Tương Phố – Wikipedia Tiếng Việt
Có thể bạn quan tâm
| Tương Phố | |
|---|---|
| Sinh | 1896Bắc Giang, Việt Nam |
| Mất | 8/11/1973Đà Lạt, Việt Nam |
| Nghề nghiệp | Nhà thơ |
| Trào lưu | Nữ lưu và văn học |
Tương Phố tên thật: Đỗ Thị Đàm (1896[1] - 1973), là nhà thơ nữ Việt Nam, thuộc thế hệ văn học 1913 - 1932.[2]
Tên tuổi của Tương Phố gắn liền với phong trào "Nữ lưu và văn học", và bà đã có những tác phẩm được đánh giá cao như "Giọt lệ thu" (văn xuôi có xen thơ, 1923),[3] "Tái tiếu sầu ngâm" (thơ, 1930), "Khúc thu hận" (thơ, 1931)...
Cuộc đời
[sửa | sửa mã nguồn]Tương Phố sinh tại đồn Đầm,[4] tỉnh Bắc Giang, nhưng nguyên quán của bà ở xã Bối Khê, tổng Cẩm Khê, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.
Bà là con của ông Đỗ Duy Phiên và bà Nguyễn Thị Yểm. Vừa lớn lên, bà ra Hà Nội học ở trường Nữ hộ sinh, sau bỏ dở, để theo học Trường Nữ Sư phạm,[5] nhưng khi tốt nghiệp, bà không đi dạy. Bà có một cô em gái tên là Đỗ Song Khê, chính là người đã viết bài "Muốn ăn rau sắng chùa Hương" dưới bút danh Đỗ Tang Nữ nhắn gửi thi sĩ Tản Đà năm 1923.
Trong khoảng thời gian ở Hà Nội, bà gặp Thái Văn Du (em ruột Thượng thư Thái Văn Toản), một sinh viên trường thuốc, rồi họ thành vợ chồng năm 1915.
Một năm sau (1916), Tương Phố sinh con trai là Thái Văn Châu, thì chồng bà (khi ấy đã là Y sĩ Đông Dương) phải qua Pháp tham chiến trong cuộc chiến tranh Pháp-Đức (1914-1918).[6] Khoảng cuối năm 1919, chồng bà bị bệnh phổi phải trở về Huế, rồi mất vào mùa thu năm 1920 (ngày 25 tháng 7) khi bà còn đang học ở trường Nữ Sư phạm Hà Nội.
Tương Phố thuộc hàng nữ lưu tân tiến những năm 20 của thế kỷ 20. Bà bắt đầu làm thơ vào khoảng những năm ông Du phải đi xa, và số thơ này đều có chủ đề chung là nỗi nhớ mong chồng.
Sau khi chồng mất, năm 1923 (hoặc 1922) bà viết một bài văn xuôi có xen 8 đoạn thơ lục bát và song thất lục bát, mang tên là "Giọt lệ thu", được đăng báo năm 1928. Đây là tác phẩm gây được tiếng vang trên văn đàn thời bấy giờ và cũng đã khơi dòng văn chương lãng mạn sầu não trong văn học Việt Nam hiện đại.[7] Bởi nội dung bài là tiếng khóc thê thiết của một người vợ trẻ (Tương Phố) chờ chồng suốt ba năm, nhưng khi chồng (Thái Văn Du) về tới Huế, chẳng bao lâu thì mất. Đầu những năm 30, bài văn này đã được một nữ dịch giả người Pháp dịch ra tiếng Pháp, được một số nhà phê bình Pháp chú ý.
Sau đó bà tiếp tục viết những bài văn thơ cùng loại, đăng báo Nam Phong, về sau được tập hợp thành các tập: Giọt lệ thu, Mưa gió sông Tương, Trúc mai... Bà cũng từng làm thơ xướng họa với nhà chí sĩ Phan Bội Châu, thi sĩ Đông Hồ.
Năm Ất Sửu (1925), bà tái giá với Tuần phủ Phạm Khắc Khánh ở Phúc Yên (nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc).
Sau năm 1945, Tương Phố vào sống ở Nha Trang rồi mất ở Đà Lạt vào ngày 8 tháng 11 năm 1973, thọ 77 tuổi. Bà được an táng tại đồi Tương Sơn, TP. Đà Lạt. Hiện nay, ở thành phố cao nguyên này có một đường phố mang tên bà.
Tác phẩm
[sửa | sửa mã nguồn]Tương Phố chính thức bước vào làng văn từ những năm 1927, 1928 và nổi tiếng qua bài "Giọt lệ thu" đang trên tạp chí Nam Phong số 131 (tháng 7 năm 1928).
