Tướng Phụ Nữ Khắc Phu Và Sát Phu - Bóng đèn Duhal

Tướng phụ nữ khắc phu và sát phu

Cần phân biệt hai mức độ khắc phu và sát phu. Khắc phụ: xung đột vợ chồng gây sóng gió trong gia đình, làm cho chồng lụn bại, đưa đến chia lìa. Sát phu: gây ra sự hung hiểm cho người chồng về sinh mạng, có thể bệnh hoạn hoặc chết.

Sách hướng viết: “Nữ nhân khắc phụ ty tước quyền cao thanh thích nhĩ” – nghĩa là: đàn bà mũi mỏng, quyền cao, tiếng nói như chọc vào tai ai là khắc phu.

Nhiều người dùng tục nhãn để nhìn nữ nhân thường cho rằng diện mạo hung ác, tính tình hùng hổ, đanh đá là khắc phu. Thật ra, hung ác, đanh đá không phải là chính tướng của khắc phu, nó chỉ là phụ. Nếu như không có chính tương khắc phu thì dù cho hùng hổ, đanh đá thì cũng không khắc phu. Diện mạo hung ác của đàn bà nói cho rõ không phải là khắc phu mà là tướng ác tử, tính tình hùng hổ đanh đá không phải là khắc phu mà là khắc tử (xa lìa con cái, khó nuôi con).

Nếu chỉ bảo quyền cao là khắc phu, thì dễ lầm với quyền nở, quyền lớn tiếng chữ gọi là “phong, đại”. Quyền đại với quyền phong lại gần giống nhau. Trên tướng pháp của ba loại quyền: quyền cao, quyền phong, quyền đại cần phân biệt rõ ràng vì ảnh hưởng của mỗi loại khác hẳn nhau. Quyền đại là tướng vất vả, lao bác; đồng thời là con người hung ác. Quyền phong (nở nang, thuộc trong đoạt quyền phu, kiêm phúc tưởng. Chỉ có quyền cao mới là tướng sát phu thôi.

Còn một loại quyền khác nữa là: quyền lộ, xương Lưỡng quyền nhô cao, ít thịt che đậy cân xứng. Tướng quyền lộ, đàn bà nghèo khổ và khắc tử, không khắc phu. Thế nào là quyền lộ? Phải mặt có thịt nhưng chỉ duy Lưỡng quyền lộ Cốt mới gọi là lộ được. Nếu mặt gầy ốm, sống mũi lộ cốt, xương quanh mắt cũng lộ, trán cũng do xương hàm cũng do xương thì quyền lộ cốt là đương nhiên nên không thể gọi là tướng quyền lộ được nữa.

Quyền đẹp tướng là quyền phong (nở nang) đầy đặn, tròn trịa và sáng sủa không lộ Cốt. Loại quyền phong rất hiếm vì nó thuộc đại quý. Tông thường chỉ thấy quyền tròn trịa không lộ cốt thế là đã tốt rồi vì suốt đời no ấm, không lộng quyền cũng không ngượC xuôi vất vả.

Người đàn bà mang tướng khắc phu thì có Lưỡng quyền cao.

Quyền cao thế nào?

Quyền cao, xin đừng hiểu là quyền cất đột xuất, cũng xin đừng lầm với quyền rộng lớn, phải nhận định trước nhất vị trí của quyền cốt (cốt là xương). Lưỡng quyền của đàn bà so với Lưỡng quyền đàn ông tính chất hoàn toàn bất đồng. Nam nhân quyền phải cao lớn mới hay, đầy đặn (phong) là thứ yếu và lộ là hạ cách. Nhưng với nữ nhân thì quyền cao lại là tướng khắc phu. ..

Vị trí chính thường của Lưỡng quyền đàn bà cần ngang bằng với sống mũi, nếu cao hơn trung điểm của sống mũi gọi là cao, nếu lại thấy một làn Cốt ngầm tháp hai bên mũi thì cao ấy càng nặng. Đàn ông quyền cao, quyền cốt áp hai bên mũi, đấy là “Lưỡng quyền tháp thiên”, chức cao quyền trọng. Nhưng đàn bà mà như vậy chính là hung tướng khắc phu. Nếu mang hung tướng nào khác nữa thì thân phận sẽ đúng như câu tục ngữ: “Thập niên cứu tế (mười năm chín lần lấy chồng) và xứng đáng là nữ anh hùng khắc phu.

Đế nhận cho rõ hơn về quyền cao, còn phải căn cứ vào cuối mỗi con mắt, thấy gò mà ẩn ẩn phát hiện cao lên.

Về tính tình, quyền cao không dữ tợn bằng quyền đại, nhưng cũng chẳng nhu thuận. Người đàn ông Lưỡng quyền cao biểu thị quyền lực và phách lực. Người đàn bà quyền cao cũng biểu thị một cá tính mạnh và nhiều nghị lực.

Sách Tướng viết: “Khán quyền bất như khán ty” – nghĩa là: Xem tướng Lưỡng quyền chẳng bằng xem tướng mũi. Tại sao nói vậy?

