Từ Nào Trong Bài Thơ Tỏ Lòng Thể Hiện Vẻ đẹp Nhân Cách Của Phạm ...

Nội dung chính Show

  • Dàn ý bài "Tỏ lòng" của Phạm Ngũ Lão là sự thể hiện vẻ đẹp của con người và vẻ đẹp của thời đại - Mẫu số 1
  • Dàn ý bài "Tỏ lòng" của Phạm Ngũ Lão là sự thể hiện vẻ đẹp của con người và vẻ đẹp của thời đại - Mẫu số 2
  • Phân tích vẻ đẹp con người và thời đại nhà Trần qua bài thơ Tỏ lòng - Bài văn mẫu số 1
  • Phân tích vẻ đẹp con người và thời đại nhà Trần qua bài thơ Tỏ lòng - Bài văn mẫu số 2

Đề 3: Vẻ đẹp nhân cách của Phạm Ngũ Lão thể hiện qua bài thơ Tỏ lòng.

Các câu hỏi tương tự

Chép thuộc lòng phần phiên âm và dịch thơ bài “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão. Phân tích ý nghĩa của nỗi “thẹn” trong câu thơ cuối.

Nếu cần thuyết minh bài “Tỏ lòng” (Thuật hoài) của Phạm Ngũ Lão, anh (chị) định chọn hình thức kết cấu nào?

  • Toán lớp 10
  • Ngữ văn lớp 10
  • Tiếng Anh lớp 10

Tham khảo dàn ý bài "Tỏ lòng" của Phạm Ngũ Lão là sự thể hiện vẻ đẹp của con người và vẻ đẹp của thời đại, tổng hợp đầy đủ dàn ý chung và những bài văn mẫu ngắn gọn, chi tiết, hay nhất. Qua các bài viết này sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về tác phẩm, cùng tham khảo nhé!

Từ nào trong bài thơ tỏ lòng thể hiện vẻ đẹp nhân cách của Phạm Ngũ Lão

Dàn ý bài "Tỏ lòng" của Phạm Ngũ Lão là sự thể hiện vẻ đẹp của con người và vẻ đẹp của thời đại - Mẫu số 1

I. Mở bài:

– Phạm Ngũ Lão được xem là người anh hùng xuất thân ở tầng lớp bình dân, ngồi đan sọt mà lo việc nước. Ông là một nhân vật lịch sử từng có công lớn trong kháng chiến chống quân Nguyên- Mông, giữ địa vị cao ở đời Trần.

– Phạm Ngũ Lão là người văn võ toàn tài. Văn thơ của ông để lại không nhiều, nhưng giá trị của những bài thơ còn sót lại thì vẫn vẹn nguyên nhưng “Thuật hoài” là bài thơ nổi tiếng hừng hực hào khí Đông A của lịch sử giai đoạn thế kỷ X đến XV và cho đến ngày nay thì dường như âm hưởng của tinh thần Đông A vẫn không hề bị mất đi.

II. Thân bài:

2.1. Hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm

Theo Đại Việt sử ký toàn thư ghi chép lại thì năm 1282 quân Nguyên đòi mượn đường đánh Chiêm Thành, nhưng thực ra định xâm lược nước ta. Trước tình hình ấy,vua Trần đã mở hội nghị Bình Than bàn kế hoạch đánh giặc. Phạm Ngũ Lão và một số vị tướng được cử lên biên ải phía Bắc để trấn giữ đất nước. Hoàn cảnh lịch sử chắc chắn đã ảnh hưởng nhiều đến hào khí Đông A trong bài thơ.

2.2. Tựa đề:

– “Thuật” có nghĩa là bày tỏ, “hoài” là mang trong lòng. “Thuật hoài” nghĩa là bày tỏ khát vọng cũng như những nguyện vọng, hoài bão. Có thể nói đây là đề tài quen thuộc trong thơ cổ. Điều đáng chú ý của bài thơ này ở chỗ người tỏ lòng là một vị tướng đang giữ trọng trách nặng nề nơi biên ải xa

2.3. Hai câu đầu:

– Câu 1: Khắc hoạ hình ảnh người tráng sĩ qua tư thế và hành động. “Hoành sóc” nghĩa là cầm ngang ngọn giáo. Người cầm giáo đã mấy thu sẵn sàng bảo vệ non sông đất nước tươi đẹp và kì vĩ. Tư thế ấy lại được đặt trong không gian kỳ vĩ của giang san. Tất cả những chi tiết trên đã dựng lên bức chân dung oai phong lẫm liệt của người trai thời loạn bấy giờ.

