hợp với đời thánh hiến.

7. KỶ LUẬT TRONG CÁI NHÌN

Số 22 : (a) “Đôi mắt của chị em khi thấy người nam, đừng chằm chằm nhìn vào một người nào. Dĩ nhiên khi ra ngoài không cấm nhìn người nam, nhưng ước ao họ hay muốn họ yêu mình thì là tội nặng. Lòng ham muốn người nam không phải chỉ do tiếp xúc và tình cảm mà còn do nhìn xem nữa. (b) Đừng nói mình có tâm hồn thanh khiết khi chị em có con mắt không thanh khiết, vì con mắt không thanh khiết cho thấy tâm hồn không thanh khiết. (c) Dù không nói lời nào nhưng khi hai trái tim đã tỏ ra không thanh khiết qua cái nhìn, và đôi bên đã thoả mãn ước muốn xác thịt thì đức khiết tịnh đã bị mất rồi cho dù thân thể không bị xâm phạm nhơ uế”.

Ở đây Bản luật nói về đức khiết tịnh cách thực tiễn, và cụ thể là cái nhìn, chứ không trình bày một nhãn giới thần học như những tác phẩm viết sau này (nhất là trong tác phẩm De sancta Virginitate, De bono coniugali và De nuptiis et concupiscentia). a) Trong số Tu luật vừa trích, nhìn người khác giới là điều tự nhiên. Vấn đề không phải “nhìn” hay “không nhìn” người nam, mà là nhìn người ấy “chằm chằm”, nghĩa là ao ước họ và muốn chiếm hữu họ. Cái nhìn không trong sạch là điều đáng khiển trách và cấm đoán; đó là một trọng tội. Điều này chẳng có gì mới mẻ, chính Chúa Giêsu cũng đã dạy rằng khiết tịnh thì sâu hơn là “chớ ngoại tình”, nó xuất phát từ chính tâm hồn của mỗi người, là nguồn của mọi quyết định và tự do : “Anh em đã nghe luật dạy rằng : ‘Chớ ngoại tình’. Còn Thầy, Thầy bảo anh em biết : ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã phạm tội với người ấy rồi” (Mt 5, 27-28). Sách Gióp cũng nói “lòng chiều theo con mắt” (G 31, 7). Qua con mắt ngắm nhìn, lòng sẽ thức tỉnh và hành động. Tu luật thánh Augustinô dựa trên điều căn bản ấy mà thiết định mệnh lệnh này. Tu luật thật là khôn ngoan khi dạy chúng ta hãy đề phòng hơn là đàn áp. Vì thế cần phải ngăn chặn những ước muốn không trong sạch khởi đầu từ cái nhìn : cái nhìn gợi lên dục tình, vì thế phải kiểm soát nó, để ngăn chặn tiến trình phạm tội. Học giả H. Victor liệt kê ra những bước khác nhau trong tiến trình này : cái nhìn – tình cảm – tưởng tượng – thích thú – ưng thuận – hành động – thói quen – sự cần thiết. Thánh Kinh cũng yêu cầu một kỷ luật trong khi nhìn xem. Ví dụ ông Gióp khi xét mình thì bắt đầu từ con mắt : “Tôi đã kết ước với đôi mắt của tôi là không nhìn ngắm một thiếu nữ nào” (G 31, 1). Các nhà hiền triết cũng khuyên can : “Đừng chòng chọc nhìn nàng trinh nữ, kẻo con sa ngã mà bị phạt với nàng… Hãy tránh đừng nhìn người phụ nữ nhan sắc, cũng đừng ngắm nghía một giai nhân xa lạ. Sắc đẹp đàn bà làm bao kẻ đảo điên, cũng vì thế mà ái tình bừng lên như lửa” (Hc 9, 5 và 8). Chúng ta cũng đã quá biết sự yếu đuối của vua Đavít, quân vương phạm tội ngoại tình khởi đầu bằng đôi mắt : “Từ sân thượng vua thấy một người đàn bà đang tắm. Nàng nhan sắc tuyệt trần” (2Sm 11,2). Chính Chúa Giêsu cũng khuyên các môn đệ về việc “giữ gìn con mắt” khi nói : “Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã thì hãy móc mà ném đi” (Mt 18, 9). Vì thế, chúng ta không thể phủ nhận rằng Thánh Kinh cũng đề cập đến nguy hiểm của cái nhìn người khác giới, nhất là nhìn người nữ. Bản luật mà chúng ta đang phân tích chắc chắn đã dựa trên cơ sở Thánh Kinh và truyền thống, và cũng có hiệu lực như Bản luật dành cho giới nam. Tuy nhiên, chúng ta có thể phê bình thánh Augustinô là nhấn mạnh quá nhiều đến nguy hiểm của giới tính và dục vọng. Nó làm cho nhiều người bối rối, sợ hãi, chỉ nhìn người khác giới như một nguy cơ phạm đến sự trinh khiết. Phần nào đó là khuyết điểm của thời xưa. Ngày nay chúng ta biết rằng tình dục là cái gì đó tự nhiên, do Đấng Tạo hoá xếp đặt, vì thế nó có ý nghĩa tích cực, tươi đẹp. Nó đi vào hành trình tình yêu của nhân loại và được Hội thánh thánh hoá thành một bí tích. Nhờ sự tiến bộ của khoa tâm lý và phân tâm học, nhiều người cũng đạt được cái nhìn bình thản hơn. Dù vậy, từ cực đoan của thái độ ngăn ngừa, sợ hãi đứng trước phái tính, người ta lại chuyển sang cực đoan phủ nhận sức mạnh của cám dỗ và tội lỗi trong lãnh vực tình dục, và tục hoá giới tính và tình yêu. Dù sao, nhận chân sắc đẹp người phụ nữ hay làm bạn với một người khác giới tự nó không đi nghịch lại với đức khiết tịnh. Yếu tố quan trọng và nền tảng là định hướng sâu xa của tôi muốn dâng hiến cuộc đời cho Chúa cách trọn vẹn và dứt khoát để phục vụ vương triều của Ngài. Chỉ có như thế thì tương quan giữa những người thánh hiến với nhau mới nhận được ý nghĩa thực sự. b) Nếu như thánh Augustinô cho rằng : “Tiết độ là một nhân đức của tinh thần chứ không phải của thể xác” (De bono coniugali, 21, 25), thì nguồn gốc và yếu tính của khiết tịnh là ở trong tâm hồn và từ đó tràn lên thân xác. Ta không thể nào phủ nhận mối dây mật thiết giữa cái trong trắng nội tâm và sự tinh sạch bên ngoài. Sự trinh khiết đòi hỏi một tâm hồn trong sạch và cử chỉ thanh cao, chủ ý trong sáng và cái nhìn tinh tuyền. “Đừng nói mình có tâm hồn thanh khiết khi chị em có con mắt không thanh khiết, vì con mắt không thanh khiết cho thấy tâm hồn không thanh khiết”. Khoản luật này cho thấy mối dây liên hệ giữa cái nhìn và tâm hồn thật là thắm thiết. Nếu người ta thường nói đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn, là tấm gương phản chiếu tâm tư, thì đối với Tu luật “con mắt không thanh khiết bộc lộ tâm hồn không thanh khiết”. Chính Chúa Giêsu cũng đã nói : “Đèn của thân thể là con mắt. Vậy nếu mắt anh sáng thì toàn thân anh sẽ sáng” (Mt 6, 22). Việc kiểm chứng lời dạy khôn ngoan này không khó khăn gì cả, bởi vì chỉ cần bước ra đường phố, quan sát người anh em của chúng ta hoặc người khác đang nhìn ngắm người khác giới, chúng ta sẽ dễ nhận ra trong ánh mắt họ tâm hồn thanh khiết, trong sáng hay xấu xa, đê tiện, bợn nhơ. Bản luật phòng ngừa những lý do biện minh cho một lối sống phóng túng, thậm chí lại còn trưng dẫn lời của thánh Phaolô để chống chế: “Mọi sự đều trong sạch với những người trong sạch” (Tt 1, 15). Thực tế là tâm hồn sẽ phản ánh trên ánh mắt và khoé mắt thì lôi cuốn, mời mọc. c) Bản luật tiếp tục bàn tới một trường hợp cụ thể giữa hai người trao đổi cho nhau cái nhìn xuất phát từ sự say mê tình tứ, và cho đó là một trọng tội mặc dù thân xác chưa bị xâm phạm : “Dù không nói lời nào, nhưng khi hai trái tim đã tỏ ra không thanh khiết qua cái nhìn, và đôi bên đã thoả mãn ước muốn xác thịt thì đức khiết tịnh đã bị mất rồi cho dù thân thể không bị xâm phạm nhơ uế”. Khẳng định này có quá đáng không ? Đây là lời dạy của Tin mừng : “Ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn thì trong lòng đã phạm tội với người ấy rồi” (Mt 5, 28). Như chúng ta đã nói, đối với Augustinô, bản chất của sự thanh khiết nằm ở trong trái tim. Không phải chỉ xâm phạm đến thân thể mới phá huỷ sự thanh khiết, trinh trong (De civ. Dei 1, 26). Khiết tịnh là vấn đề của tự do. Mặt khác, khi tâm hồn không còn khiết tịnh, thì tuy dù thân xác không bị xâm phạm nhưng nó cũng chẳng còn nguyên tuyền (De civ. Dei. 1, 8, 2). “Nguyên tắc nội tâm” của mỗi hành vi luân lý, kể cả trong lãnh vực tính dục, đã gặp thấy trong Tin mừng : “Cái gì từ trong con người xuất ra cái đó mới làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người phát xuất những ý định xấu : tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác…” (Mc 7, 20-22). Dĩ nhiên, tuy khía cạnh nội tâm là chủ yếu và quan trọng nhưng chưa đủ. Sự khiết tịnh còn phải thể hiện ra bên ngoài nữa. Tuy nhiên cần biết rằng loại tương quan tình cảm được diễn tả trong số vừa trích dẫn tiêu biểu cho một dạng thức tu trì bị kiềm toả, xa lạ với đời tu ngày nay. Đối với tu sĩ ngày nay, khó mà giới hạn vấn đề tình cảm vào việc “trao đổi cái nhìn”, hay “không nói năng” (những hình thức này được đặt tên là “lãng mạn”) ! Dù thế nào chăng nữa, chúng ta phải giữ tinh thần của Tu luật cách nghiêm túc. Tu luật nhắc nhở chúng ta rằng đừng nhẹ dạ, khinh thường, nhưng cần phải có cái nhìn rất thực tế, như nhà hiền triết Kinh Thánh hỏi chúng ta :

