Vai Trò Của Thành Phần Kinh Tế Nhà Nước Trong Nền Kinh Tế Thị Trường ...

Sự nhất quán của Đảng ta về vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước

Bước vào thời kỳ đổi mới, Đại hội VI (năm 1986), Đảng ta bắt đầu thừa nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế, trong đó khẳng định vai trò chủ đạo thuộc về khu vực kinh tế nhà nước (thời điểm đó gọi là kinh tế quốc doanh). Đảng chỉ đạo: “Củng cố thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm cả kinh tế quốc doanh và khu vực tập thể một cách toàn diện… làm cho thành phần kinh tế này giữ vai trò chi phối trong nền kinh tế quốc dân… Bằng những biện pháp thích hợp, sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác trong sự liên kết chặt chẽ và dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa”1.

Đại hội VII (năm 1991), Đảng ta chủ trương củng cố vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước (KTNN): “Khẩn trương sắp xếp lại và đổi mới quản lý kinh tế quốc doanh, bảo đảm kinh tế quốc doanh phát triển có hiệu quả, nắm vững những lĩnh vực và ngành then chốt để phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Tập trung lực lượng củng cố và phát triển những cơ sở kinh tế trọng điểm, những cơ sở làm ăn có hiệu quả và có ý nghĩa lớn đối với nền kinh tế quốc dân”2.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) cũng khẳng định: “Phát triển một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và mở rộng…”3.

Tổng kết thực tiễn 10 năm đổi mới, để phù hợp với sự biến đổi của đời sống kinh tế - xã hội, Đại hội VIII của Đảng (năm 1996) lần đầu tiên trong lịch sử đã thay thế cụm từ kinh tế quốc doanh bằng cụm từ kinh tế nhà nước: "Chủ động đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác. Kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế hợp tác xã dần dần trở thành nền tảng…"4. Cũng từ đây, nội hàm của khái niệm KTNN được mở rộng hơn, bao quát được toàn bộ các hoạt động quản lý tài nguyên của đất nước; những cơ sở hạ tầng trọng điểm; các loại quỹ của quốc gia; bộ phận doanh nghiệp nhà nước (DNNN), bao gồm cả doanh nghiệp công ích và doanh nghiệp kinh doanh…

Đại hội IX, X, XI cũng thống nhất: “KTNN giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. KTNN cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân…”5.

Về cơ bản nhất quán với các chủ trương trước đó, theo tinh thần Đại hội XII: "Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó KTNN giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật”6. Nếu ở Đại hội X, khu vực kinh tế tư nhân được đánh giá là “một trong những động lực” thì đến Đại hội XII, vai trò của khu vực kinh tế tư nhân đã được Đảng ta tiếp tục đánh giá cao hơn: kinh tế tư nhân là “một trong những động lực quan trọng”. Tuy vậy, vai trò chủ đạo vẫn thuộc khu vực KTNN.

Vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của đất nước, trải qua 6 kỳ Đại hội, Đảng ta đã khẳng định nhất quán kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó KTNN giữ vai trò chủ đạo. Điều đó xuất phát từ lợi ích của đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, là “hòn đá thử vàng” để xem xét sự đúng hướng hay chệch hướng xã hội chủ nghĩa trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội. Sau hơn 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, nền kinh tế nước ta tăng trưởng liên tục ở mức khá. Thành tựu đó trước hết là nhờ đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng.

Thực trạng vai trò của thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta

Văn kiện Đại hội VIII (năm 1996) chủ trương: “Tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước để làm tốt vai trò chủ đạo: làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội, mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển; làm lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô; tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới”.

Văn kiện Đại hội IX (năm 2001) khẳng định: Kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật.

