VẬN DỤNG TINH THẦN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG VÀO ...

Phép biện chứng duy vật là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy. Hệ thống các nguyên lý, quy luật, phạm trù của phép biện chứng duy vật không chỉ phản ánh đúng đắn thế giới khách quan, mà còn chỉ ra những cách thức để định hướng cho con người trong nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Phép biện chứng duy vật rút ra những quan điểm, nguyên tắc xuất phát để chỉ đạo việc hoạch định phương pháp cho mọi hoạt động của con người. Trên cơ sở nội dung và ý nghĩa phương pháp luận được rút ra từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển, cùng với việc quán triệt nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, tác giả đã khái quát và dẫn chứng cụ thể những quan điểm trong Văn kiện để làm sâu sắc hơn nội dung trong học phần Những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung và phần ý nghĩa phương pháp luận của hai nguyên lý trên nói riêng. Từ đó xây dựng niềm tin, lý tưởng cho học viên, giúp học viên vững tin vào con đường Đảng và Bác Hồ đã chọn.

Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật khái quát bức tranh toàn cảnh chằng chịt những mối liên hệ của thế giới (tự nhiên, xã hội và tư duy). Cơ sở của mối liên hệ này là tính thống nhất vật chất của thế giới.

Mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng là khách quan, bởi lẻ, nó là cái vốn có của sự vật, không do ai gán cho sự vật. Mối liên hệ đó còn là phổ biến, nghĩa là nó tồn tại cả trong tự nhiên, cả trong xã hội, cả trong tư duy. Bản chất của sự vật được hình thành, biến đổi và bộc lộ thông qua mối liên hệ. Dưới góc độ bản thể luận, nội dung này khẳng định bản chất của sự vật hình thành, biến đổi không chỉ do bản thân sự vật quy định mà còn phụ thuộc vào mối liên hệ phổ biến trong đó sự vật tồn tại. Cùng là một sự vật nhưng tồn tại trong những mối liên hệ khác nhau có những biểu hiện về bản chất khác nhau. Đồng thời mối liên hệ rất đa dạng, phong phú. Có mối liên hệ bên trong, bên ngoài; có mối liên hệ tất nhiên và ngẫu nhiên; có mối liên hệ cơ bản và không cơ bản, có mối liên hệ chủ yếu và thứ yếu, có mối liên hệ bản chất và không bản chất, v.v… Dĩ nhiên, sự phân loại các mối liên hệ chỉ có ý nghĩa tương đối. Các mối liên hệ khác nhau trong những điều kiện cụ thể khác nhau có thể chuyển hóa lẫn nhau.

Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, triết học duy vật mácxít rút ra ý nghĩa phương pháp luận để định hướng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người, đó là quan điểm toàn diện. Quan điểm toàn diện yêu cầu:

Một là, để có được nhận thức đúng đắn về sự vật, hiện tượng cần phải xem xét nó trong sự liên hệ, tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác cũng như giữa các bộ phận, yếu tố, các thuộc tính khác nhau của chính sự vật đó, tức là phải đặt sự vật trong mối liên hệ cụ thể xem xét và giải quyết. Đồng thời, phải tính tới tổng hòa các mối quan hệ của sự vật.

Trong nhiệm kỳ 2016-2021, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng chỉ ra trong công cuộc xây dựng đất nước cần giải quyết 9 mối quan hệ lớn, trong Nghị quyết Đại hội XIII, Đảng ta khẳng định cần tiếp tục nắm vững và xử lý tốt 10 mối quan hệ lớn: Giữa ổn định, đổi mới và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân thủ các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa nhà nước, thị trường và xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ; và đặc biệt, mối quan hệ mới được bổ sung lần này là mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Đó là những mối quan hệ lớn, phản ánh các quy luật mang tính biện chứng, những vấn đề lý luận cốt lõi về đường lối đổi mới của Đảng ta, cần tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện và phát triển phù hợp với thay đổi của thực tiễn; đòi hỏi chúng ta phải nhận thức đúng và đầy đủ, quán triệt sâu sắc và thực hiện tốt, có hiệu quả. Tuyệt đối không được cực đoan, phiến diện.

Hai là, yêu cầu của quan điểm toàn diện là phải phân tích một cách toàn diện, song không phải cái gì cũng nói đến một cách tràn lan mà phải đánh giá đúng vị trí, vai trò của từng mặt, từng mối liên hệ, phân biệt cái nào là cái cơ bản, là cái chủ yếu.