Các tác phẩm của bà đã xuất bản (chưa được thống kê đầy đủ), gồm:
- Giọt lệ thu (tập thơ, 1952)
- Mưa gió sông Tương (tập thơ, xuất bản thời Việt Nam Cộng hòa năm 1960)
- Trúc Mai (truyện dài bằng thơ)
Ngoài ra, bà còn viết một số tác phẩm, như: Nhờ rừng xanh (?), Tình quê (?), Chia phôi (?) Liên xóm Bàng (truyện, ?), Một giấc mộng (truyện, tạp chí Nam Phong số 133, tháng 9 năm 1928), Mối thương tâm của người bạn gái (truyện, tạp chí Nam Phong số 135, tháng 11 năm 1928), Bức thư rơi (truyện, 1929), Tặng bạn chán đời (truyện, 1929)... Và một số bài tiểu luận cũng đăng trên tạp chí này.

Nhận xét
[sửa | sửa mã nguồn]Đánh giá sự nghiệp văn chương của Tương Phố, các nhà nghiên cứu đã viết như sau:
- Nguyễn Vỹ:
- Nguyễn Tấn Long & Nguyễn Hữu Trọng:
- Vũ Ngọc Phan:
- Phạm Thế Ngũ:
- Thanh Lãng:
- Nguyễn Huệ Chi và Lê Trí Dũng:
Giới thiệu thơ
[sửa | sửa mã nguồn]| Giọt lệ thu Bao giờ quên được mối tình xưa Sinh tử còn đau mãi đến giờ Giấc mộng tìm nhau tìm chẳng thấy Mênh mang biển hận, hận không bờ. Trời thu ảm đạm một màu Gió thu hiu hắt thêm rầu lòng em Trăng thu bóng ngả bên thềm Tình thu ai để duyên em bẽ bàng. Sầu thu nặng lệ thu đầy Vì lau san sát hơi may lạnh lùng Ngổn ngang trăm mối bên lòng, Ai đem thu cảnh họa cùng thu tâm. (1923) | Khóc thu hận (Trích) Chàng đi buổi thu sơ năm ấy, Thu năm về, nào thấy chàng về; Chàng đi, đi chẳng trở về, Thu về, thiếp những tê mê dạ sầu! Làng mây nước biết đâu nhắn gửi, Khoảnh đất trời để mãi nhớ thương; Vì chàng, chín khúc đoạn trường, Vì chàng, trăm mối sầu vương tháng ngày. Thu xưa khóc, thu này lại khóc, Năm năm thu, mảng khóc mà già; Người xưa khuất, cảnh cũ qua, Non buồn nước lạnh, cỏ hoa tiêu điều. Nỗi ly hận mây chiều gió sớm, Tình tương tư khoảng vắng canh trường; Gió mưa tâm sự thê lương, Chỉ kim ai vá đoạn trường nhau đây! ... (1931. Đăng trên tạp chí Nam Phong số 164-tháng 7 năm 1931).[14] |
| Tái tiếu sầu ngâm Trích: Đàn xưa, ai dứt dây đàn? Đứt dây từ đấy, chứa chan mạch sầu! Ngày lạnh chi dở dang nhau, Tuổi xanh nghi buổi bạc đầu mà thương. Vóc mai gầy gò tuyệt sương, Mấy thu chiếc bách cánh buồm bơ vơ. E dè buổi gió chiều mưa, Con côi, mẹ góa, dễ nhờ nương đâu? Bước đi, âu cũng thương nhau, Dừng chân đứng lại cơ màu dở dang. Dây loan chắp nối đoạn trường, Ngâm câu tái tiếu hai hàng lệ sa! Dễ âu duyên mới du mà, Còn tình chăng nữa, cũng là lụy thôi. Trăm năm danh tiết lỡ rồi, Dẫu thân chung đỉnh cũng đời bỏ đi. Đào tơ sen ngó từ khi, Ngây thơ đôi lứa ngờ chi nỗi này. Uyên ương chia rẽ bấy nay, Lạc bầy chắp cánh, thẹn ngày giao hoan. Tình xưa lai láng khôn hàn, Bến xưa ngoảnh lại muôn vàn thương tâm!. ... | Thuyền ai, não khách ôm cầm, Dây tơ dìu dặt, âm thầm tiếng tơ. Khúc thành, lệ ứa như mưa, Cảm xoang điệu cũ bao giờ cho thôi. Thân này, đôi dẫu đủ đôi, Lòng này, riêng vẫn lẻ loi tấm lòng! Theo duyên ân ái đèo bòng, Trăm năm vẫn một khúc lòng bi thương. Nghĩ vui đuốc tuệ hoa đàm, Cha già, con dạy dễ làm sao đây? Chàng từ cười hạc chơi mây, Bụi hồng, nào biết những ngày gió mưa. Đau lòng thiếp, nỗi sau xưa, Cửa nhà, non nước như tơ rối bời. Lòng nào lòng tưởng vui cười, Cũng thân nghiêng ngửa với trời đa đoan. Nỗi đời nếm hết tân toan, Khôn ngoan chi mấy mà oan trái nhiều! Nước non duyên nợ nghĩ liều, Cầm như con trẻ chơi diều đã xong. Nỗi riêng lệ ứa đôi dòng, Trăm năm để một tấm lòng từ đây![15] (1925. Đăng trên tạp chí Nam Phong số 147, tháng 2 năm 1930) |
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Năm sinh của Tương Phố ghi theo Từ điển Văn học (bộ mới). có sách chép là 1898 (Từ điển Tác gia Văn hóa Việt Nam. Nhà xuất bản Văn hóa- Thông tin, 1999) hoặc 1900 (Việt Nam thi nhân tiền chiến, quyển thượng, 1968).