– Câu 2 là hình ảnh “ba quân”. Ngày xưa ,quân lính thường chia làm ba đội gọi là tiền quân, trung quân, hậu quân. Vì thế mà câu thơ nói đến ba quân là ca ngợi sức mạnh của toàn dân tộc một lòng. “Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu”, câu thơ có thể hiểu theo hai cách khác nhau. Bởi khí thôn Ngưu là khí thế nuốt được cả con trâu (theo chú giải của sách giáo khoa), cũng có thể hiểu là nuốt cả con ngưu. Và cả hai cách hiểu, cách hiểu đều nói đến khí thế mạnh mẽ của dân tộc. Đây là hình ảnh ước lệ quen thuộc thường gặp trong thơ cổ xưa, nhưng đặt trong hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm ,hình ảnh này lại gợi lên những cảm xúc chân thực vì phản ảnh hào khí của thời đại bấy giờ.

– Hai câu thơ là hai hình ảnh như đan xen, bổ sung vẻ đẹp cho nhau. Thời đại hào hùng đã tạo nên những con người anh hùng. Và ngược lại mỗi cá nhân đóng góp sức mạnh làm nên hào khí của thời đại. Câu thơ như bộc lộ niềm tự hào của tác giả về quân đội của mình, về con người và thời đại của mình. Tác giả nói về chính mình vừa nói tiếng nói cho cả thế hệ.

2.4. Hai câu sau:

– Hai câu thơ tiếp sau là nhà thơ đã tỏ hoài bão của nhân vật trữ tình. Đó là lập công danh nam tử, tức là công danh của đấng làm trai theo lý tưởng phong kiến ngày trước. Người xưa đã quan niệm, làm trai là phải có sự nghiệp và danh tiếng để lại muôn đời sau, có như vậy mới xứng danh. Chí làm trai được coi là món nợ phải trả của đấng nam nhi ngày trước. Phạm Ngũ Lão đã bầy tỏ khát vọng được đóng góp cho đất nước, xứng đáng là kẻ làm trai sống trong trời đất.

– Nhưng thật bất ngờ, câu kết bài thơ lại là nỗi thẹn:

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu

(Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu)

Vũ Hầu chính là Gia Cát Lượng, quân sư nổi tiếng đã giúp Lưu Bị khôi phục nhà Hán. Và ở đây Phạm Ngũ Lão thẹn vì thấy mình tài giỏi như Vũ Hầu để lập công giúp nước. Đây là nỗi thẹn cao cả, cái thẹn đến nghẹn lời, cái thẹn làm nên nhân cách. Vì sao? Phạm Ngũ Lão là người có công lớn trong sự nghiệp bảo vệ đất nước, đặc biệt trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông. Vậy mà Phạm Ngũ Lão vẫn còn cảm thấy mình vương nợ với đời, còn phải thẹn lhi nghe thuyết Vũ Hầu. Điều đó nói nên khát vọng muốn đóng góp nhiều hơn cho đất nước.

– Nếu hai câu đầu của bài thơ khắc hoạ chân dung người trai Đại Việt với vẻ đẹp oai phong bao năm bền bỉ bảo vệ đất nước thì hai cau sau bộc lộ chí lớn và cái tâm cao cả của người tráng sĩ.

III. Kết luận:

– Bài thơ ngắn gọn, kiệm lời nhưng đã nói nên lí tưởng nhân sinh của kẻ làm trai: lập công danh không phải chỉ để vinh thân vì gia, mà vì dân tộc; khi đã có công danh, còn phải phấn đấu vươn lên không ngừng.

Dàn ý bài "Tỏ lòng" của Phạm Ngũ Lão là sự thể hiện vẻ đẹp của con người và vẻ đẹp của thời đại - Mẫu số 2

I. Mở bài.

- Vài nét về tác giả Phạm Ngũ Lão và hoàn cảnh lịch sử khi bài thơ ra đời.

- Ghi lại bài thơ.

II. Thân bài.

Bài thơ gồm bốn câu, chia làm hai ý chính, diễn đạt hùng khí một thời và nỗi lòng băn khoăn, trăn trở vì nghĩa cả của một nhân cách lớn.

1. Khí phách anh hùng của vị tướng và quân đội

Mở đầu bài thơ bằng cụm động từ hoành sóc. Tư thế cắm ngang ngọn giáo vẽ nên nét đẹp ngang tàng, oai phong lẫm liệt của một tráng sĩ xung trận, sẵn sàng chiến đấu:

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu

(Múa giáo non sông trải mấy thu)

Người tráng sĩ ấy, vị tướng quán ấy đã chinh chiến triền miên, dãi dầu gian khó để bảo vệ giang sơn đã mấy thu rồi.