Văn kiện Đại hội X (năm 2006) nhất quán: “Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển”…

Nhìn tổng quát từ sau Đại hội VIII đến nay, quan niệm của Đảng ta về KTNN và vai trò chủ đạo của thành phần KTNN trong nền kinh tế thị trường đã có sự phát triển đáng kể. Hai điểm nổi bật nhất là:

Một là, do có sự phân biệt giữa sở hữu nhà nước với hình thức DNNN và cũng do có sự phân biệt giữa quyền chủ sở hữu với quyền kinh doanh trong DNNN mà chúng ta đã chuyển từ khái niệm kinh tế quốc doanh sang khái niệm KTNN.

Hai là, để tránh sự nhầm lẫn trong nhận thức giữa vai trò chủ đạo của thành phần KTNN với vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước, Đảng ta đã khẳng định, thành phần KTNN không lãnh đạo các thành phần kinh tế khác mà “là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển”.

Như vậy về cơ bản, “vai trò chủ đạo” của KTNN thể hiện trên một số phương diện chủ yếu sau:

Thứ nhất, vai trò chủ đạo của khu vực KTNN được thể hiện ở trình độ công nghệ, trình độ quản lý, hiệu quả kinh tế - xã hội và năng lực cạnh tranh.

Thứ hai, KTNN đóng vai trò hàng đầu trong việc khắc phục, hạn chế những bất cập của cơ chế thị trường.

Thứ ba, KTNN độc quyền những lĩnh vực có quan hệ trực tiếp đến an ninh quốc gia.

Thứ tư, KTNN là “công cụ” để thúc đẩy các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân cùng phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Sau hơn 30 năm phát triển thành phần kinh tế nhà nước, trong đó có DNNN, nền kinh tế nước ta đã có những bước chuyển đáng kể. Hệ thống DNNN qua nhiều lần sắp xếp, chuyển đổi từng bước được củng cố và đóng góp vào thành tựu của quá trình đổi mới. Nhiều DNNN đứng vững trên thị trường, sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, nắm các ngành kinh tế then chốt, đóng góp lớn cho ngân sách. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng, còn nhiều nhiệm vụ nêu ra chưa được thực hiện hiệu quả. Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước chưa được phát huy một cách đầy đủ. Thực tế cho thấy, nhiều DNNN đã sử dụng chính sách "kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực", tham gia thành lập các ngân hàng, công ty tài chính, đầu tư bất động sản và chứng khoán, ít đầu tư vào lĩnh vực chính của mình. Trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu đã và đang là lực cản lớn đối với quá trình nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của DNNN; một số đơn vị hoạt động mang tính độc quyền còn cao, ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường; sử dụng vốn nhà nước nhiều nhưng hiệu quả chưa tương xứng, làm tăng nợ nhà nước; một bộ phận DNNN còn chưa gắn yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị - xã hội với hoạt động sản xuất, kinh doanh. Không chỉ làm ăn kém hiệu quả, bộ phận DNNN còn bị “tai tiếng” bởi những vụ án tham nhũng kinh tế lớn, phức tạp thời gian vừa qua.

Mặc dù đã khẳng định được vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế, đóng góp vào GDP ngày càng tăng, song năng lực nội tại của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân (KTTN) ở nước ta nhìn chung còn thấp, chủ yếu vẫn là kinh tế hộ, cá thể. Những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng GDP của khu vực KTTN có xu hướng giảm xuống, tỷ lệ doanh nghiệp phá sản, ngừng hoạt động giai đoạn 2007 - 2015 là 45-50% số doanh nghiệp mới thành lập. Khu vực KTTN (doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá thể, hộ gia đình) tạo ra việc làm cho khoảng 85% lực lượng lao động cả nước, trong đó chỉ tính riêng khu vực doanh nghiệp hằng năm tạo ra khoảng 1 đến 1,5 triệu việc làm mới. KTTN hoạt động đa dạng ở hầu hết các ngành nghề, nhưng cơ cấu ngành nghề còn chưa hợp lý: tập trung phần lớn trong các ngành nghề như thương mại và dịch vụ nhỏ, lẻ phục vụ người tiêu dùng (81%); phần còn lại khoảng 19% trong các lĩnh vực công nghiệp và xây dựng. Bên cạnh đó, hoạt động sản xuất tập trung chủ yếu ở khâu gia công lắp ráp, mang lại giá trị gia tăng thấp, doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN trong các lĩnh vực công nghiệp phụ trợ còn ít. Tỷ lệ doanh nghiệp thuộc khu vực này tham gia liên kết với các doanh nghiệp FDI cũng như chuỗi liên kết sản xuất còn rất khiêm tốn.