- ^ Theo phân kỳ văn học của GS. Thanh Lãng, tác giả bộ Bảng lược đồ Văn học Việt Nam.
- ^ Theo Vũ Ngọc Phan, thì bài "Giọt lệ thu" được viết vào mùa thu năm Quý Hợi (1923).
- ^ Tương Phố sinh tại đồn Đầm, nên cha bà đặt tên bà là Đàm (Đàm chữ Hán có nghĩa là Đầm) để ghi lại dấu tích nơi sinh ra bà và nơi ông đang làm việc.
- ^ Từ điển Văn học (bộ mới) ghi năm 1917, Tương Phố học Trường nữ Sư phạm Hà Nội.
- ^ Ghi theo Từ điển Tác gia Văn hóa Việt Nam (Nhà xuất bản Văn hóa-Thông tin, 1999). Từ điển Văn học (bộ mới) và Việt Nam thi nhân tiền chiến (quyển thượng) đều ghi ông Du đi du học ở Pháp. Nhưng căn cứ câu: "Anh rong ruổi theo miền lửa đạn/ Em trở về vui bạn bút nghiên" (Tự tình, 1920), thì rất có thể ông Du đã đi Pháp để tham chiến.
- ^ Theo Bách khoa toàn thư Việt Nam (bản điện tử)
- ^ Nguyễn Vỹ, Văn thi sĩ tiền chiến, tr. 345.
- ^ Việt Nam thi nhân tiền chiến (quyển thượng), tr. 87-88.
- ^ Lược theo Nhà văn hiện đại (trọn bộ), tr. 176, 177 và 186.
- ^ Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (quyển 3), tr. 338 và 404.
- ^ Bảng lược đồ văn học Việt Nam (quyển hạ), tr. 497-499 và 502.
- ^ Lược theo Từ điển Văn học (bộ mới), tr. 1907-1908.
- ^ Xem bản đầy đủ ở đây
- ^ Xem bản đầy đủ ở đây: [1][liên kết hỏng]. Giới thiệu bài thơ "Khúc thu hận" và "Tái tiếu sầu ngâm", Vũ Ngọc Phan viết: Thơ Tương Phố mà tuyệt xướng thì chỉ có hai bài này (tr. 181). Chúng cũng đã được Phạm Thế Ngũ đánh giá cao (xem trích dẫn bên trên).
Sách tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại (trọn bộ). Nhà xuất bản Sống Mới, Sài Gòn, 1959.
- Nguyễn Vỹ, Văn thi sĩ tiền chiến. Nhà xuất bản Văn học in lại năm 2007.
- Nhiều người soạn, Từ điển Văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.
- Thanh Lãng, Bảng lược đồ văn học Việt Nam (quyển hạ). Nhà xuất bản Trình Bày, Sài Gòn (sách không ghi năm xuất bản).
- Nguyễn Tấn Long & Nguyễn Hữu Trọng, Việt Nam thi nhân tiền chiến (quyển thượng). Nhà xuất bản Sống Mới, Sài Gòn, 1968.
- Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (quyển 3). Quốc học tùng thư, Sài Gòn, 1965.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]Từ khóa » Trời Thu ảm đạm Một Màu
-
Giọt Lệ Thu (Tương Phố - Đỗ Thị Đàm) - Thi Viện
-
Lời Bài Thơ Giọt Lệ Thu (Tương Phố) - TKaraoke
-
Bài Thơ Khóc Chồng Nổi Tiếng Của Nữ Sĩ Tương Phố
-
GIỌT LỆ THU (Tương Phố) - CHIM VỀ NÚI NHẠN
-
Tuong Pho - Tương Phố
-
Tương Phố Của Giọt Lệ Thu… - Báo Thừa Thiên Huế Online
-
Giọt Lệ Nữ Thi Nhân - Báo Bắc Giang
-
Giọt Lệ Thu - Hà Vân - NhacCuaTui
-
Hãy Tin Chúa Jesus - MIÊN MAN MÙA THU Mùa Thu đang Về Với ...
-
Bài Thơ Khóc Chồng Nổi Tiếng Của Nữ Sĩ Tương Phố | Thân Tri
-
Tử Vi Nghiệm Lý 42. Lá Số Nữ Thi Hào Tương Phố
-
Vẻ đẹp Bức Tranh Mùa Thu Trong Bài Thơ "Câu Cá Mùa Thu" Của ...
-
BÀN THÊM VỀ BA BÀI THƠ THU CỦA NGUYỄN KHUYẾN
-
Nữ Sĩ Tương Phố: Quán Trọ Phù Sinh Khách Lỡ Làng