Vấn đề Toàn Cầu Hóa Trong Chính Trị Quốc Tế Và Lập Trường Của Việt ...

1. Mở đầu

Trong giai đoạn hiện nay, toàn cầu hóa đang là xu thế tất yếu khách quan và có tác động mạnh mẽ đến tất cả các quốc gia trên thế giới. Toàn cầu hóa kinh tế trở thành một chủ đề tranh luận sôi nổi trên các sách báo, trên các diễn đàn, hội thảo khoa học hay trong các vòng đàm phán quốc tế và khu vực. Toàn cầu hóa nói chung có ảnh hưởng đến toàn bộ các lĩnh vực của đời sống con người nhưng đầu tiên và sâu sắc nhất là lĩnh vực kinh tế. Ngày nay, trong chương trình phát triển của mỗi quốc gia vấn đề toàn cầu hóa luôn được đặt lên hàng đầu, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam.

2. Nội dung

2.1. Khái niệm và tính chất của toàn cầu hóa

“Toàn cầu hóa” là một thuật ngữ khá mới, nhưng có nguồn gốc từ khi chủ nghĩa tư bản ra đời. Là một quá trình phát triển, toàn cầu hóa không chỉ giới hạn trong lĩnh vực kinh tế mà còn mở rọng một số lĩnh vực khác. Hiện nay còn có nhiều cách hiểu khác nhau về toàn cầu hóa.

Thuật ngữ Toàn cầu hoá (tiếng Anh là Globalization) xuất hiện lần đầu tiên trong từ điển tiếng Anh vào năm 1961, và được sử dụng phổ biến từ cuối thập niên 1980 trở lại đây, để diễn đạt một nhận thức mới của loài người về một hiện tượng, một quá trình quan trọng trong quan hệ quốc tế hiện đại. Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm này, trong đó chủ yếu có 2 cách hiểu Toàn cầu hoá theo quan niệm rộng và hẹp.

Quan niệm theo nghĩa rộng, Toàn cầu hoá có thể hiểu là một quá trình, theo đó sự ảnh hưởng cũng như tác động mọi mặt của đời sống từng quốc gia, từng nước trở nên không có giới hạn, không bị ràng buộc bởi khoảng cách lãnh thổ, địa lý, khu vực hay từng nước. Đối với Toàn cầu hoá theo quan niệm rộng, những gì được gọi là rào cản, giới hạn hầu như dần dần đều mất tác dụng.

Quan niệm theo nghĩa hẹp, Toàn cầu hoá gắn liền với kinh tế. Ở quan niệm này, Toàn cầu hoá được dùnh để chỉ hiện tượng hay quá trình hình thành thị trường toàn cầu, làm gia tăng sự tương tác và tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế quốc gia. Theo Walter Good, Toàn cầu hoá là khái niệm chỉ “khuynh hướng gia tăng các sản phẩm có các bộ phận cấu thành được chế tạo ở một loạt nước”.

Từ những góc độ khác nhau, có thể thấy rằng: Toàn cầu hoá là quá trình gia tăng mạnh mẽ những mối liên hệ, sự ảnh hưởng, tác động, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên thế giới; nó vừa là kết quả vừa là xu thế tất yếu, khách quan, nhu cầu cấp bách của sự phát triến lực lượng sản xuất và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội; trong bối cảnh tình hình quốc tế và tương quan so sánh lực lượng hiện nay, Toàn cầu hoá đang bị các nước tư bản phát triển chi phối, lợi dụng.

Toàn cầu hoá trước hết và chủ yếu là toàn cầu hoá kinh tế. Toàn cầu hoá kinh tế là sự dịch chuyển từ do các yếu tố của quá trình tái sản xuất từ nước này sang nước khác trên phạm vi toàn cầu bắt nguồn từ sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất dẫn đến hình thành nền kinh tế toàn cầu. Điều đó được thể hiện ở chỗ:

Một là, toàn cầu hoá là một quá trình gắn liền với sự phát triển và tiến bộ xã hội, diễn ra trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội trên phạm vi toàn cầu.

Hai là, toàn cầu hoá là quá trình làm biến đổi sâu sắc, toàn diện các mối quan hệ kinh tế, chính trị, quân sự, văn hoá, khoa học, môi trường…của thế giới trên quy mô toàn cầu.

Ba là, thực chất của toàn cầu hoá là toàn cầu hoá kinh tế. Toàn cầu hoá kinh tế là xu thế chủ đạo, các xu thế khác đều phát sinh từ quá trình toàn cầu hoá kinh tế.