“Có ai giấu lửa trong người mà không bị cháy áo ? Có ai đi trên than hồng mà không bị bỏng chân ?” (Cn 6, 27-28)

Tóm lại, thánh Augustinô khuyên dạy các tu sĩ bài học phải giữ mình trong sáng toàn diện và tinh khiết nguyên vẹn không chỉ trong thân xác mà cả trong tâm hồn, theo tinh thần của Tin mừng : “Hỡi người Pharisiêu mù quáng kia, hãy rửa bên trong chén dĩa cho sạch trước đã, để bên ngoài cũng được sạch” (Mt 23, 26).

8. KHIẾT TỊNH DƯỚI MẮT AI ?

Số 23a : “Ngoài ra, người dán mắt vào một người nam và thích họ nhìn mình như thế thì đừng lầm tưởng rằng các chị em mình không biết chuyện đó. Chắc chắn là có người biết và chính kẻ mình không ngờ thì lại thấy”.

Thánh Augustinô có một óc quan sát rất tâm lý : Khi hai người mới yêu nhau, họ luôn luôn nghĩ là không có ai biết câu chuyện của họ; tình yêu của họ vẫn ở trong vòng “bí mật giữa hai người”. Nhưng thánh nhân bảo : thật là ảo tưởng, họ không biết rằng đã có người khác thấy rồi ! Xem ra nói như vậy nhằm mục đích can gián người phạm tội và gây cho họ sợ hãi mà tránh tội. Tuy nhiên động cơ để tránh phạm tội khiết tịnh phải được nâng cao hơn khi người viết ở số kế tiếp : Khiết tịnh dưới con mắt Chúa.

Số 23b : “Giả như kín đáo không ai nhìn thấy, nhưng còn Đấng từ trời cao nhìn xuống, không gì giấu được thì sao ? Phải chăng vì Người khôn ngoan bao nhiêu thì càng kiên nhẫn bấy nhiêu, nên tưởng Người không trông thấy ?”

Ở đây viễn tượng này chuyển sang phương diện đức tin : Thiên Chúa thấy hết mọi sự ! Hãy sợ chính Thiên Chúa. Đây chính là linh đạo về sự hiện diện của Ngài biểu trưng bằng một con mắt nằm ở giữa hình tam giác. Truyền thống tu đức này có những giới hạn của nó khi làm cho người ta nghĩ đến một Thiên Chúa giống như viên cảnh sát, luôn theo dõi đường đi nước bước của phạm nhân, thậm chí theo dõi cả cõi thầm kín nhất. Thứ linh đạo kiểu này không toát lên vẻ cao cả tí nào : người ta tránh tội chỉ vì sợ hình phạt. Rồi người ta sẽ viện cớ để nói rằng : “Thiên Chúa không can thiệp đâu” (Tv 9, 10, 23, 34). Thánh Augustinô trả lời cho họ rằng : “Ngài kiên nhẫn chờ đợi tội nhân hoán cải, như lời Thánh Kinh đã dạy (Kn 12, 10; Rm 4, 4; 2Pr 3, 9)”. Nhưng Tu luật kiện toàn linh đạo lòng kính sợ Chúa với một chiều hướng cao thượng hơn :

Số 23c : “Người tận hiến phải sợ làm mất lòng Chúa để khỏi muốn làm đẹp lòng một người nam cách bất chính. Phải nghĩ rằng Người trông thấy mọi sự để khỏi ước muốn nhìn xem người nam cách không trong sạch. Trong việc này phải có lòng kính sợ Chúa, vì Sách Thánh viết : ‘Chúa ghê tởm người nhìn cắm mắt’ (Cn 27, 20)”.