Bởi bốn hình thể: cao, đại, phong, lộ của Lưỡng quyền rất khó phân biệt, cho nên tìm ra tương khắc phu trên Lưỡng quyền không phải dễ. Cho nên cần lấy mũi làm chuẩn cho dễ hơn. Người đàn bà có tướng khắc phu thì mũi vát mỏng như dao (ty tước như đao), cái sống mũi không tròn như sống mũi cao. Đàn ông sống mũi dao thì tính tình khắc khổ thôi, không khắc thê, còn đàn bà thì khắc phu, đồng thời tính tình cũng rất khó chịu nữa. Nữ nhân đã tỵ tước, thêm quyền cao nữa ắt hẳn phải khắc đến ba đời chồng rồi mới yên.

Quyền cao tỵ nước không tạo cho khuôn mặt trở nên hung ác, trái lại chúng còn làm cho dung mạo người đàn bà thêm đẹp là đàng khác, nhưng phải chịu điều bất hạnh là khắc phu vì chúng được kể như tướng điển hình của khắc phu. Trăm trường hợp đúng đến 95, rất hiếm trường hợp ngoại lệ.

Để hiểu rõ về tướng khắc phu, xin đọc câu chuyện dưới đây của Bành Thần Tiên tức Bành Hàm Phấn, nhà tướng số nổi tiếng Bắc Kinh:

Một hôm, tôi (lời Bành Hàm Phấn) dẫn học trò đi chơi Trung Ương Công Viên để thực tập khán tướng. Tôi chỉ vào số năm người: ba đàn bà thuộc giới thượng lưu trạo độ tuổi ngoài bốn mươi, hai đàn ông còn trẻ, ngồi ghế trước mặt chúng tôi mà hỏi lũ học trò:

“Các con có biết ba người đàn bà ngồi bên kia trên tường cách điểm nào giống nhau và điểm nào khác nhau?”

Tất cả chú mục ngắm nghía, xôn xao một lúc rồi đáp: “Thưa thầy chúng con thấy ba người đó đồng cách điểm suốt đời đủ ăn, đủ mặc, không lo khốn khổ và dị cách trên điểm chồng con với tuổi thọ.”

Tôi nói: “Các con đoán thế mơ hồ quá, bây giờ hãy đi vào chi tiết phu cung của họ xem sao?” Anh trưởng tràng (học trò giỏi thường được làm trưởng tràng) thưa: “Con thấy bà áo xanh lấy được chồng sang, bà quần vàng thì chồng giàu, còn bà mặc áo có hoa đỏ có tướng khắc phu”.

Tôi bảo: “ù con xem tướng trên đại thể chẳng sai bao nhiêu, khá lắm thầy khen con đó, nhưng có điều con chưa nhận ra… Cái bà chồng sang đúng lắm, còn cái bà chồng giàu con nói trật, không phải chồng giàu mà chính bà ta giàu và bà này cũng có tướng khắc phu nữa… Cái biết của các con chỉ mới ở “bì phu” (ngoài da) thôi. Tương khắc phu phải hiểu có nhiều loại được chia ra làm “minh tướng” (trông rõ ở bên ngoài) và “ám tướng” (giấu ẩn bên trong), lại phân thêm ra làm “ngoại Ngũ hành và “nội Ngũ hành”. “Minh tướng” và “ngoại Ngũ hành” dễ thấy, “ám tướng” và “nội Ngũ hành” khó nhận”.

Một học trò khác nói: “Thưa thầy và anh trưởng, con xem cả ba người đàn bà đó đều không thấy ai mũi vát, quyền cao (quyền cao tỵ tước) mà tất cả đều khắc phu thì sao?”

Bành Thần Tiên đáp: “Con mới biết một hai chưa biết tới ba bốn mà cái biết con đến năm sáu bảy tám chín nữa. Nói riêng về “minh tướng” khắc phu, con đã cần phải phân biệt ba phương diện: diện mạo, thể hình và cử động. Bậc sơ học chỉ học diện mạo.

Tướng khắc phu trên diện mạo liên quan tới ba bộ vị: mắt, mũi và quyền. Điều này đa số rất chú ý, nhưng họ đã không hiểu rằng nếu chỉ chú ý đến diện mạo không thôi thật là thiếu sót. Các con hãy trông cho kỹ bà áo hoa đỏ để nhận ra cái cách “ty lương tước như dao” (sống mũi như sống dao) rồi đến bà quần vàng tương khắc phu do “ty lương để hãm” (sống mũi tẹt dí xuống), còn bà mặc áo xanh tuy lấy chồng sang thật đấy nhưng cũng khắc phu bởi tại đôi mắt.

Thông thường như chúng ta biết phàm người đàn bà mũi như sống dao, mắt hung dữ và quyền cao là khắc phu và không để ý đến “ty lương để hãm”, thật ra cũng là một loại tướng khắc phu. Người đàn bà mắt to (vành mắt rộng) trong sáng là mắt quý phu nhân, nhưng nếu đôi mắt ấy lộ quang vành quá mạnh thì khắc phu, cao điểm vận hạn của đôi mắt quang lộ khắc phu là vào năm 37, 38 tuổi. Tướng mũi dí tẹt xuống (tỵ lương để hãm) thì khắc phu muộn hơn”. 

Sách Tướng viết: “Nữ nhân tối kỵ hữu tỵ vô quyền” – nghĩa là: đàn bà tướng kỵ mũi cao mà không có Lưỡng quyền tương phối.

Ở trên như chúng ta đã biết quyền cao tất khắc phu nhưng nếu Lưỡng quyền quá thấp gần như không có mà cái mũi cao nữa thì lại càng là một tướng xấu hơn nữa.

