Văn Minh ấn độ Cổ Trung đại - Tài Liệu Text - 123doc

Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)
  1. Trang chủ
  2. >>
  3. Khoa học xã hội
  4. >>
  5. Văn hóa - Lịch sử
văn minh ấn độ cổ trung đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (506.67 KB, 74 trang )

V ĂN MINH ẤN ĐỘC ỔTRUNG ĐẠIPHẦN MỞ ĐẦU1. Lí do chọn đề tàiTrong quá trình phát sinh, tồn tại, phát triển của thế giới suốt 5000 năm đã xuấthiện nhiều nền văn minh. Từ ngay khi mới xuất hiện con người đã sáng tạo cho mìnhnhững nền văn minh từ rất sớm mà cũng khá phát triển. Đó là những bằng chứng cụ thểnhất để những nhà khoa học hiện nay quay lại tìm hiểu, nghiên cứu lịch sử xã hội loàingười từ khi mới xuât hiện cho tới ngày nay. Và một trong những nền văn minh cổ có ảnhhưởng rất lớn tới quá trình nghiên cứu đó chúng ta không thể không kể tới văn minh ẤnĐộ.Khi con người mới xuất hiện thì họ thường tập trung sinh sống ở các vùng rừng núicheo leo nhưng cùng với sự phát trong tư duy và thực tiễn của quá trình sản xuất mà họchuyển tới sống ở các vùng có điều kiện thuận lợi cho việc sản xuất và sinh hoạt . Lưuvực các con song là nơi đất đai màu mỡ, nước tưới tiêu thuận lợi giao thông dễ đi lại nêntập trung lượng dân cư đông đúc và lưu vực sông Ấn cũng vậy. Đó là lí do mà ngay từ rấtsớm ở đây đã xuất hiện con người sinh sống. Trong quá trình sinh hoạt, sản xuất họ đã tạora một nền văn hóa, văn minh của chính mình mà tiêu biểu là việc tìm ra hai thành phố cổHarappa và Môhenrơ- Đaro đã chứng minh cho sự xuất hiện của nền văn minh lưu vựcsông Ấn (cách đây 3000 đến 1500 năm).Sau đó người Aryan đến xâm chiếm Ấn Độ đã phá hủy các thành tựu của nền vănminh cổ trên lưu vực sông Ấn để xây dựng nên những nền văn minh mới của mình. Đóchính là một trong những lí do tạo nên sự đa dạng của văn minh Ấn Độ. Cùng với sự pháttriển của xã hội nền văn minh Ấn độ ngày càng phát triển rực rỡ ở những góc độ, lĩnh vựcvà các thời đại khác nhau góp phần vô cùng quan trọng tới sự phát triển của Ấn Độ và thếgiới.Chính từ lí do đó mà nhóm sinh viên chúng em quyết định lựa chọn đề tài tìm hiểu nghiêncứu về văn minh Ấn Độ cổ trung đại2. Lịch sử nghiên cứu:Là một trong bốn nền cổ lại có những đóng góp vô cùng quan trọng đối với Ấn Độvà với cả thế giới nên việc nghiên cứu về văn minh Ấn Độ được rất nhiều nhà khoa họctìm hiểu, nghiên cứu. Mà cụ thể chúng ta đã thấy trong cuốn:Nhóm sinh viên lớp Đại học Sử K101V ĂN MINH ẤN ĐỘC ỔTRUNG ĐẠI1. Lịch sử văn minh thế giới _Vũ Dương Ninh- NXB Giáo dục2. Những nền văn minh thế giới _ thế giới 5000 năm _ NXB văn hóa thông tin3. Lịch sử thế giới cổ đại _Dương Ninh _ NXB giáo dục4. Những mẩu chuyện lịch sử thế giới (tập 1) _ Đặng Đức An _NXB giáo dụcNgoài ra còn có rất nhiều nguồn tài liệu khác mà chúng ta có thể tham khỏa như tàiliệu thế giới và thông tin trên các mạng truyền thông như mạng Internet, báo chí…Songcác tài liệu này chỉ đánh giá được một khía cạnh, lĩnh vực nào đó mà chưa đánh giá đượctổng thể cả nền văn minh Ấn Độ trong thời kỳ cổ trung đại hay nếu có đánh giá thì cũngchỉ ở mức khái quát mà chưa đầy đủ, chi tiết về sự phát triển của văn minh Ấn Độ.