Tuy đoạn luật nói đến nỗi “sợ hãi” nhưng đó là “sợ hãi làm mất lòng Chúa” chứ không phải là “sợ hãi của người nô lệ” lo lắng bị trừng phạt. Đó là “sợ hãi của người con”, tìm cách không làm phiền lòng người thân yêu; nó có thể tồn tại trong tình yêu (1Ga 4, 18). Thánh Augustinô gọi là “sợ hãi trinh tiết” giống như người vợ trung thành sợ làm phiền lòng chồng, khác hẳn sự “sợ hãi bất trung” sợ chồng nổi giận (In Ps 127, 8-9). “Nếu bạn không yêu, bạn sợ sẽ bị huỷ diệt; còn nếu bạn yêu rồi, bạn sợ làm mất lòng” (De sancta virginitate, 39, 40). Đối với Tu luật, mối tương quan với Chúa mang tính tuyệt đối và trọn vẹn, dành riêng cho một mình Ngài mà thôi. Điều này được đặt ra cho tất cả mọi người và đặc biệt là cho người thánh hiến. Tại sao vậy ? Bởi vì Thiên Chúa là “Chúa hay ghen” không chấp nhận có ai khác song đối với Ngài, như đã viết : “Ngươi không được phủ phục trước một thần nào khác, vì Đức Chúa mang danh là Đấng ghen tương. Người là một Vị Thần ghen tương” (Xh 34, 14). Như vậy, ngay giữa con tim của con người có một ngai toà với một chỗ ngồi, hoặc là cho Chúa hoặc là cho ngẫu tượng. Vì thế Tu luật nhắc nhở chị em một cách dứt khoát : hãy chú ý đừng làm mất lòng Chúa vì muốn làm đẹp lòng một người nam. Tuy nhiên thánh Augustinô liên tục cảnh giác nguy cơ đi từ chỗ tình yêu “trên hết” đến chỗ tình yêu “duy nhất”, với nguy cơ tạo nên sự đối nghịch giả tạo và cứng ngắc giữa Đấng Tạo hoá và loài thọ tạo, giữa Thiên Chúa và người khác giới. Do đó, xét vì trái tim con người phải dành cho Thiên Chúa mối tình trước hết và trên hết, vấn đề được đặt ra không chỉ đơn giản là muốn làm đẹp lòng một người khác giới mà là “muốn làm đẹp lòng người nam cách bất chính”;cũng tựa như trước đây, vấn đề không phải là nhìn người khác giới mà là nhìn với con mắt không trong sáng. Vì thế khi nhìn người nam, chúng ta phải nhìn với đầy lòng kính trọng sâu xa và không phải như nhìn một đồ vật sử dụng; một cái nhìn giống như của Cha ở trên trời chứ không phải cái nhìn của tính ích kỷ phàm tục.

9. TRÁCH NHIỆM CỦA CỘNG ĐOÀN VỀ SỰ KHIẾT TỊNH

Số 24 : “Vậy khi chị em họp nhau trong nhà thờ hay bất cứ nơi nào có người nam, hãy gìn giữ đức thanh khiết cho nhau. Vì Thiên Chúa ngự trong chị em, thì cũng theo cách này người dùng chị em để gìn giữ chị em”.

Tu luật dặn dò chị em “hãy gìn giữ đức thanh khiết cho nhau”. Có lẽ khoản luật này trích lại chỉ thị của Công đồng địa phương ở Híppô vào năm 393. Trong phiên họp, các nghị phụ đã mạnh mẽ kêu gọi những người trước đây sống lời khấn khiết tịnh ở trong gia đình hoặc ở một mình, hãy sống chung với nhau, hầu tránh làm tổn thương đến danh thơm tiếng tốt của Giáo hội do việc lao đầu vào những chỗ nguy hiểm. Mỗi chị em đều có trách nhiệm về người khác. Không ai có thể nói như Cain : “Con không biết. Con đâu phải là kẻ gìn giữ em con ?” (St 4, 9). Nhưng có trách nhiệm về người khác hoàn toàn không có nghĩa là canh chừng người khác kiểu như công an, cho bằng chị em giúp đỡ lẫn nhau. Sự thanh khiết sẽ được bảo đảm và triển nở trong đời sống huynh đệ cộng đoàn. Chỉ có thế “điều mà chị em không thể làm được với sức lực của mình, nhưng chị em sẽ làm được với sự giúp đỡ của người khác” (H. Victor). Công đồng Vatican II cũng quả quyết như vậy : “Đức khiết tịnh được bảo trì an toàn hơn cả khi nào trong đời sống cộng đoàn có tình huynh đệ đích thực giữa các tu sĩ” (PC 12b). Nhưng để đón nhận sự trợ giúp của người khác, thánh Augustinô đã nói rất hay là cần có sự khiêm nhường : “Nẻo đường của khiết tịnh là đức ái […] nhưng chốt canh phòng nẻo đường này là đức khiêm nhường” (De sancta virginitate 51-52). Tu luật coi cộng đoàn là trung gian của ân sủng. Đành rằng Thiên Chúa gìn giữ đức khiết tịnh của những kẻ tận hiến cho Ngài, nhưng Ngài cũng dùng chính chị em trong cộng đoàn để gìn giữ khiết tịnh cho nhau. Thiên Chúa của Augustinô không lượn trên không trung, nhưng Ngài ở giữa cộng đoàn, nơi thâm tâm của từng chị em, Ngài hoạt động trong chị em và nhờ chị em. Chị em là đền thờ của Ngài, ở đó Ngài được cung kính tôn thờ (số 9). Đức khiết tịnh của chị em là kết quả của tình huynh đệ cộng đoàn, nhưng không vì thế mà nó không còn là ơn Chúa ban. Trái lại, chỉ có Chúa là nguồn mạch cuối cùng của mọi tác động ân sủng. Đây là niềm xác tín sâu xa của thánh Augustinô (Conf. 10, 29, 45).10. SỨ ĐIỆP CHO NGƯỜI HÔM NAY Sau khi phân tích các khoản luật về đức khiết tịnh dành cho nữ giới, chúng ta sẽ tìm thấy giá trị mới của Tu luật thánh Augustinô viết cho nam giới khi chú trọng nhiều đến cái nhìn phụ nữ cách trong sáng. Điều này cống hiến cho phong trào giải phóng phụ nữ ngày nay một chiều hướng thực hành mới. Trước hết, cần phải chỉnh lại hình ảnh tiêu cực về phụ nữ (đừng nhìn kẻo ra ô uế) sang hình ảnh tích cực : nhìn người phụ nữ với sự tôn trọng chứ không đối xử như một đối tượng hưởng lạc. Hơn nữa, đây cũng là ý nghĩa nguyên thuỷ của Tin mừng. Nếu như Đức Giêsu dạy các môn đệ có tình bác ái yêu thương người anh em đến nỗi tránh dùng những từ ngữ tục tĩu, nặng lời (“đồ điên, đồ khùng”), thì việc tôn trọng người phụ nữ cũng phải loại trừ mọi cái nhìn thu nhỏ họ thành một thứ đồ vật, hoặc ước ao chiếm hữu nàng. Tiếc thay, phương tiện truyền thông đại chúng của ngày hôm nay đã lợi dụng danh nghĩa tôn vinh sắc đẹp của người nữ, biến họ thành món hàng quảng cáo, như vật dụng tiêu thụ. Trong bối cảnh này, Tu luật thánh Augustinô là một lời chỉ trích, chống lại mọi thứ nhìn ngắm phụ nữ cách lệch lạc, đồng thời mời gọi mọi người hãy nhìn họ với đôi mắt của Đấng Tạo hoá. Mặt khác, hiện nay có nhiều phụ nữ nghèo thuộc các dân tộc đói khổ và bị áp bức, có những bà mẹ, cô gái, thiếu nữ càng ngày càng ý thức hơn phẩm giá của mình. Họ là những vị thánh, là vĩ nhân của thời đại. Họ đang đúc lên hình ảnh người phụ nữ mới, đồng thời giáo dục cái nhìn của mọi người nhắm đến sự tôn trọng, bình đẳng, công lý, yêu thương.