Vận dụng quan điểm toàn diện vào sự nghiệp đổi mới của nước ta, Đảng ta cũng đồng thời nhấn mạnh đổi mới tư duy lý luận, tư duy chính trị về chủ nghĩa xã hội là khâu đột phá và đổi mới kinh tế là trọng tâm. Từ nhận thức về 10 mối quan hệ lớn và mối liên hệ hữu cơ giữa chúng, Đại hội XIII của Đảng đã đưa ra quan điểm chỉ đạo: Chiến lược phát triển tổng thể của đất nước ta là đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và bền vững đất nước; bảo đảm gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó: Phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên. Hay quan điểm “Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Những thành tựu to lớn của 35 năm đổi mới đất nước vừa qua trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội là bằng chứng hùng hồn xác nhận những quan điểm trên là đúng đắn và sáng tạo. Thực hiện đường lối đổi mới trong giai đoạn tới, những quan điểm chỉ đạo của Đảng cần tiếp tục được quan triệt trong cả nhận thức và hành động.

Đại hội cũng xác định tập trung vào sáu nhiệm vụ trọng tâm, trong đó nhiệm vụ thứ hai là: Tập trung kiểm soát đại dịch covid-19, tiêm chủng đại trà vắc xin covid-19 cho cộng đồng; phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển phù hợp với nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, hội nhập; phát triển đồng bộ và tạo ra sự liên kết giữa các khu vực, các vùng, các thành phần kinh tế, các loại hình sản xuất kinh doanh; có chính sách hỗ trợ hiệu quả của doanh nghiệp, nhất là trong nông nghiệp; đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thực hiện chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; huy động, phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để phát triển kinh tế nhanh và bền vững; hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là pháp luật về sở hữu trí tuệ và giải quyết các tranh chấp dân sự; khắc phục những điểm nghẽn cản trở sự phát triển của đất nước. Đây là nhiệm vụ quan trọng phù hợp với bối cảnh quốc tế và tình hình trong nước trong giai đoạn hiện nay để thực hiện được mục tiêu kép vừa phòng, chống dịch, vừa phục hồi, phát triển nền kinh tế nước ta.

Ba là, quan điểm toàn diện yêu cầu trong hoạt động thực tiễn, muốn cải tạo sự vật phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp; phải xác định đúng vị trí, vai trò của từng mối liên hệ đối với sự vận động, phát triển của sự vật. Chống lại quan điểm phiến diện một chiều, chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy biện.

Quan điểm toàn diện góp phần khắc phục bệnh phiến diện: Xem xét một mặt, một khía cạnh của sự vật, hiện tượng rồi rút ra kết luận về bản chất của sự vật, hiện tượng đó, hoặc tuyệt đối hóa một mặt nào đó của sự vật, hiện tượng. Tránh chủ nghĩa chiết trung, vì nó có chú ý tới nhiều mối liên hệ khác nhau, nhưng lại kết hợp chúng một cách vô nguyên tắc vào làm một. Tránh thuật ngụy biện, vì nó cũng thừa nhận sự tồn tại của các mối liên hệ khác nhau của sự vật, nhưng lại đánh tráo một cách có chủ đích vị trí, vai trò của các mối liên hệ. Không phải ngẫu nhiên Đại hội XIII của Đảng khẳng định “Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó, phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt”. Hay, tinh thần “Hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,”.

Trên cơ sở đánh giá những thành tựu, hạn chế trong thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2016-2020, dự báo về bối cảnh quốc tế và trong nước tác động đến phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2025, Đại hội XIII của Đảng đã đưa ra những giải pháp đồng bộ để phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2025 là: (1) Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững trên cơ sở giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô; .... (12) Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế, tạo môi trường hòa bình và điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước.

Bên cạnh nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật phản ánh đặc trưng biện chứng phổ quát nhất của thế giới. Chủ nghĩa duy vật mácxít coi phát triển là phạm trù triết học chỉ khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó là quá trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn nảy sinh trong sự tồn tại và vận động của sự vật, nhờ đó sự vật luôn phát triển. Vì thế sự phát triển là tiến trình khách quan, không phụ thuộc vào ý thức của con người. Phát triển được diễn ra ở mọi lĩnh vực: Tự nhiên, xã hội và tư duy; ở bất cứ sự vật, hiện tượng nào của thế giới khách quan. Phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, mọi hiện tượng. Song, mỗi sự vật, mỗi hiện tượng lại có quá trình phát triển không giống nhau. Tồn tại ở không gian khác nhau, ở thời gian khác nhau, sự vật phát triển sẽ khác nhau. Đồng thời trong quá trình phát triển của mình, sự vật còn chịu sự tác động của các sự vật, hiện tượng khác, của rất nhiều yếu tố, điều kiện. Sự tác động đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sự vật, đôi khi có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật, thậm chí làm cho sự vật tạm thời thụt lùi. Do đó, dù trong hiện thực khách quan hay trong tư duy, sự phát triển diễn ra không phải lúc nào cũng theo đường thẳng, mà rất quanh co, phức tạp, thậm chí có thể có những bước lùi tạm thời.