Đóchính là lý do cần có một bài tập nghiên cứu về vấn đề này.3. Mục đích và phạm vi nghiên cứuKhi nghiên cứu đánh giá về sự phát triển của xã hội loài người ở một quốc gia haytrên thế giới chúng ta thường phải tìm hiểu, nghiên cứu các điểm mốc hay bước ngoặtquan trọng mà tiêu biểu là những nền văn hóa, văn minh cổ đại. Tự việc nghiên cứu nềnvăn minh Ấn Độ chung ta có thể nhìn thấy sự phát triển của xã hội Ấn Độ và thế giớitrong giai đoạn này. Từ đó chúng ta phải đánh giá được tầm quan trọng và sự ảnh hưởngcủa nền văn minh Ấn độ cổ trung đại.Văn minh Ấn độ ra đời sớm và khá phát triển nên khi nghiên cứu về nền văn minh nàychung ta cần phải nghiên cứu một cách toàn diện trên mọi lĩnh vực, biết chắt lọc nhữngthành tựu tiêu biểu có đóng góp to lớn cho nhân loai tự xưa cho tới ngày nay và cả tươnglai như hệ thống tôn giáo, các công trình kiến trúc mang đậm ảnh hưởng tôn giáo, khoahọc tự nhiên. Văn học với bộ sử thi dài hơn hai nghìn câu thơ đôi…Lí giải được lí do hìnhthành nền văn minh Ấn Độ từ sớm và lại phát tiển như thế.Nói tóm lại khi tìm hiểu về vấn đề nền văn minh Ấn Độ cổ trung đại chung ta cầnchỉ ra được cơ sở hình thành và phát triển của nền văn minh trong giai đoạn lich sử xã hộicòn sơ khai, chỉ ra những thành tựu quan trọng có ảnh hưởng lớn của nền văn minh này,từ đó có đánh giá khách quan về đóng góp của nền văn minh này với chính Ấn Độ và cảthế giới.Nhóm sinh viên lớp Đại học Sử K102V ĂN MINH ẤN ĐỘC ỔTRUNG ĐẠI4. Phương pháp nghiên cứuVì đây là một vấn đề khá rộng và có nhiều vấn đề đáng quan tâm mà khi nghiêncứu về đề tài văn minh Ấn Độ cổ trung đại chúng em đã vận dụng kết hơp nhiều phươngpháp nghiên cứu như lựa chọn tài liệu, đọc tài liệu, đối chiếu, liệt kê, chứng minh, sosánh, phân tích.5. Bố cục: gồm 3 phần lớnPhần mở đầuPhần nội dungCHƯƠNG I: Cơ sở hình thành văn minh Ấn Độ cổ- trung đại1. Địa lí và dân cư2. Sơ lược lịch sử Ấn Độ cổ trung đạiCHƯƠNG II: Những thành tựu chính của văn minh Ấn Độ cổ- trung đại1. Chữ viết2. Văn học3. Nghệ thuật4. Khoa hoc tự nhiên5. Tư tưởng, tôn giáoChương III: Đánh giá văn minh Ấn Độ cổ- trung đạiPhần kết luậnNhóm sinh viên lớp Đại học Sử K103CHƯƠNG ICƠ SỞ HÌNH THÀNH VĂN MINH ẤN ĐỘ CỔ - TRUNG ĐẠI1. ĐỊA LÍ VÀ DÂN CƯ1.1 Vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên1.1.1 Vị trí địa líẤn Độ là một bán đảo hình tam giác nằm ở phía Nam châu Á, được bao bọc bởi dảinúi cao nhất thế giới Himalaya và biển Ấn Độ Dương nên Ấn Độ còn được gọi là một“tiểu lục địa”. Phía Bắc giáp Trung Quốc, phía Tây giáp biển ả Rập.