Mục 2. SỬA LỖI HUYNH ĐỆ

Mục này tiếp tục đề tài của mục vừa rồi nói về sự thanh khiết và cái nhìn người khác giới, và khai triển cách riêng nguyên tắc trách nhiệm hỗ tương đã được phát biểu trong số 24. Mỗi chị em có bổn phận phải chăm sóc chị em khác, để họ không sa ngã và nếu có ngã thì họ có thể trỗi dậy được. Ở đây tình liên đới huynh đệ mở rộng sang phạm vi ân sủng và sám hối. Tu luật dựa vào bản văn Tin mừng Matthêu 18, 15-17 nói về sửa lỗi cho nhau : “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh thì anh đã chinh phục được người anh em. Còn nếu nó không chịu nghe thì hãy đem theo một hay hai người nữa, để mọi công việc được giải quyết căn cứ vào lời hai hoặc ba nhân chứng. Nếu nó không nghe họ thì hãy đi thưa Hội thánh. Nếu Hội thánh mà nó cũng chẳng nghe, thì hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế”. Chắc chắn thánh Augustinô còn biết đến nhiều đoạn Thánh Kinh khác nữa dù không được trích dẫn :

–  2Tx 3, 14-15 : sửa lỗi huynh đệ những người bất tùng phục;

–  Gl 2, 11-14 : thánh Phaolô sửa lỗi thánh Phêrô trước mặt mọi người;

–  Gl 6, 1 : sửa lỗi anh em với tinh thần hiền hoà;

–  1Cr 5 : cộng đoàn sửa dạy một phần tử phạm tội loạn luân;

–  1Tm 5, 19-20 : khiển trách kẻ phạm tội, căn cứ theo nhân chứng và trước mặt mọi người;

–  Tt 3, 10 : trục xuất một phần tử sau hai lần cảnh cáo;

–  Gc 5, 16 và 19-20 : thú tội với nhau, và dẫn người lầm lạc trở về nẻo chính;

Và còn rất nhiều đoạn Kinh thánh Cựu ước khác : Lv 19, 17; Tv 141, 5; Ed 3, 16-21; 33, 1-9, vv… Thánh Augustinô viết lên khoản luật này cảm hứng theo tất cả truyền thống Thánh kinh. Nên lưu ý là những đoạn văn trên đây không nhắm mô tả thủ tục pháp lý về việc sửa lỗi cho bằng tiến trình sư phạm giúp cho người có lỗi biết hối hận. Nhưng không may đề tài sửa lỗi huynh đệ được bàn trong mục liên quan đến cái nhìn người khác giới, khiến người đọc có cảm tưởng là tác giả luôn bị ám ảnh về tội dâm dục. Tuy nhiên, trong số kế tiếp (số 28), Tu luật mở rộng tầm áp dụng sửa lỗi cho nhau trong các lãnh vực khác của đời sống tu trì.

1. SỬA LỖI NGƯỜI CHỊ EM VỚI MỘT MÌNH BẠN

Số 25 : “Nếu nhận thấy ai trong chị em không giữ con mắt như tôi vừa nói, chị em hãy khuyến cáo họ ngay để điều xấu vừa chớm khỏi gia tăng, nhưng được khử trừ”.

Khoản luật này nhấn mạnh đến tính khẩn trương của việc sửa lỗi : “Hãy khuyến cáo họ ngay”. Nhà viết Tu luật sẽ thúc bách như thế một lần nữa khi nói về chuyện cãi vã nhau trong cộng đoàn (số 41). Tại sao khẩn thiết trong hai trường hợp này ? Bởi vì ông biết rất rõ đây là hai sức năng động cơ bản trong tâm tính con người : dục tình và gây gỗ. Một khi đã bùng nổ thì dễ lan rộng đến nỗi không thể khống chế được. Điều đáng chú ý là cả hai truờng hợp phạm lỗi đều có thể bị loại khỏi nhà dòng (số 27d và 42f). Làm thế nào để áp dụng khoản luật này cho đời sống tu trì của chúng ta hôm nay ? Văn hoá hôm nay phóng khoáng và tự do hơn xưa rất nhiều. Đứng trước những yếu đuối và lỗi lầm của người khác về đức khiết tịnh, bạn sẽ nói : “Vấn đề này không quan trọng !”. Rồi với tâm thức đề cao chủ nghĩa cá nhân, người phạm lỗi sẽ cật vấn bạn : “Việc gì mà chị lại can thiệp vào chuyện tình cảm của tôi ? Xin chị đừng dính mũi vào chuyện của tôi !”. Dầu vậy, chúng ta cũng đang định hình một luân lý mới, ý thức mới và lối sống mới về khiết tịnh : khiết tịnh là để thánh hiến cho Chúa và phục vụ Vương quốc của Người. Việc sửa lỗi huynh đệ phải là một tín hiệu cấp cứu và phương dược cứu chữa của tâm thức đạo đức này. 2. BÁO CHO HAI NGƯỜI HOẶC BA NGƯỜI BIẾT

Số 26a : “Nhưng nếu đã khuyến cáo mà trong ngày đó hay ngày khác lại thấy họ vẫn tái phạm như thế, thì phải coi họ như một người thương tích cần chữa trị. Tuy nhiên trước đó phải cho một người khác hoặc người thứ ba biết để hai hoặc ba người làm chứng buộc họ nhận tội và chịu hình phạt nghiêm khắc xứng hợp”.