Ta bỗng nhớ tới hình ảnh người tráng sĩ trong Chinh phụ ngâm: Múa gươm rượu tiễn chưa tàn - Chí ngang ngọn giáo cào ngàn hang beo. Hình ảnh người tráng sĩ càng đẹp hơn khi đạt trong khung canh bừng bừng khí thế tiến công cua một đội quân dũng mãnh muốn át cả trời sao (ba quân khí mạnh...)

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu.

(Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu).

Tì là loài thú lai giống cọp và beo (theo truyền thuyết), hổ là cọp. Tam quân tì hổ ý nói ba quân có sức mạnh vô địch. Khí thôn ngưu ngụ ý quân đội bừng bừng khí thế chiến đấu và chiến thắng.

Lời thơ ước lệ, hào tráng, hình ảnh kì vĩ, toát lên khí thế ngất trời của quân đội đời Trần qua ba lần chiến thắng bọn xâm lược Mông Nguyên.

Hai câu thơ đã phác họa nên một bức tranh hoành tráng về một thời oanh liệt với một giọng điệu thật hào hùng. Đó chính là âm hưởng vang vọng của hào khí nhà Trần.

2. Quan niệm về công danh và khát vọng của tác giả

Nam nhi vị liễu công danh trái

(Công danh nam tử còn vương nợ)

Công danh là sự nghiệp và tiếng tăm. Trong thời phong kiên, kẻ làm trai rất coi trọng công danh, tức là phải lập sự nghiệp ích quốc lợi dân (công) để lưu lại tiếng thơm cho hậu thế (danh). Cho nên, công danh xem như món nợ đối với người trai:

Có trung hiếu nên đứng trong trời đất,

Không công danh thà nát với cỏ cây.

(Nguyễn Công Trứ)

Câu thơ thể hiện ý chí và khát vọng thật cao đẹp: muốn được cống hiến cao nhất, muốn làm tròn sứ mệnh của đấng nam nhi.

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.

(Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu).

Hoài bão của người trai càng cao đẹp hơn mà người đọc bắt gặp ở đây là một nhân cách lớn lao: một con người “cắp ngang ngọn giáo”, xông ra giữa trận tiền chống giặc suốt mấy thu rồi không nhớ nữa. Thế mà vẫn nghĩ mình chưa làm tròn trách nhiệm, còn nợ với non sông, đất nước; vẫn thấy “thẹn” khi nghĩ mình công danh vẫn chưa bằng được Vũ Hầu.

Gia Cát Vũ Hầu được xem là một bậc tuyệt tri trong thời Tam Quốc, đầy tài năng thao lược, đã giúp Lưu Bị dựng nên nhà Thục Hán, công danh xếp vào bậc nhất thiên hạ. Phạm Ngũ Lão có thể tự thấy mình còn thua kém Gia Cát Lượng về công danh sự nghiệp. Cũng có thể hiểu “thẹn”là cách nói thể hiện khát vọng, hoài bão muốn sánh ngang với Vũ Hầu.

Có lần Nguyễn Khuyến cũng đã “thẹn” khi nghĩ mình chưa có tài thơ văn và nhân cách cao bằng Đào Uyên Minh:

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.

(Thu vịnh)

Như vậy, những cái “thẹn” ấy cao đẹp và quý giá biết chừng nào!. Đó là nỗi thẹn cua một nhân cách lớn. Nỗi thẹn ấy giúp cho con người ta biết vươn tới lẽ sống cao cả hơn.

III. Kết bài.

Bài thơ thể hiện tấm lòng và ý chí của Phạm Ngũ Lão, đồng thời tiêu biểu cho tư tưởng và tình cảm của lớp người cùng thế hệ với ông, thế hệ làm nên hào khí Đông A.

Phân tích vẻ đẹp con người và thời đại nhà Trần qua bài thơ Tỏ lòng - Bài văn mẫu số 1

“Thơ như đôi cánh nâng tôi bay

Thơ là vũ khí trong trận đánh”

(Raxun- Gamzatốp)

Quả thật vậy, trong hành trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã có không ít những tác phẩm văn học từng đem lại biết bao sức mạnh và niềm tin cho nhiều thế hệ. Và một trong số những tác phẩm đó chính là bài thơ “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão. Khúc tráng ca lẫm liệt ấy luôn khơi dậy trong mỗi tâm hồn Việt Nam niềm tin và tinh thần quyết thắng trước mọi thế lực xâm lăng. Sức mạnh lay động ấy đã ngời toả ngay từ vẻ đẹp người anh hùng thời Trần- kết tinh hùng tâm tráng chí của dân tộc Việt Nam.

