V. Cách Giải Quẻ Bói - Văn Học - Phước Quế Thư Quán

Kinh dịch
  • Lời nói đầu
  • Phần một: Đại cương về kinh dịch
    • I. Nguồn gốc Kinh Dịch
    • II. Tượng trưng những yếu tố vô hình bằng những dấu hiệu hữu hình
    • III. Xếp đặt thứ tự các quẻ
    • IV. Cách bói các quẻ
    • V. Cách giải quẻ bói
    • VI. Triết lý Kinh Dịch
  • Phần hai: Sáu mươi tư quẻ
    • I. Bát thuần càn
    • II. Bát thuần khôn
    • III. Thủy lôi truân
    • IV. Sơn thủy mông
    • V. Thủy thiên nhu
    • VI. Thiên thủy tụng
    • VII. Địa thủy sư
    • VIII. Thủy địa tỷ
    • IX. Phong thiên tiểu súc
    • X. Thiên trạch lý
    • XI. Địa thiên thái
    • XII. Thiên địa bĩ
    • XIII. Thiên hỏa đồng nhân
    • XIV. Hỏa thiên đại hữu
    • XV. Địa sơn khiêm
    • XVI. Lôi địa dự
    • XVII. Trạch lôi tùy
    • XVIII. Sơn phong cổ
    • XIX. Địa trạch lâm
    • XX. Phong địa quán
    • XXI. Hỏa lôi phệ hạp
    • XXII. Sơn hỏa bí
    • XXIII. Sơn địa bác
    • XXIV. Địa lôi phục
    • XXV. Thiên lôi vô vọng
    • XXVI. Sơn thiên đại súc
    • XXVII. Sơn lôi di
    • XXVIII. Trạch phong đại quá
    • XXIX. Bát thuần khảm
    • XXX. Bát thuần li
    • XXXI. Trạch sơn hàm
    • XXXII. Lôi phong hằng
    • XXXIII. Thiên sơn độn
    • XXXIV. Lôi thiên đại tráng
    • XXXV. Hỏa địa tấn
    • XXXVI. Địa hỏa minh di
    • XXXVII. Phong hỏa gia nhân
    • XXXVIII. Hỏa trạch khuê
    • XXXIX. Thủy sơn kiên
    • XL. Lôi thủy giải
    • XLI. Sơn trạch tổn
    • XLII. Phong lôi ích
    • XLIII. Trạch thiên quải
    • XLIV. Thiên phong cấu
    • XLV. Trạch địa tụy
    • XLVI. Địa phong thăng
    • XLVII. Trạch thủy khốn
    • XLVIII. Thủy phong tỉnh
    • IL. Trạch hỏa cách
    • L. Hỏa phong đỉnh
    • LI. Bát thuần chấn
    • LII. Bát thuần cấn
    • LIII. Phong sơn tiệm
    • LIV. Lôi trạch qui muội
    • LV. Lôi hỏa phong
    • LVI. Hỏa sơn lữ
    • LVII. Bát thuần tốn
    • LVIII. Bát thuần đoài
    • LIX. Phong thủy hoán
    • LX. Thủy trạch tiết
    • LXI. Phong trạch trung phu
    • LXII. Lôi sơn tiểu quá
    • LXIII. Thủy hỏa ký tế
    • LXIV. Hỏa thủy vị tế
  • Phục lục

A - Về Toàn Thể.

I - Như chúng tôi đã trình bầy trong Lời Nói Đầu, khi đọc các tác phẩm khảo cứu về kinh Dịch, chúng tôi thấy nẩy ra một số thắc mắc không được giải quyết. Những thắc mắc đó phần nhiều thuộc về cách giải quẻ bói.

 

1) Trước hết, hình như trong một cái nhìn trực giác kỳ diệu, cổ thánh hiền thấy rõ ý nghĩa thâm trầm của mỗi quẻ hướng diễn tiến của nó mà không cần giải thích tại sao.

 

Cụ Phan nhiều khi đã cắt nghĩa cái nhìn trực giác đó bằng lý luận, nhưng cũng nhiều khi không. Chúng tôi sẽ cố gắng, khi có thể được, bổ khuyết sự thiếu sót của cụ Phan. Đó không phải là một thái độ bất kính mà chỉ là một cố gắng học đòi đi theo con đường sáng mà bậc tiền bối đã vạch ra.