Câu chuyện dưới đây chứng minh cho tướng lý này:

Khoảng Dân quốc thập tứ niên – tức năm 1925, ở chợ Phật Sơn tỉnh Nam Hải có cửa tiệm bán nước trái cây, chủ nhân họ Lương, vợ chồng hiếm hoi mới nuôi một con gái đặt tên là Á Quyên. Khi lên 6 tuổi, ông bà Lương cho cô con nuôi đi học và đổi tên là Lệ Quyên. Lớn lên dung mạo Lệ Quyên rất xinh đẹp, ai trông cũng muốn yêu.

Năm 18 tuổi, ông Lương đã già mới bảo Lệ Quyên nghỉ học về trông nom công việc buôn bán. Đã đẹp lại có duyên, tiếng tăm nổi dậy, chỉ trong khoảng thời gian ngắn, khách mua lũ lượt kéo đến hàng. Trong số khách thường lui tới Có nho sĩ họ Phùng tinh thông tướng học, trông Lệ Quyên thấy nàng mặt mũi Ngũ quan đoan chính, thân hình đều đặn cân xứng, da trắng nom như trứng gà bóc thật dễ làm điên đảo những kẻ hiếu sắc, chỉ hiếm một nỗi là mũi nàng quá cao, lại có ám tiết (mũi nổi lên vết đen mờ mờ như chia mũi ra làm hai khúc).

Theo tướng lý thế là “hữu tỵ vô quyền (mũi cao mà Lưỡng quyền không tương phối) hay gọi là “độc tủng Cô phong” (mũi như ngọn núi đứng chơ vơ). Ai mang tướng này ắt hẳn là loại đàn bà bạc tình hay khắc phu. Lại thêm hai đôi mắt nàng chúi xuống (hạ thùy) và nơi “Sơn căn” (tức khoảng cách giữa hai con mắt) có vệt như ngấn lệ.

Nho sĩ họ Phùng liền lập lời đoán ghi trên giấy với sự chứng kiến của bạn bè đồng si tình cô gái bán nước trái cây như sau:

“Tam thập nhị tuế (32 tuổi) đi vào nhãn vận (vận con mắt) sẽ gặp khốn khổ, đôi mắt nhìn phiêu dao bất định tất nhiên tâm vô định kiến. May nhờ quyền cất chạy thẳng lên thái dương quyền cốt tháp thiên sương) nên kể từ trung niên đến lúc già có thể tự làm lấy ăn nên không đến nỗi khổ. Cái mũi “cô phong độc tủng” làm cho phải thay đổi tới ba bốn lần chồng. Khi nào hồng nhan biến ra bạch phát thì sống cô độc”. Cuộc đời Lương Lệ Quyên quả đúng như lời đoán tường của nho sĩ họ Phùng.

Cai quản quán bán nước trái cây, Lệ Quyên chẳng khác nào một đóa hoa tươi thắm lôi cuốn biết bao nhiêu chàng trai ong bướm giang hồ. Nhưng khốn nỗi tâm tình của Lệ Quyên lại lạnh hơn băng tuyết, muốn chọn chồng một cách nghiêm nghị chín chắn, những kẻ ngang bằng hoặc thấp hơn đều bị nàng loại. Ngày tháng trôi mau, cả năm sáu năm trường Lệ Quyên vẫn chưa chọn được ai. Tự thị thông minh, nàng mới ra vế câu đối kén chồng, ai đối cho đẹp lời đẹp ý, nàng sẽ nguyện đi theo dù phải làm lẽ mọn, thiếp hầu cũng cam lòng. Vế đối ấy là: “Lê lý, lê hoa tam dạng bạch”.

Có người phú thương giàu nhất vùng tên Văn Thiếu Đình tuổi ngót nghét sáu mươi đã đối được. Giữ lời hứa, Lệ Quyên chấp nhận về làm thiếp cho Văn Thiếu Đình.

 Rủi cho nàng, chưa đầy ba tháng chăn gối, Văn Thiếu Đình bỗng lăn cổ ra chết. Cả họ bên chồng đổ tiệt cho Lệ Quyên là con quỷ mang sự

bất tường đến cho gia đình nên xúm nhau đuổi nàng đi, chẳng cho lấy một xu nhỏ.

Lệ Quyên đành trở về với quán bán trái cây ngày trước, tự thực kỳ lực và cũng có gá nghĩa với vài người đàn ông nữa, rồi chẳng ai ăn ở được lâu bền. Cuối cùng Lệ Quyên chết già cô độc.

Sách Tướng viết: “Nữ nhân tam độ giá, kỳ thanh thích nhĩ” – nghĩa là: Đàn bà ba lần lấy chồng, do tiếng nói nghe chói lỗ tai.

Tiếng nói của đàn bà nên có âm thanh nhu hòa, nếu âm điệu hoặc âm sắc cao hoặc trầm nghe chói lỗ tai, rất xấu.

Nam nhân nói nghe chói lỗ tai phần lớn bị phá bại và cuối cùng cuộc đời thường bị ác tử. Nữ nhân có thanh âm như thế tất chẳng khỏi khắc phu, khó tử, chôn chồng, chôn con.

Thanh âm chói tai phân ra làm hai loại: Mộc và Kim. . Tiếng chói tai thuộc Mộc thì các ông chồng thường chết trên giường bệnh.