Tác giả của “Tỏ lòng” - Phạm Ngũ Lão là người làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, tỉnh Hưng Yên. Ông có công lớn trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mông Nguyên, từng làm đến chức Điện Súy và được ca ngợi là văn võ toàn tài. Phạm Ngũ Lão chỉ để lại hai bài thơ (“Thuật hoài” và “Vãn Thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương”), nhưng tên tuổi của ông vẫn đứng cùng ngang hàng với những tác gia danh tiếng nhất của văn học đời Trần. Và ra đời trong bối cảnh cả dân tộc Đại Việt đang sục sôi khí thế “Sát Thát”, bài thơ “ Thuật hoài” chính là bức chân dung tự họa về vẻ đẹp của con người trong thời đại hào khí Đông A.

Trước hết, bài thơ “Thuật hoài” đã gợi ra hình ảnh người anh hùng thời Trần với vẻ đẹp đầy hùng tâm, tráng chí. Tác giả đã khắc hoạ hình ảnh kỳ vĩ của người anh hùng cứu nước trên nền hào hùng của thời đại. Người anh hùng ấy thật mạnh mẽ, bền gan vững chí trong hành trình chiến đấu bảo vệ đất nước:

“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu

(Múa giáo non sông trải mấy thu)”

Con người hiện lên qua câu thơ đầu mang một tầm vóc, tư thế, hành động lớn lao mạnh mẽ. Câu thơ dựng lên hình ảnh con người cầm ngang ngọn giáo để trấn giữ đất nước. Cây trường giáo ấy dường như được đo bằng chiều ngang của non sông. Nghĩa là chủ nhân cầm cây giáo ấy phải mang kích cỡ, tầm vóc vũ trụ. So với bản phiên âm, phần dịch thơ vẫn chưa diễn tả được hết sức mạnh, vẻ đẹp của tráng sĩ. Trong bản phiên âm, vẻ đẹp hiên ngang, lẫm liệt được thể hiện ở ngay tư thế“Hoành sóc”- cầm ngang ngọn giáo. Còn ở bản dịch thơ mới chỉ dịch là “Múa giáo”, là hành động gợi sự phô diễn, khoa trương... chưa thể hiện được hết sự kì vĩ, vững chắc. Sự kì vĩ ấy càng hiện rõ trong mối quan hệ với không gian và thời gian: không gian mở ra theo chiều rộng sông núi, thời gian được đo đếm bằng mùa, năm (kháp kỷ thu)chứ đâu phải chỉ trong chốc lát

Hơn nữa, sự kì vĩ, hào hùng của hình tượng người anh hùng càng được nâng lên qua khí thế hào hùng của thời đại:

“Tam quân tì hổ khí thôn ngưu

(Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu)”

Hình ảnh “ba quân” là để nói về quân đội nhà Trần nhưng đồng thời còn là hình tượng biểu trưng cho sức mạnh dân tộc. Ở đây nghệ thuật so sánh đã vừa cụ thể hoá sức mạnh vật chất ba quân (mạnh như hổ báo) vừa hướng tới khái quát hoá sức mạnh tinh thần của đội quân mang hào khí Đông A (khí thế át sao trời). Ở câu thơ này, phần dịch thơ với cụm từ “nuốt trôi trâu” cũng chưa diễn tả được hết sức mạnh của quân đội như “khí thôn ngưu” trong bản phiên âm.

Hình ảnh ba quân với khí thế dũng mãnh này chính là cái nền tôn thêm chất hùng tráng của hình tượng người tráng sĩ “hoành sóc”. Và tự bản thân hình ảnh “Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu” đã khẳng định sự tất thắng của dân tộc trước kẻ thù xâm lăng.

Như vậy, hai câu thơ đầu đã thể hiện sự gắn kết chặt chẽ, mối quan hệ hữu cơ giữa người anh hùng và thời đại anh hùng, giữa một công dân anh hùng và một dân tộc anh hùng.

Không chỉ đẹp ở sự kì vĩ, lẫm liệt, hào hùng, hình tượng người anh hùng còn đẹp bởi cái chí, cái tâm cao cả. Đó là con người ôm ấp hoài bão, lí tưởng thật cao đẹp. Với Phạm Ngũ Lão, lí tưởng sống mà ông hướng tới là đánh giặc lập công để đền ơn vua, báo nợ nước. Lý tưởng cao đẹp ấy được thể hiện qua món nợ công danh và nỗi thẹn với vĩ nhân:

“Công danh nam tử còn vướng nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”

Hai câu thơ đã thể hiện hùng tâm, tráng chí của người anh hùng thời Trần. Đó là lí tưởng sống của bao trang nam nhi thời phong kiến.