 

2) Thứ hai, để trình bày cái nhìn trực giác, cổ thánh hiền đặt tên cho các quẻ, như quẻ Tụng số 6 có nghĩa là kiện cáo, quẻ Sư số 7 có nghĩa là đem quân đi đánh giặc, hoặc quẻTỉnh số 48 có nghĩa là cái giếng, quẻ Đỉnh số 50 có nghĩa là cái lư hương hoặc cái nồi nấu cơm, v. v . Và lời giải thích cổ điển về toàn quẻ và từng hào bám sát vào tên quẻ. Do đó có thắc mắc: Giả thử một người đang thất nghiệp muốn bói xem có nên đi xin việc ở hãng X không, mà bói được quẻ Sư, chẳng hoá trật quẻ sao? Vì đi xin việc làm có dính dáng gì đến việc mang quân đi đánh giặc đâu? Bởi vậy chúng tôi nghĩ rằng không nên bám sát vào tên quẻ để đoán quẻ, mà chỉ nên tìm trong mỗi quẻ những sức huyền bí nào đang chi phối vấn đề đang bói. Ví dụ quẻ Địa Thủy Sư có sức chịu đựng, nhẫn nại của KHÔN và sức quả cảm dũng dược của KHẢM, và vì Khảm ở hạ quái nên có khí thế xông lên, hướng dẫn quần chúng KHÔN theo mình làm một công việc gì. Đó là ý chính bàng bạc trong quẻ Sư, và nó có thể áp dụng cho bất cứ vấn đề nào đang bói, dù là đi xin việc làm, hôn nhân, kiện cáo, giáo dục, ngoại giao, v . v . chứ không riêng gì việc đem quân đi đánh giặc.

 

Nói như thế không có nghĩa là chúng tôi phủ nhận lời giải của cổ thánh hiền mà chỉ có nghĩa là: 

 

a) Cố gắng giải thích cái nhìn kỳ diệu đó bằng lý luận thông thường theo những nguyên lý kinh Dịch, tức là ảnh hưởng tương quan của các sức mạnh huyền bí (được tượng trưng bằng các quái) đang chi phối quẻ đó.

 

b) Các sức huyền bí đã được vạch rõ để đi tới một kết luận tương đương với cái nhìn trực giác kỳ diệu của cổ thánh hiền, thì bất cứ quẻ nào bói được trong 64 quẻ cũng có thể dùng để tiên đoán về bất cứ vấn đề nào mình đang bói.

 

II. Mỗi quẻ 6 hào gồm có hai quẻ 3 hào, một cái ở trên gọi là thượng quái hay ngoại quái, một cái ở dưới gọi là hạ quái hay nội quái. Trước hết, ta xem mỗi quái đó có khuynh hướng âm hoặc dương, được tượng hình bằng vật gì và có ý nghĩa nào về ngũ hành, phương hướng, tính chất, địa vị trong gia đình của người bói quẻ hoặc người đối tượng của quẻ bói, v . v .

 

a) Riêng về khuynh hướng âm dương, xin nói rõ nghĩa. Nói chung, những quẻ dương là Càn, Chấn, Khảm, Cấn, thường có ý nghĩa là đạo xử thế của người trên, cương quyết:

 

Càn biểu hiệu cho sức mạnh sáng tác, chỉ huy.

Chấn biểu hiệu cho sức mạnh vùng vẫy.

Khảm biểu hiệu cho những khó khăn sẽ gặp và tinh thần mạo hiểm.

Cấn biểu hiệu cho sức mạnh cần thiết để chống lại trào lưu, hoặc để tự kiềm chế.

 

Còn những quẻ âm là Đoài, Li, Tốn, Khôn, thường có nghĩa là đạo xử thế của người dưới, nhẫn nhục:

 

Khôn biểu hiệu cho đức tính thuận tùng, nuôi dưỡng.

Tốn biểu hiệu cho đức tính khiêm nhường.

Li biểu hiệu cho đức tính văn minh, sáng sủa .

Đoài biểu hiệu cho đức tính vui vẻ, hòa duyệt.