Trong các xã hội cổ xưa, các quốc gia dân tộc tồn tại tương đối biệt lập, ít có quan hệ với nhau. Nhưng cùng với sự phát triển của sản xuất, sự tăng tiến của sản xuất và trao đổi hàng hoá, sự mở rộng thị trường…, các mối quan hệ cũng dần dần vượt khỏi ranh giới quốc gia, hình thành các mối quan hệ quốc tế và quá trình quốc tế hoá được bắt đầu.

Toàn cầu hóa vừa là thời cơ cũng vừa là thách thức đối với Việt Nam.

2.2. Tác động của toàn cầu hóa tới quan hệ chính trị quốc tế và lập trường của Việt Nam

2.2.1. Sự tác động của toàn cầu hóa

Toàn cầu hóa tạo thành một quá trình phát triển tất yếu và mạnh mẽ như hiện nay là do sự tăng trưởng của thị trường tài chính toàn cầu, sự mở rộng liên kết kinh tế trên thế giới. Trong bối cảnh nền chính trị thế giới có nhiều cực, các công ty đa quốc gia ngày càng phát triển và không ngừng lớn mạnh, khoa học công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ ngày càng xóa đi khoảng cách trong mọi lĩnh vực hoạt động trên phạm vi toàn cầu. Để hiểu đúng bản chất của quá trình toàn cầu hoá kinh tế, cần quán triệt, vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa kinh tế và chính trị khi xem xét vấn đề toàn cầu hoá kinh tế. Trên cơ sở phương pháp luận ấy, có thể cho rằng trong bản chất, toàn cầu hoá kinh tế có tính hai mặt. Toàn cầu hóa kinh tế tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều nhân tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc gia dân tộc, nhất là các nước đang phát triển.

Một mặt, toàn cầu hoá là xu thế khách quan gắn liền với xu thế phát triển của nền sản xuất xã hội, là kết quả tất yếu của sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế ngày càng sâu rộng. Bản chất khách quan của toàn cầu hoá được quy định bởi tính tất yếu khách quan từ quá trình quốc tế hoá sức sản xuất xã hội.

Mặt khác, toàn cầu hoá trong giai đoạn hiện nay gắn liền với chủ nghĩa tư bản và hiện đang bị chủ nghĩa tư bản, nhất là các nước tư bản phát triển và các tập đoàn xuyên quốc gia tư bản chi phối, lợi dụng để phục vụ cho mục đích của họ. Đây là vấn đề lớn đặt ra tác động mạnh mẽ đến đời sống chính trị quốc tế trong thế giới đương đại.

Trên thực tế, toàn cầu hoá không chỉ diễn ra trên lĩnh vực kinh tế, mà còn diễn ra trên nhiều mặt khác của đời sống xã hội (an ninh, đối ngoại, văn hoá, tư tưởng…). Song, toàn cầu hoá kinh tế là cơ bản và thực chất của xu hướng toàn cầu hoá. Xu hướng tự do hoá kinh tế song song với xu hướng bảo hộ mậu dịch, toàn cầu hoá kinh tế đi đôi với khu vực hoá, toàn cầu hoá đi liền với phản toàn cầu hoá, phát triển gắn liền với những nhân tố phản phát triển.

Vì vậy, không thể quan niệm một cách đơn giản, phiến diện về quá trình toàn cầu hoá kinh tế, nhất là trong bối cảnh hiện nay. Toàn cầu hoá kinh tế là một quá trình phức tạp, đầy mâu thuẫn, có tính chất hai mặt, chứa đựng cả mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực, cả thời cơ và thách thức đối với tất cả các quốc gia dân tộc, trong đó các nước đang phát triển, chậm phát triển chịu nhiều thách thức gay gắt hơn. Quá trình toàn cầu hoá kinh tế và gắn với nó là quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh hết sức quyết liệt; và đó cũng là một đặc điểm lớn trong đời sống chính trị thế giới hiện nay.

Tác động của toàn cầu hoá trong đời sống chính trị quốc tế hiện nay ngày càng sâu sắc và mạnh mẽ, đến tất cả các mối quan hệ chính trị quốc tế cả tích cực và tiêu cực. Cạnh tranh kinh tế, thương mại, giành giật thị trường, nguồn tài nguyên, năng lượng, nguồn vốn, công nghệ… giữa các nước diễn ra ngày càng gay gắt, tác động mạnh mẽ đến đời sống chính trị quốc tế, làm cho chính trị thế giới trở nên phức tạp hơn.