“Đã mang tiếng ở trong trời đất

Phải có danh gì với núi sông”

(Nguyễn Công Trứ)

Hay ý chí hiên ngang của bậc lão anh hùng trong “Cảm hoài”:

“Quốc thù chưa trả già sao vội

Dưới nguyệt mài gươm đã bấy chầy”

(Đặng Dung)

Câu thơ của Phạm Ngũ Lão đã nói lên khát vọng lập nên công danh sánh ngang với bậc tiền nhân lỗi lạc. Và ý thơ cũng ẩn chứa một lời thề trọn đời cống hiến, xả thân cho vương triều nhà Trần, cho non sông đất nước Đại Việt. Hùng tâm tráng chí của người anh hùng được thể hiện ở ngay nỗi “thẹn”- thẹn chưa có tài mưu lược lớn như Vũ Hầu đời Hán để trừ giặc cứu nước. Đây là cách nói thể hiện khát vọng, hoài bão được đem hết tài trí để cống hiến cho đất nước. Sau này trong văn chương, chúng ta cũng bắt gặp những cái “thẹn” rất cao đẹp như trong thơ Nguyễn Khuyến:

“Nhân hứng cũng vừa toan cất bút

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào”

(Thu vịnh)

Với Nguyễn Khuyến đó là cái “thẹn” của một nhà nho – nghệ sĩ. Còn trong “Thuật hoài” là nỗi thẹn của bậc anh hùng – nghệ sĩ.

Và vẻ đẹp của người anh hùng “Sát Thát” ấy được Phạm Ngũ Lão khắc họa bằng bút pháp rất đặc sắc: ngôn ngữ tráng lệ, kĩ vĩ, gợi ra dáng vóc của những người anh hùng thần thoại, những người dũng sĩ trong sử thi.... Đặc biệt, là bài thơ tỏ chí, tỏ lòng nhưng không hề khô khan bởi nghệ thuật dựng hình ảnh biểu tượng, hàm súc, giàu ý nghĩa.

Chính bởi bút pháp nghệ thuật đặc sắc như vậy, tác giả đã sáng tạo nên hình tượng người anh hùng thật giàu ý nghĩa. Bài thơ là bức chân dung tự hoạ của người dũng tướng thời Trần đầy hào hùng, trên cái nền đất nước tràn đầy sức mạnh quật cường. Hơn nữa, hình tượng thơ là kết tinh của tinh thần yêu nước và phẩm chất anh hùng của con người Việt Nam. Bởi vậy cùng với “Hịch tướng sĩ” (Trần Quốc Tuấn), “Tụng giá hoàn kinh sư” (Trần Quang Khải), bài thơ “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão sáng ngời hào khí Đông A.

Với vẻ đẹp rực sáng ấy, hình tượng người anh hùng đời Trần chính là ngọn đuốc soi sáng cho chúng ta trong cuộc sống hiện nay . Trước hết, vẻ đẹp kì vĩ, lẫm liệt của người tráng sĩ luôn khơi dậy trong mỗi chúng ta ý thức rèn luyện, tu dưỡng về mặt thể chất. Hơn thế, ý chí được thể hiện qua nỗi “thẹn” của người anh hùng chính là kim chỉ nam định hướng lí tưởng sống cho mỗi người. Vậy nỗi ‘thẹn” của Phạm Ngũ Lão có thể hiểu như thế nào? Trước hết, đó có thể là vì lòng yêu nước vô cùng sâu sắc, ý thức trách nhiệm với giang sơn quá lớn lao khiến cho tác giả không hài lòng với công trạng của mình. Cũng có thể đó là vì lòng khiêm tốn rất chân thành mà thấy công trạng của mình không đáng kể. Hoặc vì lý tưởng sống của chàng thanh niên yêu nước này quá hào hùng với khát vọng vươn tới những đỉnh cao chiến công khiến ông không bằng lòng với thành tích của mình.

Thế nhưng, dù vì lý do gì đi nữa thì sự hổ thẹn của Phạm Ngũ Lão vẫn là sự hổ thẹn cao quý, hữu ích. Bởi nó là nguồn động lực để con người không ngừng vươn tới những đỉnh cao chiến công chứ không ngủ quên trong vinh quang hiện tại. Trong cuộc sống hiện nay, mỗi người cần sống có lý tưởng, hoài bão có mục đích cao đẹp, bởi : “Những khát vọng tốt đẹp chính là cơn gió đẩy con thuyền cuộc đời mặc dù nó vẫn thường gây nên những cơn giông tố” (Safontaine) và “Lý tưởng là ngọn đèn chỉ đường, không có lý tưởng thì không có phương hướng kiên định mà không có phương hướng thì không có cuộc sống” (Leptônxtôi). Chính vì vậy, mỗi người hãy hướng tới lý tưởng sống cao đẹp ngày nay là cống hiến cuộc đời cho sự nghiệp “Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Hãy luôn rèn luyện, phấn đấu làm việc tận tụy và cống hiến hết mình.