Tiếng chói tai thuộc Kim thì các ông chồng dễ tử ư phi mệnh hoặc chết nơi tha phương. – Về tiếng nói của đàn bà mang tương khắc phu, ngoài tiếng chói tai còn có tiếng nghe vẩn đục như tiếng đàn ông, tiếng nói nghe như vừa khóc xong, tiếng nói ồ ạt như cãi nhau cũng là khắc phu.

*Sách Tướng viết: “Nữ hữu trượng phu tưởng phi ly tiên thị khắc” – nghĩa | là: Đàn bà có tướng đàn ông nếu không bỏ chồng thì cũng khắc phu.

Trượng phu tưởng của đàn bà có hai mặt: – Một mặt trên hình thái dáng dấp. – Một mặt trên tính tình thái độ.

Tuy nhiên, thường thường thì cả hai mặt ấy đi liền với nhau, rất hiếm trường hợp tách rời. Nếu đàn bà dáng đàn ông, tính đàn ông là hỏng. Phải nam cương nữ như mới hợp cách. Khi ta nói nam hay nữ không thôi thì chỉ là nói giống đực hay giống cái, sự khác biệt đặt trên buồng trứng và bộ sinh thực khí. Nhưng nếu thêm vào cương với nhu thì tính chất nam nữ thể hiện lên rõ ràng. Lúc ấy ta mới có thể bảo với một nữ nhân rằng: “Cô nghĩ như vậy bởi Cô là đàn bà” ngoài định lý chung: “Nghĩ như vậy vì sự thật nó như vậy”. Bởi thế, khi đoán tướng phải phối hợp hình tính với nhau. Chứ không thể chỉ căn cứ vào danh từ tướng mà quá chú trọng vào hình hài vì có cả tướng ngay trên tâm tính.

Trong cuốn “Tướng mệnh đàm kỳ” tướng sĩ Tề Đông Dã kể:

“Mấy năm trước, tôi cùng mấy người bạn tới một quán cơm ở Thượng Hải. Ngay bàn bên có mấy bà. Ông bạn họ Lý hình như có quen biết với họ mới hỏi nhỏ tôi rằng: “Này bạn, xem ba vị nữ nhân bên ấy tướng cách thế nào?” Thể theo lời bạn Lý, tôi vừa ăn vừa tìm cách chú ý đến ba người đàn bà đó. Chờ khi họ ăn xong ra về rồi, tôi mới bảo bạn Lý: “Trên đại thể bây giờ tôi đã biết họ thế nào. Bà bên phải và bà bên trái đều từng đã ly dị rồi lấy chồng nữa. Còn bà ngồi chính giữa hơi mập tuy có tướng tốt đấy nhưng vợ chồng bất hòa, lủng củng muốn bỏ nhau mà không bỏ được”.

Lý tiên sinh gật đầu: “Bác nói đúng, hai bà kia ly hôn rồi, phần bà họ Tào tôi không hiểu bác nói sao vì chồng bà ta đàng hoàng lắm, con cũng đã lớn còn muốn bỏ nhau ư?” . Tôi bảo: “Ù, bà ấy đang ở tình trạng như vậy, tôi không rõ năm nay bà ta bao nhiêu tuổi, chắc chưa tới 42 tuổi đâu, nếu không thì quyết nhiên khắc phu xảy ra rồi.” . Một người bạn khác nói chêm vào: “Hai ly phu, một khắc phu, cái gì kết hợp họ ngồi với nhau ngẫu nhĩ kỳ lạ thế nhỉ?”

Tôi đáp: “Thường thì vật dĩ loại tụ, cùng giống hay tụ hội với nhau. Ba người đàn bà đó Vốn là loài chim cùng lông cánh nên sống quây quần.”

Câu chuyện thêm phần hào hứng, mọi người đồng thanh yêu cầu tôi giải thích về tướng mấy người đàn bà khi nãy.

Tôi nói: “Đàn bà lấy mũi làm Phu tinh. Tướng mũi khuyết hãm có nghĩa là Phu tinh khuyết hãm nên chẳng bỏ chồng cũng khắc phu, khó thoát. Vận mũi chạy dài 10 năm từ 41 đến 50 tuổi. Nhưng chuyện bỏ chồng hay ly dị thường xảy ra trước năm 41 vì lẽ người đàn bà ly hôn hay khắc phu đa số liên quan đến cả tướng mi (chân mày), tướng mặt mà mi với mắt ảnh hưởng từ 30 đến 40 tuổi. Người đàn bà mà lộ tinh (con ngươi hơi lồi ra), lộ quang (mắt sáng quắc, hoặc lộ vẻ hơi lả lơi), hỗn trọc (mắt hơi đục mờ), nhãn hình bất chính (hình thể lệch), Lưỡng quyền lộ cốt. Có những tướng này là sát khắc chứ chẳng phải ly hôn, ly dị mà thôi. Tất cả cũng rất hay xảy ra vào tuổi chưa 40, lúc quyền mi nhãn vận đang ở cao điểm phối hợp nhau”.

Lý tiên sinh hỏi: “Bà họ Tào người mập, tôi thấy mũi, mi, mắt, Lưỡng quyền không hề khuyết hãm, sao bác lại bảo là khắc phu?”