Khoản luật xử lý nghiêm khắc đối với trường hợp của một người tái phạm. Người ấy bị coi như người đau ốm cần phải chịu phẫu thuật. Luật buộc chị em phải cảnh báo cách quyết liệt hơn nữa khi thấy họ tái phạm, đồng thời phải tìm đến hai hay ba người nữa để họ làm chứng theo như tiến trình sửa lỗi trong cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi (Mt 18, 16). Đối với tâm thức của người thời nay thì mệnh lệnh này hơi quá đáng. Nó gây thêm bầu khí căng thẳng trong cộng đoàn, khác hẳn với bầu khí giản dị, hiền hoà mà Tin mừng đã phác hoạ. Cảm tưởng này sẽ được khẳng định một lần nữa trong những mệnh lệnh kế tiếp. Từ số 25 đến số 29 bầu khí cộng đoàn đan tu huynh đệ trở nên ngột ngạt vì việc khai báo, tố tụng và trừng phạt, làm độc giả trẻ hôm nay nghĩ mình đang ở phòng cảnh sát, bị buộc lòng phải đột nhập vào đời tư của người khác không chút khoan hồng. Để hiểu mệnh lệnh này, cần phải đặt nó vào hoàn cảnh lịch sử đương thời. Vào lúc đó Giáo hội chưa có bí tích xưng tội như bây giờ mà chỉ có việc sám hối công khai về những tội rất nặng như : ngoại tình, giết người, chối đạo. Chính vì thế đời sống luân lý của người Kitô hữu mang tính cách công cộng. Khi thấy một người anh em lao vào nguy hiểm nặng nề về luân lý, thì cả cộng đoàn tín hữu tập trung lại chỉnh đốn kèm theo những lời cáo tội, khiển trách, bởi vì họ cảm thấy có trách nhiệm về người anh em đó. Cộng đoàn tìm cách ngăn chặn anh khỏi rơi vào tình trạng khủng khiếp là bị trục xuất khỏi cộng đoàn, nghĩa là bị khai trừ khỏi Giáo hội. Ngày nay, dù chúng ta có phạm nhiều tội nặng đến đâu đi nữa, chúng ta chỉ xưng thú với cha giải tội trong toà kín đáo; nhưng ngày xưa thì phải để cho anh em sửa lỗi công khai. Vì thế, chúng ta khó quan niệm được vai trò của cộng đoàn trong việc giúp chúng ta cải thiện, bởi vì chúng ta đã được huấn luyện lãnh trách nhiệm cá nhân. Từ đó chúng ta có thể sẽ tự nhủ : hãy để mỗi người tự giải quyết vấn đề tình cảm riêng tư của mình; ngoài ra, trong một cộng đoàn cởi mở và biết đối thoại, dục tính sẽ không còn là đề tài cấm kỵ nữa. Vấn đề tương quan với một người khác phái hoàn toàn là chuyện riêng tư, sẽ không một ai thọc gậy bánh xe… Tâm thức này thực sự đang cản ngăn chúng ta sống tinh thần đồng trách nhiệm về đời dâng hiến của những người sống chung với ta và đang cùng với ta làm chứng cho Nước Trời. Đây có phải là một trong những nguyên nhân làm cho nhiều chị em của chúng ta bỏ dòng ra đi ? 3. TÌNH YÊU CHÂN THẬT ĐÔI KHI GÂY ĐAU KHỔ

Số 26b : “Khi tố giác như thế chị em đừng nghĩ mình ác tâm. Trái lại chị em sẽ không phải là người nhân ái, nếu như có thể trình báo để sửa chữa người chị em của mình mà lại im lặng để họ hư đi”.

Tác giả Tu luật nhận thấy sự việc rất tế nhị khi phải báo cho người thứ ba biết những vấn đề cá nhân của người chị em đã nêu trên. Khuyến cáo họ sẽ làm cho họ có những ấn tượng tiêu cực về tôi, và tôi bị coi là kẻ ác tâm ! Tuy nhiên, ông không thối lui trước ấn tượng tiêu cực đó, bởi vì ông có một quan niệm về tình yêu cao cả chứ không chỉ thuần tình cảm : khi cần phải cứu vớt người chị em sắp rơi vào cơn sa ngã nguy tử, thì không được phép tránh né, vì ngại ngùng hay trắc ẩn giả tạo.

Số 26c : “Nếu có người chị em nào bị thương nơi thân xác nhưng giấu kín vì sợ phải giải phẫu, thì chị em biết mà im lặng thì không phải là độc ác sao và trình báo lại không phải là thương xót sao ? Vì vậy chị em càng phải trình báo để cho vết thương tâm hồn khỏi nên ung nhọt như thế nào ?”

Tác giả Tu luật dùng hình ảnh của ngành y khoa để giải thích vấn nạn vừa nêu trên đây. Khi thấy đứa em mình đang đau nặng, người chị liền đi báo với bác sĩ để chữa, và nếu cần thì phẫu thuật, dù biết em mình sợ mổ. Làm như vậy thì đâu phải là tàn nhẫn ? Phải nói ngược lại : nếu vì muốn chiều lòng em mình mà không đưa nó đi bệnh viện thì mới là “tàn nhẫn”. Quan niệm “tình yêu tàn nhẫn” xuất hiện nhiều lần trong các tác phẩm của thánh Augustinô, để nói lên tình yêu chân thực, thí dụ trong bài giảng sau đây : “Có người nào chẳng sợ dao mổ ? Người chịu phẫu thuật tất nhiên sẽ phải khóc. Nhưng phẫu thuật của bác sĩ thì không phải là độc ác, vì ông muốn chữa trị người ấy, còn đối với bệnh nhân thì đúng là tàn nhẫn. Còn nếu quá khoan dung với bệnh nhân thì người ấy sẽ chết mất thôi” (Serm. 83, 7, 8). Đối với Augustinô, sửa lỗi cho người khác dù làm họ đau khổ cũng là cử chỉ yêu thương. Việc sửa lỗi huynh đệ được coi như một dạng thức “làm phúc bố thí” (elemosina : PL 40, 266). Càng phải trình báo lỗi lầm của chị em ra thì càng giúp chị em thoát khỏi bệnh hoại thư tâm hồn. Có lẽ đây chính là kinh nghiệm bản thân. Thật vậy, trong cuốn “Tự thuật” người kể rằng sau khi chia tay với tình nhân thứ nhất, người đi tìm kiếm người thứ hai, và thú nhận : “Thay vì chữa lành vết thương của cuộc chia cắt trước, con bắt đầu làm thối rữa (putrescebat) vết thương ấy” (Conf. 6, 15, 25) và động từ putrescebat được sử dụng ở đoạn văn này để diễn tả cùng một hoàn cảnh. Phải chăng bởi vì người muốn cứu những kẻ khác khỏi rơi vào kinh nghiệm cay đắng mà mình đã trải qua ?