Là thế hệ mùa xuân của đất nước, tuổi trẻ chúng ta càng phải xác định được lý tưởng sống của mình: “Sống là cho chết cũng là cho” (Tố Hữu). Tuổi trẻ cần cảnh giác với tâm lý, hoặc là tự thoả mãn với chút công trạng của mình hoặc đòi hỏi đất nước phải “trả công” cho mình. Hãy xác định đóng góp công sức để xây dựng đất nước là nghĩa vụ thiêng liêng và đừng hỏi tổ quốc đã làm gì cho ta mà hãy hỏi ta đã làm gì cho tổ Quốc” . Đặc biệt giờ đây khi đất nước đang còn nhiều khó khăn, đang phải “neo mình đầu sóng cả”, mỗi người hãy nhận thức được đúng đắn vai trò của mình. Mũi khoan Hải Dương 981 xoáy vào thềm lục địa “Đất nước” nhói đau từ biển lên rừng, buốt tim 90 triệu người dân Việt. Và bởi nước “Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn nhưng chân lý ấy sẽ không bao giờ thay đổi”. (Hồ Chí Minh). Chính vì vậy, toàn thể dân tộc Việt Nam, nhất là tuổi trẻ trên dưới một lòng, nguyện đem tất cả tính mạng, của cải để giữ vững nền tự do, độc lập đó” (Hồ Chí Minh).

Bên cạnh đó, cũng cần phải phê phán những con người có lối sống vị kỷ, không có lý tưởng, mục đích sống. Bởi như vậy là họ đang tự huỷ hoại chính bản thân, cuộc sống của họ “đang rỉ đi, đang mòn ra, đang nổi váng”.

Như vậy mỗi người chúng ta hãy luôn sống có lý tưởng, khát vọng, nhân cách cao đẹp. Và hình tượng người anh hùng thời Trần với vẻ đẹp kỳ vĩ, lẫm liệt, với lý tưởng sống cống hiến sẽ luôn cháy sáng trong mỗi tâm hồn Việt Nam. Đó cũng là hành trang quý giá nâng bước cho mỗi chúng ta trên con đường xây dựng và bảo vệ tổ Quốc. Tiếp bước truyền thống của cha ông, giờ đây khi “Tổ quốc đang bão giông từ biển”, nêu cao tư tưởng nhân nghĩa chúng ta nguyện giữ vẹn nguyên hình hài tổ quốc bằng tinh thần hòa hiếu nhất. Song , vì sự toàn vẹn lãnh thổ, chúng ta cũng sẵn sàng chấp nhận những mất mát, những hy sinh một khi không còn con đường nào khác. Và khắc ghi lời dặn của cha ông, chúng ta nguyện đưa con tàu tổ quốc vượt qua mọi phong ba bão tố:

“Hồn dân tộc ngàn năm không chịu khuất

Dáng con tàu vẫn hướng mãi ra khơi”.

(Nguyễn Việt Chiến)

Từ nào trong bài thơ tỏ lòng thể hiện vẻ đẹp nhân cách của Phạm Ngũ Lão

Phân tích vẻ đẹp con người và thời đại nhà Trần qua bài thơ Tỏ lòng - Bài văn mẫu số 2

Giữa những ngày “Tổ quốc đang bão giông từ biển” nhà thơ Nguyễn Việt Chiến đã suy cảm:

“Nếu Tổ Quốc hôm nay nhìn từ biển

Mẹ Âu Cơ hẳn chẳng thể yên lòng

Sóng lớp lớp đè lên thềm lục địa

Trong hồn người có ngọn sóng nào không”

Vâng! Mỗi khi Tổ Quốc “chập chờn bóng giặc” trong mỗi tâm hồn Việt Nam tinh thần dân tộc lại dậy sóng, “nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ..” (Hồ Chí Minh). Những “ngọn sóng” yêu nước ấy đã kết tinh tạo nên cả một dòng mạch văn chương yêu nước tuôn chảy suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Trên dòng mạch ấy, để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong tôi là những áng văn của thời đại hào khí Đông Á mà tiêu biểu là bài thơ “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão. Qua những vần thơ hào hùng ấy, hình tượng người anh hùng thời Trần hiện lên thật kì vĩ, lớn lao khi tỏ chí, “Tỏ lòng”.