Tuy khuyến khích các thành phần kinh tế cùng phát triển, nhưng cần lưu ý rằng, ngay tại các quốc gia phát triển nhất, kết cấu hạ tầng cũng vẫn phải do nhà nước đảm nhận xây dựng và vận hành. Mặc dù doanh nghiệp nhà nước (bộ phận nòng cốt của KTNN) thời gian qua có những hạn chế, yếu kém, nhưng đó là những yếu kém trong khâu tổ chức, quản lý sản xuất, kinh doanh, là sai lầm và yếu kém của một số cá nhân lãnh đạo và nhà quản trị doanh nghiệp trong khâu tổ chức, quản lý sản xuất, kinh doanh, chứ không phải là sai lầm về quan điểm, chủ trương KTNN giữ vai trò chủ đạo.

Tại Hội nghị Trung ương 5, khóa XII, Đảng ta đã khẳng định: “KTTN chưa đáp ứng được vai trò là động lực quan trọng của nền kinh tế”. Xuất phát từ thực tế này, Đảng đã ban hành Nghị quyết: “Phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Nghị quyết là một bước tiến mới, nhằm thúc đẩy phát triển khu vực KTTN và toàn bộ nền kinh tế. Các nội dung của Nghị quyết góp phần khơi nguồn cho sự đổi mới, giải phóng sức sản xuất, sức sáng tạo và phát huy toàn diện vai trò KTTN trong mọi công đoạn của chuỗi giá trị sản xuất. Nghị quyết xác định: “Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển một nền kinh tế độc lập, tự chủ”7.

Với chủ trương, chính sách quyết liệt của Đảng và Nhà nước, tỷ trọng đóng góp vào GDP của khu vực KTTN được kỳ vọng sẽ tiếp tục gia tăng. Vai trò chủ đạo của khu vực KTNN trong thời gian tới sẽ ngày càng được tập trung vào các nội dung và mục tiêu: ngành, lĩnh vực then chốt, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng, điều tiết và ổn định kinh tế vĩ mô…

Ở trình độ phát triển chưa cao như nền kinh tế nước ta, Nhà nước đóng vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội. Nhà nước sử dụng các nguồn lực của mình, cùng các công cụ, chính sách để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất - kinh doanh, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.

Nhìn nhận ở góc độ kinh tế, KTNN dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất là phù hợp với xu hướng xã hội hóa lực lượng sản xuất ở nước ta. Dưới góc độ chính trị, KTNN được xem là một trong những “hòn đá thử vàng” để xem xét sự đúng hướng hay chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Về mặt xã hội, hoạt động kinh tế của Nhà nước cũng như của DNNN, luôn có 2 mục tiêu với 2 tính chất khác nhau, đó là mục tiêu kinh doanh thông thường như các doanh nghiệp khác và mục tiêu công ích. Tính chất đặc thù này tất yếu ảnh hưởng đến “thị phần GDP” của bộ phận doanh nghiệp thuộc khu vực KTNN.

Như vậy, xét trên cả khía cạnh kinh tế, chính trị và xã hội, có thể khẳng định rằng, KTNN vẫn là lực lượng vật chất quan trọng hàng đầu để Nhà nước định hướng, điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.

Một số giải pháp cơ bản để tiếp tục khẳng định và phát huy vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước

Một là, cần bổ sung và nhất quán quan điểm: “KTNN giữ vai trò chủ đạo” vào Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021 - 2030.