4. SỰ CAN THIỆP CỦA BỀ TRÊN

Số 27a : “Tuy nhiên, dù đã khuyên bảo riêng mà chị ấy không sửa mình, thì trước khi cho những người khác biết để nhờ xác nhận nếu chị từ chối nhận tội, thì phải trình cho bề trên trước đã để nhờ thế người có thể sửa chữa cách kín đáo và tránh cho người khác biết”.

Khi nói về trình tự sửa lỗi huynh đệ, Tu luật không trình bày sáng sủa nhưng lẫn lộn giữa các bước. Nhiều nhà chuyên môn khi chú giải khoản luật này đã không đồng ý với nhau trong việc thiết lập thứ tự các bước sửa lỗi. Để sắp xếp lại một trình tự, các nhà chú giải đều đồng ý với nhau giữ lại bước thứ nhất (sửa lỗi riêng tư) và bước cuối cùng (sửa lỗi trước mặt mọi người), nhưng họ không xác định rõ các bước trung gian. Có người cho rằng bản Tu luật ban đầu chỉ là một quyển cẩm nang thực tiễn dành riêng cho người hữu trách trong cộng đoàn, chứ không phải là một bộ luật có quy phạm, mẫu mực và được soạn thảo rõ ràng được trao cho mọi thành viên trong cộng đoàn đọc và tuân giữ. Tuy có nhiều ý kiến khác nhau trong việc xác định các bước phải tuân giữ, nhưng tất cả đều đồng ý là cần phải duy trì một nhịp độ trong việc sửa lỗi huynh đệ. Chúng ta thử định dạng và tái lập lại trình tự mà bản Tu luật đề nghị.

  • Bước I : một mình cảnh báo riêng người phạm lỗi (số 25)
  • Bước trung gian : báo cho Bề trên biết và ngài sẽ sửa lỗi cho chị em cách kín đáo (số 27a)
  • Bước II : Báo cho một hay hai người biết để họ can thiệp (số 26a)
  • Bước III : Tố cáo và dẫn chứng tội trạng trước mặt cộng đoàn (số 27b), kèm theo hình phạt và có thể trục xuất (số 27d)

Trình tự này được Tin mừng Matthêu đề nghị (18, 15-17) chỉ thêm một bước trung gian là báo cho Bề trên và ngài sẽ can thiệp. Đây là nét tiêu biểu của cộng đoàn tu trì, triển khai và áp dụng tiến trình sửa lỗi của các cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. Nhưng tại sao nếp sống đan tu sáng nghĩ ra một bước mới ? Có lẽ bởi vì nhắm mục đích giữ lấy danh dự cho người phạm lỗi, như chính bản Tu luật tuyên bố: “để tránh cho người khác biết”.Thế đấy, vào thời đó người ta đã biết xét đến quyền bảo vệ chuyện đời tư và quyền bảo vệ danh dự !

5. CỘNG ĐOÀN LÀ CHẶNG CUỐI CÙNG

Số 27b : “Nếu như chị vẫn chối, lúc đó cần phải đưa chị đối diện với nhiều người để có thể buộc chị nhận lỗi, không phải do một nhưng là hai hay ba nhân chứng”.

Khoản luật trù liệu trường hợp người phạm lỗi vẫn không nhận tội, “chị ấy vẫn chối”trước mặt ai ? Trước mặt Bề trên hay cộng đoàn ? Có thể là trước mặt cộng đoàn, nhưng thực ra bản luật vẫn không rõ ý. Khoản luật đi từ câu này sang câu kia, rồi trở về câu đã nói trước như chúng ta thấy rõ trong số 27a. Dù sao chúng ta cũng đang đối diện với giai đoạn cuối cùng của trình tự sửa lỗi : khai báo lỗi của người ấy trước cộng đoàn (Mt 18, 17). Tuy nhiên khác với Tin mừng, Tu luật gây cho ta cảm tưởng tham dự một cuộc sửa lỗi trịnh trọng, mang bầu khí pháp luật, với lời cáo trạng kèm theo hai nhân chứng và hình phạt sau cùng. Thực là khung cảnh pháp đình chứ đâu còn gì là cộng đoàn huynh đệ nữa ! Tuy nhiên, đó là ấn tượng sai lầm. Việc đưa người chị em mắc lỗi ra trước cộng đoàn rõ ràng là cố gắng cuối cùng để cứu vãn người chị em đó, sau khi những phương cách khác không còn hữu hiệu nữa : sửa lỗi riêng, bề trên khuyên can và đối diện với hai hay ba người. Điều quan trọng là chúng ta cần phải duy trì tinh thần này, phải học hỏi và tìm ra những hình thức cụ thể, thích hợp và hữu hiệu để khắc phục những lỗi phạm vẫn thường xảy ra trong cuộc sống tu trì hôm nay, và nhất là đừng để mất chị em nào trong cộng đoàn chúng ta.

6. SỬA PHẠT ĐỂ CẢI THIỆN

Số 27c : “Nếu đương sự nhận lỗi, thì sẽ chịu hình phạt theo quyết định của bề trên hay của cha tuyên uý (presbyter) có thẩm quyền. Nếu đương sự lại từ chối hình phạt và không chịu rút lui thì phải loại ra khỏi cộng đoàn chị em. Xử như thế không phải là độc ác nhưng là thương xót, kẻo nhiều người khác bị hư lây “.