Tôi đáp: “Tướng bà họ Tào, những người sơ học khó nhận ra vết tích khắc phu. Xin chỉ ông bạn hay. Số là ở nơi Sơn căn khoảng giữa hai con mắt của bà họ Tào quá cao. Nếu như người đàn ông có tướng ấy cộng với đôi mắt sáng thì thành công về võ nghiệp hoặc sẽ là một vị pháp quan lẫy lừng vì nó là tướng nắm “sinh sát chi quyền”. Còn như với Tào thái thái chỉ là một người đàn bà, hiện tại xã hội, hiện tượng đàn bà nắm sinh sát quyền cực hiếm, nay Tào thái thái có tướng ấy, tất nhiên đối tượng cho sinh sát quyền là ai nữa ngoài đấng phu quân”.

Lý tiên sinh lại hỏi: “Vâng tôi xin chịu bác về cái lý khắc phu, nhưng còn việc bác bảo muốn bỏ nhau mà không được thì sao? Hiện nay, bà ta đến tuổi 40 rồi, con cái cũng đã lớn khôn, theo tôi nghĩ bà ta ở trong hoàn cảnh tương tự chắc chẳng đến nỗi để cho dã tâm nổi lên cản rỡ.

Tôi nói: “Nữ nhân khắc phu ly hôn tướng được phân thành hai loại: Về ly hôn có vì “dâm mà ra hay vì “việc” mà ra. Về khắc phu có “minh tướng” và “ám tướng”. Như Tào thái thái là “ám khắc” cho nên bà ta với chồng cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt từ lâu rồi. Khi nào tình nghĩa: phu thê quá xoắn xuýt đến nỗi không rời nhau ra được nữa, kết quả thành khắc phu, đấy gọi là ám khắc. Cho nên ám khắc khó biết hơn minh khắc. Bà họ Tào Có đầy đủ tướng trượng phu gọi là cân quắc phụ nhân hay nữ trung trượng phu. Tướng ấy mang điểm tốt là người giỏi:

Giang quán xuyến nhưng lại kèm điểm xấu là khắc phu. Nếu người đàn bà ấy vẫn giữ được phong thái nữ tử thì đỡ, nếu cả phong thái tính tình giống hệt đàn ông thì chớ nên dính vào, đàn ông bốn chết ba chạy là thường. Nói trắng ra, cái người chồng cơm chẳng lành canh chẳng ngọt hiện thời chính là người chồng thứ hai mới đúng, nếu ông ta không sớm cao chạy xa bay, tất là nguy hiểm”.

Lý tiên sinh vỗ đùi cười ha hả rằng: “Tôi phục bác lắm, Tào thái thái đã ngốn xong một ông chồng rồi, ông này là công thứ hai đấy”.

Qua năm sau, Lý tiên sinh báo cho tôi biết ông chồng thứ hai của bà họ Tào đã qua đời sau một cơn bạo bệnh.

Một số tướng khắc phu khác

Tương khắc phu còn có nhiều hình thái khác, nhưng không nặng bằng những tưởng chính yếu vừa kể ở trên.

Sách Tướng Mệnh của Tào Chấn Hải ghi như sau:

– Dưới đôi mắt có sắc xanh đậm là sinh ly sắc.

– Mắt lộ mày vàng.

– Ở văn Pháp lệnh hay góc miệng có nốt ruồi đen.

– Răng hô mà hở.

– Sống mũi nổi đốt.

 – Trán thật gồ, rộng đến thái dương.

– Môi dưới trùm lên môi trên.

– Tam quyền diện (hai quyền cao thêm Ấn đường nối ra).

– Trán quá cao.

– Trán hẹp, chân mày giao nhau.

– Mắt ác, mũi hếch. 

– Cổ thật ngắn, trán dô.

– Mi quá đậm và giao nhau.

– Đầu thật lớn, trán thật rộng.

– Cốt thô, tiếng nói thô.

– Nhiều vết ngang trên mặt.

– Sơn căn (cuối sống mũi chỗ giữa hai mắt) có nốt ruồi.

– Lông mày thô và đỏ.

– Da trắng trắng mà không có quang thái, trông xỉn như nước vôi.

– Mặt dài mà miệng rộng.

– Ấn đường có một vệt thẳng như cây kim treo.

– Tuổi trẻ đã rụng tóc.

– Sơn căn để hãm (thụt xuống).

– Mũi quặp lại, tay thô.

– Sắc mặt bẩn như có bùn.

Khắc phu khi nhẹ đi, có nghĩa là gây sự trở ngại cho chồng trên mọi phương diện: công danh, tài lộc, sự thành đạt của con cái…

Vào cuối đời Đường, các tay thương nhân với giới quan lại đi qua vùng Tường Giang, tất cả đều biết và say mê một ca kỹ nổi danh tài sắc: Vương Âu Ngọc. Họ bảo nhau, ai đã đến thành Hoành Dương mà chưa được nhìn Vương Ấu Ngọc, tên đó là con lừa. Đám sĩ đại phu lại càng say mê Vương Ấu Ngọc hơn nữa vì nàng rất | tinh thông văn mặc, giỏi làm thi từ. Nhiều thi sĩ tiếng tăm đương thời khuyên nàng bỏ Hoành Dương, kinh đô của thương mại để về Trường An, kinh đô của văn học và chính trị, nhưng Vương Ấu Ngọc không nghe và thâm tâm nàng không muốn làm khôi thủ chốn phong trần mà mong kiếm một người chồng để có thể sống hạnh phúc dưới mái ấm gia | đình, chỉ hiềm nỗi chưa gặp người tri kỷ.