 

Phân biệt tính chất âm dương như vừa trình bầy không có nghĩa là dương tốt, âm xấu. Ví dụ tính cương quyết là tốt ở người cha, ở người đại tướng, nhưng lại xấu ở người vợ, người lính. Mỗi vật, mỗi người ở trong khoảng trời đất đều có cái đạo tự nhiên của nó. Hòn đá cầm trong tay mà buông ra là rơi xuống đất : rơi xuống là đạo của hòn đá. Ngọn lửa thì phải xông lên trên: lên trên là đạo của lửa. Con hổ phải ăn thịt dã thú để sống: giết hại dã thú là đạo của con hổ. Con trâu ăn cỏ để sống: ăn cỏ là đạo của con trâu. Ta không thể nói là cái đạo của ngọn lửa tốt hơn cái đạo của hòn đá, hoặc cái đạo của con trâu tốt hơn cái đạo của con hổ.

 

b) Mỗi quẻ ba hào được tượng hình bằng một vật: Càn là trời, Khôn là đất, Đoài là nước im lìm ở các hồ ao, Khảm là nước chẩy cuồn cuộn ở các sông ngòi, v . v . Từ những hình tượng đó ta có thể rút ra những ý nghĩa khác nhau mà nó bao hàm. Ví dụ Càn chỉ phương Nam vì mặt trời ở phương nam lúc giữa trưa; Càn chỉ sức mạnh chỉ huy vì trời ở trên cao, bao trùm muôn vật; Càn chỉ người cha vì người cha là chủ gia đình, v . v .

 

Giải quẻ có hai lối:

1) Theo tượng quẻ

2) Theo đức quẻ

 

III - Sau khi đã nhận định rõ tính chất của hai quái thượng hạ, ta mới tìm hiểu ý nghĩa của quẻ. Và tùy quẻ ta có thể áp dụng một trong những nguyên lý sau đây:

 

1) Nếu hai quái thượng hạ trùng nhau, trên dưới như nhau, thì là 8 quẻ Bát Thuần Càn, Bát Thuần Khôn, Bát Thuần Li, v . v . Trường hợp này rất giản dị, chỉ là tăng cường tính chất chung của hai quái kết hợp. Ví dụ Càn đã là cương cường, thì Bát Thuần Càn là cương cường tột độ; Khảm là nguy hiểm, thì Bát Thuần Khảm là nguy hiểm cực độ, v . v .

 

2) Một trường hợp cũng dễ nhận xét là ở dưới có toàn hào dương, còn ở trên thì toàn hào âm, như vậy là chính đạo xua lên đuổi tà đạo: tốt. Ví dụ quẻ Phục số 24 ở dưới có một hào dương, quẻ Lâm số 19 có hai dương, quẻ Thái số 11 có 3 dương, quẻ Đại Tráng số 34 có 4 dương, quẻ Quải số 43 có 5 dương, xua đuổi những hào âm ở trên.

 

Và trái lại, nếu ở dưới toàn hào âm, còn ở trên toàn hào dương, tức là tà đạo xông lên đuổi chính đạo: xấu. Cũng có 5 quẻ thuộc trường hợp này.

 

3) Nếu trong một quẻ mà chỉ có một hào dương còn các hào khác đều âm, hoặc ngược lại chỉ có một hào âm còn những hào khác đều dương, thì hào duy nhất đó là chủ quẻ, và ảnh hưởng lớn đến ý nghĩa của quẻ. Tốt hay xấu sẽ tùy hào duy nhất đó chính hay bất chính, đắc trung hay bất trung. Đó là trường hợp của những quẻ 7, 8, 9, 10, 13, 14, 15, 16, 23, 24, 43, 44. Nhưng bốn quẻ Bác số 23, Phục số 24, Quải số 43 và Cấn số 44 đã tùy thuộc nguyên lý 2 rồi, chỉ còn 8 quẻ tùy thuộc nguyên lý 3. Vậy trừ 8+10+8 là 26 quẻ thuộc ba nguyên lý 1, 2, 3 dễ nhận xét ý nghĩa, còn lại 38 quẻ khó nhận xét hơn, nhưng ta có thể tìm hiểu bằng cách nghiên cứu sự tương quan giữa hạ quái và thượng quái như thế nào. Đại để:

4) Hạ quái là cái đương tiến, sắp được thành trụ, còn thượng quái là cái đang lui, sắp bị tiêu vong. Nguyên lý 2 trình bày ở trên chỉ là một trường hợp đặc biệt của nguyên lý chung này. Ví dụ quẻ Sơn Hỏa Bí số 22 và quẻ Hỏa Sơn Lữ số 56 đều hợp bởi hai quái Cấn và Li, nhưng ở quẻ Bí thì Li ở dưới, và ở quẻ Lữ thì Cấn phải ở dưới. Nghĩa là ở quẻ Bí cái sẽ thắng lợi là Li, là ánh sáng, đối phó và đuổi lui sức mạnh kìm hãm của Cấn, khiến cho xã hội được một chút tô điểm văn minh nghệ thuật. Trái lại ở quẻ Lữ cái sẽ thắng là Cấn, là sức mạnh kìm hãm, đàn áp mọi nghệ thuật văn minh, khiến cho những bậc trí thức phải bỏ nhà ra đi, Lữ.

 

5) Khi quẻ tượng trưng cho một vận hội nào đó, thì tình trạng của vận hội nào đó tiến từ dưới lên trên, từ hạ quái đến thượng quái. Nguyên lý này hình như trùng với nguyên lý 4, nhưng thực ra có khác. Ở đây không phải là sức mạnh hạ quái thắng sức mạnh của thượng quái, mà là tình trạng của quẻ (do cả hai quái tạo ra) tiến theo thời gian từ lúc khởi đầu cho đến lúc kết liễu. Ví dụ quẻ Thủy Hỏa Ký Tế số 63 là thời kỳ đã thành công, quẻ Hỏa Thủy Vị Tế số 64 là thời kỳ chưa thành công, đều hợp bởi hai quái Khảm và Li. Ở quẻ 63, tình trạng tốt đẹp thành công lúc ban đầu ở hạ quái, và dần dần sẽ suy sụp khi kết liễu ở thượng quái. Trái lại tình trạng xấu không thành công lúc ban đầu sẽ dần dần sáng sủa lúc kết liễu. Phải giải thích như vậy, chứ ta không thể nói rằng ở quẻ 63 lửa thắng nước, và ở quẻ 64 nước thắng lửa.

 

6) Cũng có khi ta phải xem xét hai quái tượng trưng cho những đức tính nào, chúng có thể hòa hợp với nhau được không, nếu được thì tốt, trái lại là xấu. Ví dụ:

 - Quẻ Thủy Lôi Truân số 3, tượng hình bằng ngoại Khảm (hiểm), nội Chấn (động), có thể giải thích rằng quẻ này ứng vào một tình thế hiểm nguy ở ngoài, lại bị rối loạn ở trong quấy phá.

 - Quẻ Thiên Trạch Lý số 10, trên Càn dương dưới Đoài âm, cương cường ở trên, vui thuận dưới, như vậy là hợp với lẽ tự nhiên, hợp với Lễ: tốt.

 - Quẻ Hỏa Thiên Đại Hữu số 14, trên Li (lửa) dưới Càn (trời), có nghĩa là lửa trên trời, tượng trưng cho một ánh sáng, một đức độ chiếu xa khắp mọi nơi, mọi vật. 

7) Cuối cùng, ta lại còn nhận thấy rằng một quẻ có ý nghĩa cho là xấu, nhưng nếu nó được hai hào đắc trung là Nhị, Ngũ chính ứng, nghĩa là Nhị âm Ngũ dương, thì quẻ đó không hẳn là xấu đâu, còn có chỗ khả thủ. Ví dụ quẻ Thủy Sơn Kiển số 39 rõ ràng là điềm xấu, nhưng vì có hào Lục Nhị và Cửu Ngũ chính ứng, nên được Soán từ phê: “Lợi kiến đại nhân, trinh, cát”

B - Về Các Hào

1. Các hào nói chung là cái gì?

a) Một là chỉ tình trạng của vấn đề bói diễn tiến với thời gian như thế nào, từ lúc khởi thủy, trưởng thành, rồi đến độ cùng cực tàn tạ. Vì cổ thánh hiền đã tượng hình mỗi quẻ bằng một vật như cái giếng, cái đỉnh, hoặc một vấn đề nào đó như kiện tụng, chiến tranh,v . v ., nên lời giải thích các hào cũng mô tả quá trình diễn tiến của vật đó hoặc của vấn đề đó một cách sát nút.