Thánh Augustinô nói về một loại hình phạt lành mạnh, bổ ích (emendatoriam vindictam). Emendatoria là từ do chính thánh Augustinô đặt ra, được dùng 7 lần trong các bút tác của mình và trước đó chưa có ai biết đến từ này. Emendatoria có nghĩa là một hình phạt làm cho hoàn thiện hơn, thanh tẩy, sửa chữa và nên lành mạnh. Hình phạt không có nghĩa là đè bẹp kẻ lỗi phạm, nhưng giúp cho họ triển nở cách nhân đạo hơn. Tu luật dành cho bề trên hay là vị linh mục quyết định hình phạt. Bề trên hay vị linh mục này là ai ? Trong cơ cấu quyền hành của đan viện do thánh Augustinô lập, có một bề trên, – hay đúng hơn là Praeposita (người đi trước, chứ không phải ở bên trên cộng đoàn) – và một vị thuộc hàng giáo sĩ (Presbyter), có chức thánh. Bề trên thông thường là một tu sĩ (giáo dân không có chức thánh nếu là đan viện nam) vì phong trào đan tu ngay từ ban đầu có đặc tính giáo dân. Vị bề trên điều hành chương trình sống trong cộng đoàn hàng ngày. Trái lại, linh mục là một đan sĩ có chức thánh giúp cộng đoàn về đời sống thiêng liêng. Chức năng của ngài chỉ giới hạn trong lãnh vực mục vụ : dạy dỗ chị em bằng Lời Chúa, chủ sự các nghi lễ như việc sám hối và hoà giải, bí tích Thánh Thể … Bề trên cộng đoàn có thể áp đặt những hình phạt khác cho người biết nhận lỗi như : ăn chay, kiêng thịt, kiêng rượu, đọc thánh vịnh, đánh đòn, giống như Tu luật thánh Biển Đức (chương 28, 3) và Ordo monasterii (số 10) đã định. Linh mục có quyền ấn định những biện pháp theo giáo luật như : cấm không được rước lễ, ra việc đền tội. Chúng ta nên nhớ rằng các cộng đoàn tu trì ngày xưa là một Giáo hội thu nhỏ. Tu luật lại định liệu trường hợp đan sĩ đó không nhận lỗi : “Nếu đương sự lại từ chối hình phạt và không chịu rút lui thì phải loại ra khỏi cộng đoàn chị em”. Chúng ta đang đối diện với biện pháp tối đa mà Tu luật dự liệu, đó là trục xuất người phạm lỗi trong trường hợp họ không nhìn nhận lỗi cũng như không chấp nhận hình phạt. Biện pháp này hoàn toàn hợp lý : ai không muốn chấp nhận những quy luật trận đấu thì ở lại trên sân cỏ làm gì ? Điều này cũng phù hợp với Tin mừng : “Nếu cộng đoàn mà nó cũng không nghe thì hãy xem nó như dân ngoại và người thu thuế” (Mt 18, 17). Tu luật chỉ dự trù sự trục xuất một thành viên trong một trường hợp mà thôi, đó là khi người phạm lỗi nhất quyết không chấp nhận hình phạt. Tuy Bản luật còn trù liệu trục xuất những người không muốn tha thứ cho chị em, nhưng chỉ giới hạn vào những phán đoán và nguyên tắc chung chứ không đi vào trường hợp cụ thể (số 42f). Đời sống tu trì không phải là con đường dành cho những người đã hoàn thiện nhưng là nẻo đường cho những ai ao ước tìm kiếm sự hoàn hảo Phúc âm, trong đó lỗi lầm và vấp ngã là những chuyện xảy ra rất thường tình. Không phải vì những yếu đuối đó mà tu sĩ bị loại ra khỏi đời sống tu trì, nhưng là do họ từ chối tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Không phải tội lỗi huỷ hoại chương trình của đời tu, mà là thái độ ngoan cố ở lỳ trong tội lỗi. Thánh Augustinô thường nói đến đề tài người tốt và kẻ xấu sống chung với nhau như cây lúa và cỏ lùng trong thửa ruộng Giáo hội. Ngày nọ, trong cộng đoàn nổi lên một xì-căng-đan (hai tu sĩ tố cáo nhau về một “tình cảm bỉ ổi và nhơ bẩn”), thánh Augustinô bị thúc bách viết một lá thư mục vụ, trong đó có đoạn[13] : “Mặc dù kỷ luật trong cộng đoàn của tôi được kiểm soát chặt chẽ, tôi cũng là con người và sống giữa mọi người. Tôi không tự hào nghĩ là cộng đoàn của tôi tốt hơn con tầu của ông Noê, trong tám người có một người truỵ lạc phóng đãng (Cam); cũng không khá hơn gia đình của Apraham, mà chính Chúa đã ra lệnh đuổi cô nữ tỳ và con gái cô ra khỏi nhà. Cộng đoàn tôi cũng không tốt hơn gia đình của Isaác khi Sách Thánh nói về hai người con song sinh : Tôi yêu Giacóp và ghét Esau; cũng không hơn gì chính trong gia đình của Giacóp, đứa con vô đạo loạn luân ngay trên giường của bố mình; cũng không hơn gì nhà Đavít, trong đó có một người con loạn luân với chính chị mình (Tamar), và người con khác (Apsalon) nổi loạn chống lại sự hiền lành thánh thiện của phụ vương; Cộng đoàn tôi không tốt hơn phái đoàn của Phaolô khi người nói : Tôi không có ai để thực tình lo lắng cho anh em, tất cả đều tìm kiếm những lợi nhuận cho họ chứ không phải cho Đức Kitô; cũng không tốt hơn cộng đoàn của chính Chúa chúng ta, Đức Giêsu Kitô, trong đó mười một người tốt phải chịu đựng một tên ăn trộm nham hiểm là Giuđa; cuối cùng tôi cũng không có tham vọng tốt hơn cộng đoàn trên trời trong đó có các thiên thần đã ghen tị và sa ngã” (Ep. 78, 8). Sau khi tuyên bố rằng trong đan viện có thể tìm thấy người tốt nhất và kẻ xấu nhất, thánh Augustinô kết luận : “Tôi thú nhận rất chân thành rằng thật khó tìm thấy những người tốt hơn các đan sĩ, nhưng tôi cũng không bao giờ thấy ai xấu hơn các đan sĩ đã phản bội ơn gọi của mình. Vâng, tôi đau buồn vì một vài cục phân bớn, nhưng tôi lại được an ủi vì có nhiều đồ trang sức có giá trị” (Ep. 78,9). Cộng đoàn được hình thành từ những tội nhân trong quá trình hoán cải. Dù đau xót, nhưng việc trục xuất không phải là hành vi báo thù mà là yêu thương : yêu người chị em bị trục xuất, bởi vì cử chỉ cực kỳ khắt khe này nhắm tới sự hoán cải và cứu độ của đương sự (1Cr 5, 5); và yêu các chị em khác trong cộng đoàn, bởi vì họ không bị lây nhiễm gương mù, như thánh Phaolô dạy : “Anh em hãy loại bỏ men cũ” (1Cr 5, 7). Thật vậy, để lại trong cộng đoàn những người cố tình phủ nhận nền tảng của đời tu có nghĩa là làm mất uy tín kế hoạch của Thiên Chúa dành cho đời thánh hiến.

7. MỞ RỘNG VIỆC SỬA LỖI SANG CÁC LÃNH VỰC KHÁC

Số 28 : “Điều tôi nói về cái nhìn không trong sạch thì cũng phải tuân thủ trung thành và cẩn thận khi phát giác, ngăn cấm, trình báo, bắt thú nhận và trừng phạt các lỗi khác. Trong cách cư xử cần phải thi hành vì yêu con người và ghét nết xấu”.