Vương Ấu Ngọc vừa đẹp vừa tài hoa lại vừa giàu có nên nàng rất kiêu kỳ.

Một ngày kia có kẻ phiêu lãng hào hoa tên Liễu Phú theo đám thương nhân đi từ Lạc Dương tới Lĩnh Nam, neo thuyền nghỉ tại Hoành Dương đã gặp Vương Âu Ngọc. Chỉ một đêm thơ, hoa và rượu, cả hai người bỗng yêu đến nỗi không muốn rời nhau. Vương Ấu Ngọc đề nghị nguyện làm vợ của chàng. Liễu Phú lặng thinh.

Sáng hôm sau, họ chia tay. Liễu Phú nhớ Ngọc không theo thương thuyền đi Lĩnh Nam nữa, chàng ở lại Hoành Dương nhưng không tới thăm nàng, vì Liễu Phú chỉ còn tiền đủ ăn cơm trong mấy ngày thôi. Ba bốn hôm sau, Vương Ấu Ngọc mới biết tin người yêu vẫn ở Hoành Dương nàng tức tốc đi tìm, họ gặp nhau trong niềm cảnh vừa hân hoan vừa sầu tủi.

Ngồi trên thuyền thả trôi trên dòng Tương Giang, Liễu Phú giải thích lý do tại sao chàng lại lặng thinh trước lời đề nghị kết giải đồng tâm của Ngọc.

Trước đây, do một chuyện bất bình, chàng đã phạm tội sát nhân, có người đàn bà chứng kiến ép buộc chàng phải lấy bà ta, nếu không sẽ đi tố giác với quan phủ.

Vương Âu Ngọc nghe xong, nàng rất vui vẻ nói có thể giải quyết chuyện đó dễ dàng bằng tiền bạc. Ngay tối hôm ấy, Liễu Phú về Trường Sa gặp vợ con thương lượng. Vợ Liễu Phú bằng lòng bán chồng cho Vương Ấu Ngọc với giá 200 vạn tiền (một vạn tiền giá trị một lạng vàng), Phú quay lại Hoành Dương cho Ngọc hay, Ngọc bán hết tư trang cộng với số tiền dành dụm đem đến đưa cho vợ Phú. Hạnh phúc hai người tràn ngập thế gian. Nhưng số mệnh Vương Âu Ngọc mỏng manh quá. Chưa được bao lâu thì cha Liễu Phú mất, Phú phải về Lạc Dương cu tang.

Lúc chia tay, Vương Ấu Ngọc bảo Liễu Phú: “Em sẽ chờ anh, dù bao nhiêu lâu chăng nữa em vẫn chờ.

Khi Liễu Phú đi rồi, Ấu Ngọc đem châu báu đổi thành tiền, từ bỏ hẳn kỹ viện, mướn một căn nhà nhỏ vùng phụ cận Hoành Dương sống âm thầm chờ Liễu Phú.

Liễu Phú đi tới nửa năm rồi mà chẳng có một tin tức nào cả, khiến Vương Âu Ngọc nóng ruột vô cùng. Các bạn của Ngọc cho rằng Liễu Phú là kẻ bạc tình, khuyên Ngọc nên phục xuất thi thố cái tài ca vũ thi từ. Ngọc cho rằng Liễu Phú nhất định không phải là con người phụ bạc.

Một năm trôi qua, vẫn biệt âm vô tín. Vương Ấu Ngọc cắt một lọn tóc bỏ vào phong thu, thuê người đi tìm Liễu Phú. Uu uất tương tự đã bắt đầu làm cho Ngọc trở nên tiều tụy. Phần Liễu Phú, chàng đâu có phải là kẻ vong tình. Khi vừa đặt chân tới Lạc Dương thì bị quan quân bắt bỏ ngục, hoàn toàn bị cắt đứt mọi liên lạc với bên ngoài.

Người của Ngọc cho biết chẳng tìm ra tung tích Liễu ở đâu. Chuyện tình đau khổ của Ngọc lan truyền khắp vùng Tương Giang.

Ai cũng cười Vương Ấu Ngọc là ngu dại. Đau khổ, Ngọc thành bệnh, tiền thì tiêu hết, bệnh không thuyên giảm.

Có nhiều phú thương nhờ mối lái muốn kết hôn với nàng nhưng nàng vẫn một mực cự tuyệt với ý nguyện chờ Liễu Phú đến hơi thở cuối cùng.

Hết tiền, Vương Âu Ngọc đành phải ôm đàn ra đầu đường, đầu chợ đứng ca để kiếm ăn độ nhật..

Giữa lúc ấy thì tin tức Liễu Phú đến với nàng, đó là một bài thơ từ phú viết từ trong ngục gửi ra như sau: “Nhân gian tối khổ, tối khổ thị phân ly. Quân ái ngã, ngã ái quân, thanh thảo ngạn đầu nhân độc lập Họa thuyền đông khứ lỗ thanh trì Sở thiên đe, hồi vọng xứ lưỡng yy.

Hậu hội dã tri câu hũ nguyện, vị trí hà nhật thị giai kỳ, tâm hạ sự, loạn như tì, hảo thiên long da hoàn hư quá, Cô phụ ngã, lưỡng tâm tri nguyện quân gia, ai trường tại, nhất song phi”.