Bài thơ “Tỏ lòng” đã gợi ra hình ảnh người dũng tướng thời Trần đầy hùng tâm tráng chí. Trước hết, tác phẩm đã khắc họa hình ảnh kì vĩ của người anh hùng cứu nước trên cái nền của thời đại. Người anh hào ấy thật mạnh mẽ bền gan vững chí trong hành trình chiến đấu bảo vệ đất nước. Con người hiện lên qua câu thơ đầu mang tầm vóc, tư thế, hành động lớn lao, mạnh mẽ: “Hoành sóc giang sơn, kháp kỉ thu”. Câu thơ dựng lên hình ảnh con người cầm ngang ngọn giáo để trấn giữ đất nước, cây trường giáo ấy phải mang kích cỡ, tầm vóc vũ trụ. Sự kì vĩ càng hiện rõ trong mối quan hệ giữa không gian và thời gian, không gian mở ra theo chiều rộng sông núi, thời gian đâu phải chốc lát mà là đã mấy năm rồi (kháp kỉ thu). Tuy nhiên, trong bản dịch thơ vẻ đẹp tráng lệ của người anh hùng chưa lột tả hết được so với nguyên tác. Từ “múa giáo” chưa diễn tả được hết sự hào hùng mạnh mẽ của tư thế “hoành sóc” .

Sự kì vĩ, hào hùng của hình tượng, người anh hùng “hoành sóc” càng được nâng lên qua khí thế quật khởi của thời đại ở câu thơ thứ hai: “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”. Hình ảnh ba quân là để nói về quân đội nhà Trần nhưng đồng thời còn là hình tượng biểu trưng cho sức mạnh dân tộc. Ở đây, nghệ thuật so sánh đã vừa cụ thể hóa sức mạnh vật chất của ba quân (mạnh như hổ báo) vừa hướng tới khái quát hóa sức mạnh tinh thần của đội quân mang hào khí Đông Á (khí thế át sao trời). Trong bản dịch, câu thơ: “Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu” mới chỉ nói đến sức mạnh vật chất của quân đội “nuốt trôi trâu” chứ chưa khái quát được khí thế át sao ngưu.

Hình ảnh ba quân với khí thế dũng mãnh, sức mạnh toàn diện như câu thơ trong bản phiên âm chính là cái nền tôn thêm chất hùng tráng của hình tượng người tráng sĩ “hoành sóc”. Hai câu thơ đầu đã thể hiện sự gắn kết chặt chẽ, mối quan hệ hữu cơ giữa người anh hùng và thời đại anh hùng, giữa một công dân anh hùng và một dân tộc anh hùng.

Hình tượng người anh hùng không chỉ đẹp ở sự kì vĩ, lẫm liệt, hào hùng mà còn bởi cái chí, cái tâm cao cả. Đó là con người ôm ấp hoài bão, lí tưởng thật cao đẹp. Với Phạm ngũ Lão, lí tưởng sống mà ông hướng tới là đánh giặc lập công danh để đền ơn vua, báo nợ nước. Hoài bão cao đẹp ấy được thể hiện qua món nợ công danh và nỗi thẹn với vĩ nhân:

“Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”.

Hai câu thơ thể hiện hùng tâm tráng chí của người anh hùng thời Trần. Hai câu thơ nói lên khát vọng lập nên công danh sánh ngang với bậc tiền nhân lỗi lạc. Sâu xa hơn, ý thơ còn ẩn chứa một lời thề trọn đời cống hiến xả thân cho vương triều nhà Trần – cho non sống đất nước Đại Việt. Vẻ đẹp trong tâm hồn nhân cách của người dũng tướng được thể hiện ngay ở nỗi “thẹn”. Phạm Ngũ Lão “thẹn” chưa có tài mưu lược lớn như Vũ Hầu đời Hán để trừ giặc cứu nước. Phạm Ngũ Lão cảm thấy “thẹn” có thể là do khát vọng, hoài bão được cống hiến cho đất nước vô cùng lớn, nên công danh của ông lập được còn bé nhỏ. Hoặc bởi đất nước lúc bấy giờ đang còn nhiều khó khăn, Phạm Ngũ Lão tự thấy công trạng của mình chưa đủ giúp nước,… Xong, dù lí do đi chăng nữa thì cái “thẹn” của tác giả vẫn rất cao đẹp. Nỗi “thẹn” ấy sẽ là động lực để chúng ta tiếp tục phấn đấu, nỗ lực vươn lên trong cuộc sống. Nói về nỗi “thẹn” của bản thân cũng chính là cách nói thể hiện khát vọng hoài bão được đem hết tài trí của mình để cống hiến cho đất nước. Sau này trong văn chương, chúng ta cũng bắt gặp những cái “thẹn” rất cao đẹp như trong thơ Nguyễn Khuyến:.

“Nhân hứng cũng vừa toan cất bút.

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào”

(Thu vịnh).

Vẻ đẹp tráng lệ của hình tượng người anh hùng thời Trần trong “Tỏ lòng” được thể hiện bằng bút pháp nghệ thuật đặc sắc. Hình tượng người anh hùng “sát Thát” được thể hiện bằng ngôn ngữ tráng lệ, kì vĩ gợi ra dáng vóc của những người anh hùng trong thần thoại và người dũng tướng trong sử thi. Không chỉ vậy, đây là bài thơ chí., “Tỏ lòng” nhưng không hề khô khan bởi nghệ thuật dựng hình ảnh biểu tượng hàm súc, giàu ý nghĩa.