Việc sửa lỗi huynh đệ không chỉ giới hạn vào trường hợp “nhìn cắm con mắt”, nhưng còn áp dụng cho các trường hợp khác. Thành thực mà nói, giọng văn và từ ngữ của Tu luật (như “phát giác, ngăn cấm, trình báo và xét xử”) sẽ gây cho người trẻ hôm nay cảm giác tham dự phiên xử của toà án nhân dân. Tuy nhiên, điều tích cực của Tu luật là cho thấy vấn đề chế tài của cộng đoàn đan tu thời xưa nghiêm khắc đối với lỗi lầm của các thành viên và tình liên đới của cộng đoàn trong vấn đề lỗi phạm và hoán cải. Chắc chắn trong thực tế, việc sửa lỗi huynh đệ của thời xưa không phải giản đơn hơn so với thời đại của chúng ta hôm nay. Thánh Augustinô đã tỏ ra rất lo lắng và xao xuyến đứng trước trăm nghìn trường hợp khó khăn và phức tạp. Trong một lá thư viết cho bạn mình Paolino da Nola, người tỏ ra lúng túng và bối rối khi phải sửa lỗi cho một vài anh em : “Ôi Paolino, đấng thánh của Chúa, biết bao lý do làm cho tôi bối rối như mối tơ vò trong các vụ này ! Biết bao sợ hãi ! Bao tối tăm !” (Ep. 95,3). Đối với Augustinô, ai có nhiệm vụ sửa lỗi và ra hình phạt thì phải làm mà không được tự mãn, không oán thù và ác tâm, nhưng phải thi hành với lòng thương xót của một lương y, chứ không như tên đao phủ (Contra epistolam Parmeniani, III). Nguyên tắc quan trọng trong khi sửa phạt “ghét tội lỗi và yêu tội nhân” có nền tảng trong Kinh Thánh. Thánh Phaolô nói : “Hãy lấy tinh thần hiền hoà mà sửa dạy” (Gl 6, 1) “đừng coi họ là thù địch nhưng hãy khuyên bảo anh em” (1Tx 3, 15). Với ông Timôthêo, thánh Tông đồ dạy : “Phải lấy lòng hiền hoà mà giáo dục những kẻ chống đối” (2Tm 2, 25). Thực vậy “khi nóng giận con người không thực thi đường lối của Thiên Chúa” (Gc 1, 20). Không dễ gì tránh khỏi bực tức hoặc buồn phiền khi phải sửa lỗi. Duy chỉ người nào đạt tới mức độ cao thánh thiện thì mới thực hiện nổi điều Tu luật yêu cầu : “Trong cách cư xử cần phải thi hành vì yêu con người và ghét nết xấu”. Thánh Phanxicô Assisi viết cho một bề trên đang bị bức xúc vì những lầm lỗi của anh em với những lời rất cảm động như sau : “Mong rằng dù một tu sĩ nào trên thế gian này phạm đủ mọi giống tội, và sau khi thấy đôi mắt của anh, sẽ không trở về mà không được anh tha thứ nếu họ xin lỗi. Giả như người ấy không biết xin lỗi thì anh hãy hỏi họ có muốn xin lỗi hay không. Và giả như sau đó, người ấy lại phạm lỗi cả nghìn lần dưới sự chứng kiến của anh, thì anh hãy yêu người ấy hơn tôi vì lý do này là : anh có thể lôi kéo người ấy lại với Chúa; và hãy luôn luôn thương xót vì những anh em đó” (Fonti Francescane, n. 235).

8. TÌNH YÊU KHÔNG HỢP LỆ

Số 29 : “Ai đi vào đường hư hỏng là lén lút nhận thư từ hay quà tặng dù nhỏ mọn của một người nam, nếu thú nhận thì phải tha thứ cho họ và cầu nguyện cho họ. Nhưng nếu người ấy bị bắt quả tang rồi mới nhận tội, thì phải chịu sửa phạt nặng hơn theo quyết định của bề trên hay của cha tuyên uý “.

Người thời xưa không có ý niệm về “đời tư” như người hôm nay. Tất cả thư từ qua lại đều công khai, trừ khi đó là thư tình[14]. Tu luật của thánh Basiliô trước đó và cả Tu luật của thánh Biển Đức sau này cũng cấm không cho nhận thư cách lén lút (chương 54). Vì thế rất dễ hiểu tại sao bản luật nghiêm khắc với trường hợp này. Giám mục Augustinô xin các tín hữu đừng biếu tặng cho mình những món quà “cho chỉ riêng ngài” bởi vì nó sẽ làm thương tổn đến nguyên tắc để mọi sự làm của chung, một nguyên tắc không chấp nhận luật trừ nào (Serm. 356,13). Bạn của Augustinô, thánh Giêrônimô cũng phát biểu môt câu hơi sống sượng : “Tình yêu thánh thiện không cho phép nhận bất cứ cái gì dù là những quà tặng thông thường, quần áo nhỏ, đồ ăn lặt vặt, đôi dòng thư thân ái” (Ep. ad Nepotianum, 5). Thật đúng như vậy, do động lực của sự hiệp thông với nhau trong đời tu, những mối tương quan bên ngoài, kể cả với họ hàng bạn hữu, phải mở rộng và trong sáng. Nếu vấp phải những trường hợp trên, Tu luật chỉ yêu cầu đương sự biết nhận lỗi và các thành viên khác trong cộng đoàn sẽ tha thứ, cảm thông, quên đi và cầu nguyện. Luật chỉ tỏ ra nghiêm khắc đối với những trường hợp gian dối, giả hình, lừa gạt, nhưng tha thứ và bỏ qua đối với những người khiêm tốn nhận lỗi. Chính Đức Giêsu cũng hết sức nghiêm ngặt với người Biệt phái; còn đối với người thâu thuế và đĩ điếm thì Ngài luôn tỏ lòng thông cảm và thương xót. Đây cũng phải là thái độ của những người muốn bước theo Ngài. ………………….. [1] x. A. Trapé, S. Agostino. La Regola, Ancora, Milano 1971, in : http : //www.Augustinus.it/pensiero/commento-regola.htm [2] Xem A. Trapé, Sant’Agostino. La Regola, op. cit. [3] Xem trích dẫn của A. Trapé, S. Agostino. La Regola, op. cit. [4] Clodovis Boff, La Regola, p. 76 [5]Xem Clodovis Boff, La Regola, p. 79 [6] Những lời trích sau đây dựa theo Clodovis Boff, La Regola, tr. 89 tt [7] Xem Clodovis Boff, La Regola, pp. 101-102 [8] L. Veiheijen, Nouvelle Approche, 107-150 [9] La Règle de saint Augustin, Etudes Augustiniennes, Paris 1967, vol II, 201 : trích từ Clodovis Boff, La Regola, p.104 [10] Conf., 8, 12, 30; 8, 6, 13. [11] Pelagius, một đan sĩ người Anh, tranh luận với thánh Augustinô về mối liên hệ giữa tự do và ân sủng. Theo ông Pelagius, bản tính con người vẫn còn nguyên tuyền không bị chi phối bởi tội Nguyên tổ và có khả năng làm việc tốt và lập công trạng để được cứu độ. [12] Nếu đặt vào bối cảnh của một đan viện do thánh Augustinô lập cho nam giới, các đan sĩ có lẽ sẽ theo “mốt” của các đan sĩ Rôma là cạo râu và cắt tóc, tuy Bản luật chỉ ra chỉ thị về cách ăn mặc. Thánh nhân sẽ mỉa mai một số đan sĩ nam đua đòi để tóc dài (cf. De opere monachorum, 39) [13] Đoạn trích từ Colovis Boff, La Regola, p. 137 [14] Xem Clodovis Boff, La Regola, p. 141

Chia sẻ:

  • Bấm để chia sẻ trên Twitter (Mở trong cửa sổ mới)
  • Nhấn vào chia sẻ trên Facebook (Mở trong cửa sổ mới)
Thích Đang tải...

Từ khóa » Chú Giải Tu Luật Thánh Biển đức