Toàn cầu hóa thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển và xã hội hóa lực lượng sản xuất, đưa lại tăng trưởng kinh tế cao; góp phần quan trọng chuyển hóa cơ cấu kinh tế thế giới; cạnh tranh kinh tế ngày càng trở nên gay gắt; làm sâu sắc hơn sự chuyên môn hóa và phân công lao động trên quy mô toàn cầu; tạo nên khả năng phát triển rút ngắn cho các nước đang phát triển; thúc đẩy sự xích lại gần ngau giữa các dân tộc; góp phần giao lưu văn hóa, nâng cao dân trí và sự khẳng định của các dân tộc6. Toàn cầu hoá kinh tế diễn ra ngày càng sâu rộng, mạnh mẽ với nhiều tầng nấc khác nhau trong sự đan xen của những nhân tố thuận và nghịch, là quá trình không phải đơn giản, trơn tru, bằng phẳng. Các cường quốc tư bản chủ nghĩa phát triển là những lực lượng chủ đạo, là lực lượng đang chi phối quá trình toàn cầu hoá, là động lực thúc đẩy và là người thu lợi chủ yếu từ quá trình toàn cầu hoá, do đó chi phối chính trị quốc tế, làm cho quá trình toàn cầu hóa là toàn cầu hóa tư bản chủ nghĩa. Toàn cầu hoá hiện nay diễn ra trong sự bất công, bất bình đẳng do tính chất tư bản chủ nghĩa của nó, do sự chi phối của các nước tư bản phát triển, của các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia. Trong quá trình toàn cầu hoá, sự bất bình đẳng giữa các nước phát triển và đang phát triển ngày càng tăng, hố ngăn cách giàu nghèo giữa các nước và trong từng nước ngày càng lớn.

Trong điều kiện toàn cầu hóa phát triển ngày càng mạnh mẽ, vị trí, vai trò của các nước đang phát triển, của các tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế ngày càng có trọng lượng trong các mối quan hệ quốc tế và trong đời sống chính trị quốc tế. Quá trình toàn cầu hoá làm cho các mối quan hệ quốc tế trong đời sống chính trị quốc tế trở nên chặt chẽ và khăng khít hơn, do đó, chính trị của các nước có cơ sở quan hệ chặt chẽ và phụ thuộc vào nhau nhiều hơn bởi các mối liên kết và quan hệ kinh tế, thương mại giữa các quốc gia và khu vực trên thế giới.

Toàn cầu hóa làm cho đời sống con người trở nên kém an toàn hơn, an ninh chính trị thế giới trở nên khó kiểm soát hơn, từ an ninh kinh tế, văn hóa, xã hội đến an ninh chính trị, từ an ninh từng con người, gia đình đến an ninh quốc gia và an ninh toàn nhân loại. Toàn cầu hóa tạo ra nguy cơ đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc, đánh mất độc lập chủ quyền quốc gia; tạo khả năng quốc tế hóa các hiện tượng tiêu cực xã hội. Toàn cầu hóa đặt ra đặc biệt đối với các nước đang phát triển những thách thức to lớn, nếu vượt qua thì cái được là rất lớn, nếu không vượt qua được thì cái mất là rất to, khó có thể lường trước.

Vấn đề giữ vững độc lập tự chủ, đặc biệt là bảo đảm nền kinh tế độc lập, tự chủ trong điều kiện toàn cầu hóa là vấn đề trở nên phức tạp, chi phối mạnh mẽ các mối quan hệ trong đời sống chính trị quốc tế. Các quan hệ chính trị quốc tế được dựa trên cơ sở của các mối liên kết kinh tế song phương, đa phương và các thiết chế kinh tế, tài chính quốc tế, khu vực, trở nên phụ thuộc lẫn nhau nhiều hơn. Các quan hệ chính trị lại làm cho các mối liên kết và quan hệ kinh tế của các nước có điều kiện được mở rộng và vững chắc hơn. Toàn cầu hóa là cả một quá trình phát triển, ẩn chứa những sức mạnh ghê gớm, cùng những thách thức và nguy cơ rất lớn, đòi hỏi mỗi quốc gia dân tộc phải chủ động giữ vững bản sắc văn hóa, độc lập tự chủ, kiểm soát và chế ngự tính chất không giới hạn, mặt tiêu cực của quá trình toàn cầu hóa, nhất là đối với các nước đang phát triển.

2.2.2. Độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, dân chủ, công bằng và tiến bộ xã hội trong bối cảnh toàn cầu hoá

Độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, dân chủ, công bằng và tiến bộ xã hội không phải là một chủ đề mới của đấu tranh dân tộc và giai cấp trên thế giới. Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hoá, chủ đề này hiện đang nổi lên mấy vấn đề đáng chú ý như sau:

Trong toàn cầu hoá kinh tế và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, vấn đề độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia, một lần nữa, lại được đặt ra rất gay gắt đối với các nước đang phát triển. Các nước này có cơ hội tranh thủ các điều kiện và nguồn lực bên ngoài để phát triển kinh tế-xã hội, từng bước giành độc lập về kinh tế, củng cố độc lập về chính trị; đồng thời, cũng đứng trước những khó khăn và thách thức rất lớn, phải đương đầu với những tác động phức tạp theo cả hai chiều thuận và không thuận, tích cực và tiêu cực của quá trình toàn cầu hoá kinh tế do các nước công nghiệp phát triển và các tập đoàn xuyên quốc gia chi phối.