 Nghĩa là:

“Điều khổ nhất nhân gian là cảnh phân ly

Tôi yêu em, em yêu tôi, ngọn cỏ xanh mướt đầu sống một mình đứng ngóng trông con thuyền lặng lẽ xuôi về bên đông, tiếng bởi chèo chầm chậm.

Trời nước Sở nặng u buồn, người đứng vọng phía xa lòng cô tịch.

Ngày gặp nhau chúng ta sẽ hiểu, nhưng bao giờ chúng ta mới được hội ngộ, tâm sự rối bòng bong, hôm nay đêm mai trôi mãi. Dù em có phụ tôi thì tâm hồn tôi vẫn nguyện được cùng em như chim liền cánh”.

Vương Ấu Ngọc đọc thuộc bài từ, biết người yêu còn nhớ đến mình, sung sướng hôm ấy nàng cất tiếng ca âm thanh thống thiết, ai nghe cũng rơi lệ.

Nửa tháng sau, Vương Ấu Ngọc chết, trong cây đàn người ta tìm thấy bài từ ai oán kia.

Tin Vương Ấu Ngọc chất làm cả thành Hoành Dương xôn xao, bạn bè cùng những người ái mộ nàng mỗi người quyên góp ít tiền xây cho Ấu Ngọc một ngôi mộ tuyệt đẹp với tấm bia đề: “Liễu thị phu nhân chi mộ”.

Tại sao kết quả cuộc đời của Ngọc như vậy?

Trong sử của Tướng Mệnh học Có ghi lý do với mấy chữ “Dữ Mai Phi đồng cách, Ấu Ngọ mãn diện sầu dung.

Cũng như Mai Phi ngày xưa, nàng Vương Ấu Ngọc có tướng mãn diện sầu dung, đầy mặt là vẻ buồn).

Mãn diện sầu dung là tướng ly phu. Theo tướng lý, nét mặt người đàn bà nên lấy vui mãn diện tiêu dùng làm thiện tướng. Dù cho bộ vị CÓ khuyết hãm chăng nữa, nếu được cách mãn diện tiếu dung cũng vớt vát lại được nhiều phần. Xin đừng lầm vẻ mãn diện tiếu dung với vẻ lả lơi chợt nhả. Mai Phi là ai? Là một sủng phi của vua Đường Minh Hoàng, vua say mê nàng vì đôi mắt thật buồn, đến khi Dương Quý Phi nhập cung thì Mai Phi thất sủng bị giam vào lãnh cung.

Những câu thơ câu phú về tướng khắc phụ

Xem tướng muốn cho tinh tương không bỏ sót thì phải thuộc kỹ những câu thơ nhất là phú của tiền nhân đã vần điệu hóa các định lý tướng cách để người học dễ nhớ.

– Phu nhân tu yêu phụ nhân hình

Hành bất ly hình xuất bản tình

Tuyệt khước bản hình đới nam tướng

Tuy giao khắc hại chủ định linh.

(Đàn bà phải có hình dáng đàn bà

Đi đứng tâm tính không được trái bản hình

Nếu đàn bà mang tướng nam nhân

Tất khắc hại chồng con và đời cơ cực).

– Phụ nhân nhãn hạ nhục thường khô

Bất sát tam phu sát nhị phu.

(Đàn bà khoảng dưới mắt da thịt khô xác ra

Thì chẳng ăn thịt ba chồng cũng ăn thịt hai).

– Nhược thị diện trường ngách hậu trường

Hình phu khắc tử quyết nam đương.

(Nếu mặt dài, trán cũng dài

Chuyện hình phu khắc tử khó tránh khỏi).

– Nhãn hạ hành văn chủ khắc phụ

Nhân trung hành lý tất vi nô.

– Son căn hắc tử nhân cô độc

Giá dữ nhi phu hữu nhược vô.

(Dưới mắt có vệt chạy ngang là khắc phụ

Nơi Nhân trung có vệt chạy ngang tướng hạ tiện.

Son căn có nốt ruồi thì cô độc

Có chống con mà cũng như không).

– Ty tử xích văn xâm tử khí

Hình phu vị liễu hựu hình nhi.

(Mũi thấy nhiều tia máu tụ lại làm sắc mũi đỏ tía

Vừa hại chồng chưa hết lại khắc con).

– Ngách hữu toàn mạo đa phương hại

Mi đầu bát tự lưỡng phân ly.

(Trán có lông măng mọc xoáy nước, chồng con khó bền

Mi đầu chúc vào nhau như chữ bát, vợ chồng chia lìa).

– Nhãn trường nhất từ bộ khuynh tà

Vô sự ưu dung khấn suyết ta

Kim nhật bản hoàn như mộng lý

Tha niên giá tại biệt nhân gia.

(Mắt dài chạy ngang như chữ nhất, đi đúng lệch vẹo

Không có chuyện gì mà mặt cứ buồn so

Cái gì hôm nay nên coi như giấc mộng

Ngày mai sẽ đi lấy chồng khác).

– Nhũ tiểu thể phì, hình khắc bất liễu.

(Vú nhỏ, người mập là tương khắc phu).

– Thân hàn nhãn đại, khắp thế vô kỳ.

(Người gầy khẳng khiu mà mắt thật to là tướng khóc chồng).

– Nữ nhân nhĩ phản chủ hình phu.

(Tai loan, quách nhô ra khỏi thành tại là khắc phu).