Hai là, đẩy mạnh quá trình tái cấu trúc DNNN, mà trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Cũng cần phân định rõ vai trò kinh tế của Nhà nước với vai trò của DNNN để không đồng nhất độc quyền của KTNN với độc quyền của DNNN. Trong cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, KTNN độc quyền là để có điều kiện định hướng nền kinh tế theo mục tiêu nhất định. Do vậy, nếu một DNNN nào đó được độc quyền thì hoạt động của nó phải hướng tới tính chất là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô vì mục tiêu chung.

Cũng cần tránh hai khuynh hướng sai lầm: hoặc coi nhẹ DNNN, muốn tư nhân hóa tràn lan; hoặc bảo thủ, muốn duy trì toàn bộ DNNN, không muốn tổ chức sắp xếp lại cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới. Việc giảm bớt số lượng DNNN không có nghĩa là giảm sức mạnh của khu vực KTNN mà là để tập trung nguồn lực cho những doanh nghiệp thực sự cần thiết cho quốc kế dân sinh, điều đó nhất định sẽ giúp nâng cao vai trò then chốt của DNNN trên nhiều mặt của đời sống kinh tế - xã hội, làm cho KTNN thật sự là chủ đạo, là lực lượng nòng cốt bảo đảm cân đối vĩ mô, tạo điều kiện ổn định kinh tế - xã hội trong quá trình đổi mới.

Ba là, đối với các bộ phận phi doanh nghiệp trong khu vực KTNN, phải được quản lý, sử dụng hợp lý để thực sự trở thành công cụ đắc lực cho Nhà nước trong việc định hướng, hỗ trợ, tạo môi trường phát triển cho tất cả các thành phần kinh tế, giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính theo hướng chuyên nghiệp hóa bộ máy nhà nước và tái cấu trúc đầu tư công cũng như sắp xếp lại hệ thống tài chính, tiền tệ.

Bốn là, quy định rõ tính chất kinh doanh và tính chất công ích của bộ phận DNNN trong từng điều kiện, hoàn cảnh để từ đó xây dựng cơ chế quản lý phù hợp, khắc phục sự không rõ ràng giữa nguồn vốn hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận với nguồn vốn hoạt động vì mục tiêu phi lợi nhuận.

Để nâng cao tính hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp nhà nước, xứng đáng là bộ khung trong hệ thống các doanh nghiệp của toàn bộ nền kinh tế, cần nâng cao tính hạch toán, tính chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.

Năm là, khẳng định KTNN giữ vai trò chủ đạo không có nghĩa là phân biệt, đối xử hay hạn chế các thành phần kinh tế khác, mà phải hoàn thiện cơ sở pháp lý để tất cả các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân được tiến hành sản xuất kinh doanh bình đẳng.

Giữa KTNN và các thành phần kinh tế khác có mối quan hệ hữu cơ trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Các thành phần kinh tế ngoài nhà nước càng phát triển thì đóng góp vào ngân sách càng lớn, tức là làm cho bộ phận phi doanh nghiệp của KTNN phát triển. Với vai trò chủ đạo là thúc đẩy các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, sự phát triển của khu vực KTTN thậm chí còn là một trong những tiêu chí đánh giá sự hoàn thành vai trò chủ đạo của khu vực KTNN. Sự phát triển năng động, hiệu quả của khu vực kinh tế ngoài nhà nước cũng là nhân tố vừa trực tiếp, vừa gián tiếp thúc đẩy khu vực KTNN phát triển.

Chú thích:

1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (khóa VI, VII, VIII, IX, X), Phần I, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 41.

2,3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn tập, tập 51, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007.

4. http://dangcongsan.vn/tu-lieu-van-kien.

5,6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng xuất bản, Hà Nội, 2016,

tr.73-74, tr102,103.

7 . Đảng Cộng sản Việt Nam: Tài liệu nghiên cứu các Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, Hà Nội, 2017.

Vũ Tiến Dũng

TS, Trường Đại học Xây dựng

Từ khóa » Vị Trí Vai Trò Của Các Thành Phần Kinh Tế