Đáng chú ý là mặt thuận và mặt không thuận, tác động tích cực và tác động tiêu cực luôn quyện chặt với nhau, chứa đựng trong nhau. Ví dụ: vấn đề chuyển giao công nghệ và nguy cơ lệ thuộc về công nghệ; vấn đề thu hút đầu tư nước ngoài và nguy cơ hình thành cơ cấu kinh tế lạc hậu; vấn đề mở rộng xuất khẩu và sức ép mở cửa thị trường; vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế và việc phải chấp nhận các “luật chơi” quốc tế đã có; v. v. . Đúng như Đảng ta đã nhận định: “Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh”

2.2.3. Lập trường của Việt Nam đối với vấn đề toàn cầu hoá hiện nay

Là một nước đang phát triển, trong dòng chảy toàn cầu hoá, Việt Nam ý thức rất rõ về cả những cơ hội to lớn và cả những thách thức không nhỏ mà toàn cầu hoá mang lại. Việt Nam nhìn nhận toàn cầu hoá như một tất yếu khách quan đồng thời khẳng định sự cần thiết phải có những động thái nỗ lực chủ quan của mỗi quốc gia, chủ thể quan hệ quốc tế mới có thể thúc đẩy những mặt thuận của toàn cầu hoá phát triển. Lập trường của Việt Nam về vấn đề toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế có thể khái quát gồm 04 điểm: i) Toàn cầu hoá là xu thế khách quan; ii) Quá trình toàn cầu hoá hiện đang bị các nước tư bản phát triển và các tập đoàn xuyên quốc gia chi phối; cho nên chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh;iii) Toàn cầu hoá tác động nhiều chiều đến tất cả các nước, các nền kinh tế, vừa mở ra cơ hội phát triển, vừa tạo ra thách thức, nhất là đối với các nước đang phát triển; iv) Việt Nam không thể đứng ngoài quá trình toàn cầu hoá, phải chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác.

Toàn cầu hóa nói chung và toàn cầu hóa về kinh tế nói riêng luôn luôn có tính chất hai mặt, vừa tích cực vừa tiêu cực, chứa đựng cả thời cơ và thách thức. Trong quá trình đó các nước chậm phát triển như Việt Nam đảng phải gánh chịu những mặt tiêu cực và những thách thức gay gắt hơn.

Trong xu thế toàn cầu hóa, các quốc gia muốn tiếp tục phát triển phải chủ động hội nhập quốc tế với những bước đi thích hợp và có chính sách khôn khéo tận dụng những tác động tích cực, hạn chế những tác động tiêu cực của toàn cầu hóa kinh tế, đồng thời phải đoàn kết đấu tranh chống lại sự áp đặt đe doạ của các thế lực lợi dụng toàn cầu hóa để thực hiện những ý đồ riêng của họ.

Nhận thức đúng đắn xu thế tất yếu khách quan cũng như những mặt tiêu cực, những thách thức của toàn cầu hóa nói chung và toàn cầu hóa về kinh tế nói riêng, trong khi tiếp tục khẳng định con đường và mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có những quan điểm, chủ trương chính sách thích hợp trong điều kiện hội nhập quốc tế và khu vực, đa dạng hóa đa phương hóa quan hệ quốc tế.

Trong quá trình chủ động hội nhập, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn luôn khẳng định những quan điểm, lập trường có tính nguyên tắc là: Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và cùng có lợi: hội nhập phát triển kinh tế nhưng phải giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, truyền thống dân tộc; mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ mọi nguồn lực từ bên ngoài, trên cơ sở phát huy nội lực là chính: hội nhập là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh chống mọi sự áp đặt, xâm phạm độc lập, chủ quyền bất bình đẳng, can thiệp công việc nội bộ của nước khác, tích cực góp phần đấu tranh vì một thế giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác, bình đẳng và phát triển trên cơ sở pháp luật quốc tế.

Đặng Đình Tiến 

Khoa Khoa học chính trị, trường Đại học Nội vụ Hà Nội

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011
  3. Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016
  4. Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021
  5. Nguyễn Phú Trọng: “Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng”.

 

Bàn về hội nhập quốc tế và toàn cầu hoá . ...

Từ khóa » Tiêu Cực Và Tích Cực Của Toàn Cầu Hóa