Với nghệ thuật đặc sắc, bài thơ đã khắc họa của người dũng tướng thời Trần đầy hào hứng trên cái nền đất nước đang tràn đầy sức mạnh quật cường. Hình tượng thơ là kết tinh của tinh thần yêu nước và phẩm chất anh hùng của người Việt Nam. Cùng với “Hịch tướng sĩ” (Trần Quốc Tuấn), “Tụng giá hoàn kinh sư” (Trần Quang Khải), bài thơ “Thuật hoài” của (Phạm Ngũ Lão) luôn sáng ngời hào khí Đông A.

Hình tượng người anh hùng thời Trần với vẻ đẹp kì vĩ ấy là tấm gương sáng cho thế hệ sau trong hành trình bảo vệ Tổ quốc. Trong lịch sử Phạm ngũ Lão đã có cái “thẹn” rất cao đẹp để thể hiện khát vọng lớn lao của mình. Hoài bão được cống hiến cho Tổ quốc. Hay như Đặng Dung luôn sục sôi lí tưởng giúp vua đuổi quân thù ra khỏi bờ cõi:

“Giúp chúa những lãm giằng cốt đất.

Rửa dòng không thể vén sông mây”

Chúng ta hãy biết tiếp nối truyền thống anh hùng của các bậc tiền nhân trong lịch sử. Mỗi con người sống phải có lý tưởng, hoài bão cao đẹp. Khát vọng đẹp đẽ nhất của mỗi công dân là cống hiến cho đất nước. Cống hiến cho Tổ Quốc không nhất thiết là cầm gương, cầm súng…đứng dậy đấu tranh mà phải tùy từng hoàn cảnh để có những hành động phù hợp. Giúp cho quốc gia có thể là những việc làm lớn lao, nhưng cũng có thể là những hành động bé nhỏ, bình dị như bảo vệ môi trường, cố gắng học tập. Khi đã có những cống hiến thì chúng ta phải biết khiêm tốn, không được kiêu căng: “Đừng hỏi Tổ Quốc đã làm gì cho ta mà hãy hỏi ta đã làm gì cho Tổ Quốc hôm nay”. Nhất là trong tình hình đất nước hiện nay, khi mũi khoan của Trung Quốc đang ngang nhiên xoáy vào thềm lục địa chúng ta, những công dân của đất nước anh hùng hãy cùng nhau giữ lấy chủ quyền quốc gia chủ quyền biển đảo ấy là phần gia tài nghèo khó mà từ ngàn đời xưa ông cha ta đã không tiếc máu xương để khai phá, giữ gìn và truyền lại cho con cháu. Vì vậy con dân nước Việt sẽ không để một phần lãnh thổ nào rơi vào tay kẻ xâm lược.

Bác Hồ đã từng nói: “Một năm bắt đầu từ mùa xuân. Đời người khởi đầu từ tuổi trẻ, tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội”. Chính bởi vậy, thế hệ thanh niên càng phải sống có lí tưởng, có khát vọng. Người thanh niên hãy đem sức trẻ của mình để cống hiến, bảo vệ Tổ Quốc .

Bên cạnh những người dành hết “chiếc bánh thời gian” của mình vào công tác xã hội thì vẫn có những người chỉ biết sống vì mình, không quan tâm đến mọi người. Những con người ấy cần phải phê phán.

Giữa những ngày biển Đông đang dậy sóng này, ta lại càng thêm yêu những áng văn yêu nước như “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão. Bài thơ đã khắc họa được chân dung người anh hùng thời Trần với biết bao vẻ đẹp. Vẻ đẹp đó sẽ là ánh sáng soi rọi cho các thế hệ sau. Tiếp bước truyền thống anh hùng của dân tộc, chúng ta nguyện sẽ “giữ từng thước đất – Máu xương này con cháu vẫn khắc ghi” (Nguyễn Việt Chiến). Và một lần nữa những áng thơ yêu nước như “Thuật Hoài” của Phạm Ngũ Lão sẽ là niềm tin vững chắc cho chúng ta hôm nay.

---/---

Như vậy, Top lời giải đã vừa cung cấp những dàn ý cơ bản cũng như một số bài văn mẫu hay chứng minh "Tỏ lòng" của Phạm Ngũ Lão là sự thể hiện vẻ đẹp của con người và vẻ đẹp của thời đại để các em tham khảo và có thể tự viết được một bài văn mẫu hoàn chỉnh. Chúc các em học tốt môn Ngữ Văn !

Từ khóa » Bài Thơ Tỏ Lòng Thể Hiện