Chúng tôi cũng nhận định rằng các hào, từ Sơ đến Thượng, chi-tiết-hóa quá trình diễn tiến của vấn đề đang bói, nhưng chúng tôi không quá lệ thuộc vào vật hay vấn đề tượng trưng cho quẻ bói. Nói một cách khác, chúng tôi sẽ mở rộng quá trình diễn tiến không nhất luật cho mọi vấn đề, hôn nhân cũng như giáo dục, đoàn kết cũng như chiến tranh. Mỗi quẻ bị chi phối bởi những sức mạnh siêu hình riêng biệt cho nó, hoạt động theo một kiểu đặc thù chứ không nhất luật cho tất cả các quẻ. Bởi vậy, với quẻ này sự diễn tiến có thể sẽ đều đặn, không chút vấp váp; trái lại với quẻ kia, nó có thể sẽ qua nhiều bước nhiêu khê, khi tiến khi lùi.

 

b) Quẻ cũng có thể có nhiều đáp số khác nhau tùy theo người bói quẻ, là một người ở địa vị thấp kém, tài nhỏ, hay là ở địa vị cao sang, có tài lớn, quyền hành rộng. Và đây theo cổ nhân:

- hào Sơ chỉ người dân thường, tiểu nhân;

- hào Nhị chỉ bậc lại, tổng lý;

- hào Tam chỉ bậc quan, hàng phủ huyện;

- hào Tứ chỉ bậc đại thần gần cận vua;

- hào Ngũ chỉ vị chí tôn, hoàng đế;

- hào Thượng chỉ bậc quân tử hoặc quyền thế lớn.

 

Vậy người bói phải thành thực nhận định việc bói đang ở giai đoạn nào ( tức là hào Sơ, hoặc các hào giữa, hoặc các hào Thượng). Và cũng phải thành thực nhận định mình là hạng người nào, nhu hòa thì là hào âm, cương cường thì là hào dương, có địa vị thấp thì là ở các hào dưới, có địa vị cao là ở hào trên. Có sách còn máy móc giải thích phân vân đó mà nói rằng hào biến chính là hào thích ứng với người bói quẻ.

 

2) Mỗi hào phải giải thích theo những nguyên lý nào?

a) Nói về bản chất thì một hào có thể là dương ( còn gọi là Cửu), hoặc là âm (còn gọi là Lục). Dương thì cứng, sáng, Âm thì mềm, tối, v . v .

b) Nói về vị trí thì những hào Sơ, Tam, Ngũ hợp với dương, còn những hào Nhị, Tứ, Thượng thì hợp với âm. Như vậy một hào bản chất là dương có khi cư dương vị (Sơ, Tam, Ngũ), tức là đắc chính. Trái lại, nếu nó ở vị trí âm (Nhị, Tứ, Thượng), tức là bất chính. Cũng vậy, một hào bản chất âm mà cư dương vị là bất chính, và cư âm vị là đắc chính.

Đắc chính là tính nết hoặc tài đức xứng đáng với địa vị của mình trong xã hội, hoặc thích hợp với hoàn cảnh của quẻ đó. Bất chính thì trái lại. Nhưng không phải bao giờ đắc chính cũng là tốt, và bất chính cũng là xấu. Có thể ở một thời kỳ nào đó, trùng dương (dương hào cư dương vị) lại là quá cương, và trùng âm (âm hào cư âm vị) lại là quá nhu nhược, đều làm hỏng việc. Trái lại, dương hào cư âm vị hoặc âm hào cư dương vị lại có khi tốt trong vài hoàn cảnh đòi hỏi cương nhu hỗ trợ nhau, bổ khuyết cho nhau.

c) Về vị trí còn phải nói thêm rằng hào Nhị ở giữa hạ quái và hào Ngũ ở giữa thượng quái đều là đắc trung, giữ địa vị tôn quí, còn những hào Sơ, Tam Tứ, Thượng đều là bất trung. Chữ trung ở đây không có nghĩa là trung thành (fidèle) như trong danh từ trung thần, mà có nghĩa là trung dung (juste milieu), không thái quá cũng không bất cập. Đắc trung mà bất chính còn tốt hơn là đắc chính mà bất trung, vì một người biết xử sự trung dung thường biết tự kiềm chế mình, không quá cương cường (nếu cư Ngũ) hoặc không quá nhu nhược (nếu cư nhị).