Nếu như trong nguyên lý về mối liên hệ phổ biến cho phép chúng ta rút ra quan điểm toàn diện thì nguyên lý về sự phát triển cho phép chúng ta rút ra quan diểm phát triển với các yêu cầu cơ bản sau:

Một là, khi xem xét, đánh giá, giải quyết sự vật, hiện tượng phải đặt nó trong trạng thái vận động phát triển đi lên, thấy được xu hướng phát triển trong tương lai của sự vật, để họat động thực tiễn có hiệu quả. Không được xem xét đánh giá sự vật một cách máy móc, cứng nhắc chỉ thấy hiện tại mà không thấy tương lai.

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã thể hiện một cách sinh động sự vận dụng sáng tạo phép biện chứng duy vật vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta. Đại hội XIII của Đảng đã tổng kết 35 năm đổi mới; 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991; 10 năm thực hiện Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội năm 2011-2020. Bên cạnh những kết quả đạt được, chúng ta cũng thẳng thắn nhìn nhận những mặt còn hạn chế, những vấn đề cần khắc phục, vượt qua cho giai đoạn 5 năm tiếp theo, hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng vào năm 2045. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định mục tiêu cụ thể cho từng giai đoạn:

Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp.

Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.

Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao .

Mục tiêu trên của Đảng dựa trên nguyên tắc đảm bảo tính kế thừa và bổ sung phù hợp với những thay đổi trong từng giai đoạn phát triển của đất nước, đồng thời nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm của các nước và những chuẩn mực phát triển chung của thế giới.

Hai là, con đường phát triển của sự vật không phải là con đường thẳng tắp, nó quanh co khúc khuỷu, nhưng nhìn chung theo xu hướng đi lên. Do vậy, trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải có tinh thần lạc quan, cách mạng, không được bi quan, chán nản trước những khó khăn.

Trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và trong nước, những nhân tố tác động đến Việt Nam trong những năm sắp tới, đánh giá 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991 và 10 năm thực hiện Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011, có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác định rõ mục tiêu tổng quát trong giai đoạn tới là:Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Ba là, trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải ủng hộ, tạo điều kiện cho cái mới, cái tiến bộ chiến thắng cái cũ, cái lạc hậu. Phải khắc phục, phê phán bệnh bảo thủ, trì trệ, định kiến.

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia, dân tộc. Để thực hiện thắng lợi công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng vào năm 2045, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “ Có chiến lược phát triển khoa học và công nghệ phù hợp với xu thế của thế giới và điều kiện của đất nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới, thích ứng với Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Như vậy, quan điểm toàn diện và quan điểm phát triển trở thành những nguyên tắc phương pháp luận của hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Nắm vững những nguyên tắc phương pháp luận này không những là nhân tố cơ bản để hình thành thế giới quan khoa học và nhân sinh quan cách mạng mà còn là điều kiện tiên quyết cho mọi hoạt động của con người. Đại hội XIII của Đảng đã đưa ra rất nhiều điểm mới trong điệu kiện cụ thể nước ta hiện nay. Vì vậy, trong quá trình giảng dạy học phần “Những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin” nói chung và phần ý nghĩa phương pháp luận hai nguyên lý của phép biện chứng nói riêng, giảng viên cần vận dụng thật tốt tinh thần Đại hội XIII của Đảng. Quán triệt quan điểm mới của Đảng trong giảng dạy sẽ làm cho bài giảng có được nội dung sinh động, thiết thực, tránh tình trạng nói lý thuyết suông, khô khan, nhàm chán, giúp cho người học nắm chắc nội dung triết học và ý nghĩa sâu sắc của nó. Hơn thế nữa, giúp học viên vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng, phát huy tinh thần tìm tòi sáng tạo trong học tập, nghiên cứu lý luận và biết vận dụng sáng tạo vào thực tiễn công tác ở địa phương, cơ sở.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Tuyên giáo Trung ương: Tài liệu hỏi - đáp về các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021.

3. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Giáo trình trung cấp lý luận chính trị - hành chính - Những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nxb. Lý luận chính trị , H. 2018.

Từ khóa » Nguyên Lý Phát Triển Của Phép Biện Chứng Duy Vật