– Nữ nhân nhãn ác giá tức hình phu.

(Đàn bà mắt dữ tợn, lấy chồng là khắc).

– Nữ nhân ngách cao, tam gia bất lao

Đầu hoành, văn lý, tam gia bất dĩ

Nữ tử nghịch mi, tam gia bất dĩ.

(Đàn bà trán quá cao, lấy ba lần chồng chưa mệt

Trên đầu có nhiều vết (văn) ngang, lấy ba chồng chưa hết

Đàn bà lông mày mọc ngược, lấy ba chồng chưa đủ).

– Hùng thanh cách đới nam chi diện Thở bối hùng hào sát trượng phu.

(Tiếng đục như tiếng đàn ông, mặt đanh như nam tử

Là loại đàn bà nổi danh sát phu).

– Nhãn hạ lạ văn hoàn túc trái

Lưỡng đô hình phu tam độ hôn.

(Dưới con mắt có vết ngang dọc như lưới, hãy trả nợ kiếp trước

Hai lần hại chồng hoặc ba lần kết hôn).

Như vậy, người phụ nữ khắc phu hay sát phu thường có những nét tưởng như sau:

Tướng khắc phụ

1. Đầu tròn như quả cầu lớn, trán rộng lưng dầy, tai phản, môi đỏ, tinh thần sáng suốt, khắc một đời chồng, phá gia một lần rồi sau mới có y lộc.

2. Tóc cũng như rễ tre hoặc trơ trẽn không có sinh khí.

3. Mặt dài mà trán cũng dài, mày thô miệng rộng, tính nóng nảy.

4. Trán vuông hoặc trán cao, lệch, hai phần Nhật giác và Nguyệt giác nổi cao và hướng lên hoặc trán hẹp nhọn hoặc trán có vết sẹo hoặc vằn trán lộn xộn ngay từ thời niên thiếu, hoặc trán lồi Cổ ngắn, hoặc trán cao mặt hãm.

5. Mày thô, mày lớn cao và đậm hoặc chân mày thưa, lông mày ngắn và vàng.

6. Chân mày thưa và có vẻ như co rút lại, đầu mày và thân mày bằng nhau thay vì phần thân gần đuôi mày phải lớn.

7. Ấn đường có một lằn sâu Có một lằn sâu chạy dài lên trán.

8. Mắt nhỏ và dài mà lồi.

9. Mắt đỏ ngầu hay vàng ệch là nhà nghèo mạt khắc chồng con, lưu lạc tha phương, có thể chết vì tự ái, tự trầm hoặc vi sinh đẻ khó.

10. Sơn căn có nốt ruồi.

11. Lệ đường có khí sắc xanh dù không bệnh tật. Dưới mắt thịt tiêu khô hoặc có vết nhăn (phụ nữ trẻ và trung niên).

12. Hai mép miệng và hai pháp lệnh đều có nốt ruồi.

13. Cổ ngắn, tóc rậm, xương lưng xương sườn lộ, chưa ra khỏi khuê phòng đã khắc phu.

14. Sắc da mặt thô xạm như màu đất.

15. Phụ nữ có dáng đàn ông, xương cốt thô, tỉnh lạnh lùng cứng rắn là tướng khắc chồng, không con cái.

Tướng sát phu

  1. Giọng nói như tiếng của đàn ông, hoặc oang oang như sấm động, hoặc âm thanh chói tai.

2. ương lộ thô, Lưỡng quyền cao. Mặt lớn chiều ngang mà lại có tiếng nói chát chúa như tiếng kim khí và chạm nhau khiến người nghe khó chịu.

3. Mũi hếch và thấp, mắt tam hoặc tứ bạch hoặc hình tam giác và lộ ánh mắt dữ dằn là tướng đại hình khắc và yểu.

4. Đầu to trán lớn, mặt xấu, xương gò má vừa thô vừa lộ, nổi cao và nhọn như chỏm núi.

5. Bộ vị Niên thượng, Thọ thượng trên sống mũi nổi gân máu.

6. Mũi hếch, tại khuyết hãm, chân mày thô và mắt có tia máu chạy từ trong trắng ăn lan qua tròng đen đến con người (thuật ngữ tướng học gọi là “xích mạch xâm dòng”).

7. Đầu mũi nhọn, trán lệch, môi cong, xương lộ, răng lộ, hầu lộ, tóc khô cháy, long cung khuyết hãm là tướng phá bại mọi nhà, khắc sát chồng.

8. Mắt có sát khí hoặc mắt lớn mà lồi (không phải do bệnh).

9. Môi mỏng, mắt đỏ đục, đầu ít tóc, thân nhỏ, chân tay lớn, tinh thần sát phạt là tướng ở nhà làm hại cha, xuất giá sát phu, Cô độc một đời.

10. Thân thể đẫy đà trông oai vệ, trán có vệt ngang, tiếng nói đàn ông là tướng sát nhiều chồng.

11. Chân thẳng đuột, khẳng khiu.

Sự khắc sát còn tùy thuộc vào vận thế bản thân người chồng, nếu các bộ vị hình tướng, tâm tướng của người chồng tốt đẹp nhất là cung Thê Thiếp trên khuôn mặt hoặc trong lá số Tử Vi tốt thì mức độ khắc sát giảm rất nhiều.

Từ khóa » Hình Thê Khắc Tử Là Gì