d) Nói về sự tương ứng giữa các hào, thì những cập Sơ-Tứ, Nhị-Ngũ, Tam-Thượng, thường có liên hệ với nhau. Nhưng phải một âm một dương thì mới có sự tương ứng (như điện âm điện dương thu hút nhau), nếu cả hai đều âm hoặc đều dương thì không có sự tương ứng. Ở đây ta lại phải cảm phục kinh Dịch đã khám phá ra sự tương ứng đó, trái với thường tình cho rằng ‘đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu’. Ví dụ trong một cuộc hợp tấu âm nhạc, phải có tiếng trầm tiếng bổng xen lẫn vào nhau thì mới hay. Lại ví dụ nữa, hai anh hùng mới biết trọng nhau, nhưng một người phải ở địa vị quân vương, người kia phải ở địa vị thần hạ như Lưu Bị và Quan Công thì mới hợp tác với nhau được. Còn nếu cả hai đều ở địa vị quân vương như Tào Tháo và Lưu Bị, thì phải đi đến chỗ đổ vỡ, không thể hợp tác với nhau lâu dài được.

Ngoài ra, hai hào trong mỗi quái thượng hoặc hạ, tuy không chính ứng với nhau nhưng vì gần nhau nên cũng có khi ảnh hưởng lẫn nhau. Tức là hào Sơ-Nhị, Tam-tứ, Ngũ-Thượng.

3) Chính vì ý nghĩa các hào thay đổi từ hào Sơ đến hàoThượng, nghĩa là tùy theo giai đoạn diễn tiến của vấn đề đang bói hoặc tài đức của người bói quẻ, mà chúng tôi nghĩ rằng cái quan trọng của kinh Dịch là ở lời giải thích các hào : Trước bất cứ vấn đề nào (giáo dục, hôn nhân, kinh tế, ngoại giao, chiến tranh, v . v .) và trong bất cứ hoàn cảnh nào (yếu kém hay hùng cường, chống đối hay hoà thuận, thái bình hay loạn lạc, v . v .), kinh dịch luôn luôn dạy ta học xử thế thích hợp với hoàn cảnh đó, để đối phó với nó.

C - Ta Có Nên Tuân Theo Sự Chỉ Dẫn Của Quẻ Bói Không ?

Nếu khi bói mà thiếu trang nghiêm thành khẩn, thì lẽ tự nhiên sẽ lãng quẻ. Dưới đây giả thử rằng quẻ bói đã cử hành rất trang nghiêm thành khẩn. Ta có thể đứng trước một trong ba trường hợp:

1) Câu trả lời của quẻ hình như không ăn nhập gì với câu hỏi. Chớ vội cho là lãng quẻ, vì ý nghĩa của quẻ thường xâu xa, kín đáo, nói với tiềm thức hơn là với trí thức của ta, nên ta chưa hiểu. Nhưng rồi một ngày nào đó, ta sẽ bừng hiểu (cũng như các câu sấm).

2) Câu trả lời xấu, bảo ta rằng nếu ta tiến hành việc dự định thì sẽ thất bại. Nhưng vì có nhiều lý do thuận tiện, ta cho rằng quẻ đã bảo sai, cứ làm thế nào cũng thành công. Tuy nhiên, cũng nên cẩn thận, vì tương lai có nhiều bất ngờ, cái mà ta tưởng ngày nay là thuận tiện, có thể ngày mai sẽ bất lợi. Sự đó, quẻ bói trông thấy mà ta không trông thấy. Ví dụ ta hỏi: có nên hợp tác với ông X không trong một việc làm ăn có lời lớn, như đấu thầu, xuất nhập cảng. Quẻ trả lời: không nên. Nhưng vì ta thấy ông X đang làm ăn thịnh vượng, ta cứ hợp tác. Nhưng chẳng bao lâu ông làm việc phi pháp, rồi ta cũng bị liên can vào.

3) Câu trả lời tốt. Ta cứ vững tin mà tiến hành công việc dự định.

Từ khóa » Các Quẻ Bói