Ấn Độ với diện tích hơn 3.184.290 km², là một khu vực rộng lớn ở châu á nhưngẤn Độchỉ có thể liên hệ với thế giới bằng đường bộ về phía tây- bắc từ Talixa qua Kabun(nay là thủ đô Apganixtan) vượt dãy Hinducuc hiểm trở để đến Iran và Trung á. Nhưng ẤnĐộ có 2 mặt giáp biển nằm giữa đường biển từ Tây (Hồng Hải và vịnh Ba Tư) sang Đông(biển Đông và Thái Bình Dương), nơi dừng chân bắt buộc của đường hàng hải TâyĐông.Tiểu lục địa này hầu như bị cắt đôi bởi dãy núi Vinđia. Nửa phía bắc là 2 đồng bằngrộng lớn do sông Hằng và sông Ấn tạo nên. ở nửa phía Nam. Đêcan là núi Vinđia kéo dàithành cao nguyên Đecan, núi cao, rừng rậm chiếm phần lớn diện tích lại thêm 2 dãy núiĐông Gát và Tây Gát chạy dọc 2 bờ Đông, Tây của bán đảo. Tuy nhiên, hai vùng duyênhải hẹp và dài này lại là nơi thuận tiện để cư dân sinh sống, phát triển.Bán đảo Ấn Độ có chiều ngang rộng từ 67˚- 87˚ kinh Đông (khoảng 2100 km) nằmtrên 3 múi giờ và có chiều dài từ 7˚- 32˚ vĩ Bắc (khoảng 3000 km). Theo nghiên cứu củacác nhà nghiên cứu sự phát triển của lịch sử Ấn Độ, chia Ấn Độ làm 3 khu vực:- Một là, vùng núi Himalaya quanh năm tuyết phủ- Hai là, đồng bằng Ấn- Hằng như một lòng chảo mà 2 dòng sông Ấn và sông Hằngtạo nên. Sông Ấn dài hơn 3000 km, mang một lượng phù sa lớn từ Himalaya đổ ra biển ARập, tạo nên một châu thổ rộng 8000 km². Chính sự màu mỡ mà dòng sông Ấn mang lạiđã tạo ra 2 nền văn minh Harappa và Mohendjơ- Daro. Sông Hằng dài gần 3000 km, kếthợp sông Bramaputra tạo nên vùng đồng bằng châu thổ màu mỡ. Do đó giúp người ẤnĐộcó thể nhanh chóng phát triển hoạt động sản xuất nông nghiệp như lúa gạo, lúa mì, caolương, bông, chè, cao su, mía,…Trong đó cây lúa giữ vai trò quan trọng nhất.- Ba là miền cao nguyên Đêcan ở phía Nam được tạo bởi hai dãy Grát Đông và GrátTây - một cao nguyên cổ nghèo nàn nhưng giàu về khoáng sản.1.1.2 Tài nguyên thiên nhiênTài nguyên thiên nhiên của Ấn Độ vô cùng phong phú nhất là tài nguyên rừng vớidiện tích rừng vô cùng lớn. Cùng với đó là sự tồn tại của nhiều loại động vật cổ xưa, quýhiếm như sư tử, voi,…Bên cạnh đó là nhiều loại khoáng sản với trữ lượng lớn như: than đá120 tỉ tẤn, mangan 180 triệu tấn đứng thứ 3 thế giới, sản lượng sắt chiếm 1/4 thế giới.Ngoài ra còn nhiều loại khoáng sản tiềm năng như kẽm, đồng, vàng, dầu mỏ,…Với điềukiện tự nhiên đa dạng, núi cao, sông sâu và nhiều khoáng sản nên ngay từ xa xưa vùng đấtnày đã có cư dân đến sinh sống, quá trình xây dựng nhà nước do đó cũng diễn ra sớm.1.1.3 Khí hậu:Do điều kiện tự nhiên đa dạng nhiều thành phần nên khí hậu của bán đảo này cũngrất đa dạng.Từ cực Nam đến sát vùng hạ lưu sônh Ấn và sông Hằng từ 7˚-25˚B, khí hậu nóng.Phía Bắc vùng giáp chân núi Himalaya lại rất lạnh, có tuyết rơi. Miền Bắc ở vĩ độ 23˚,chịu ảnh hưởng của đới chí tuyến đã nóng lại rất khô. Vùng Tây Bắc lưu vực sông Ấn khíhậu khô nóng xê dịch nhiều lên trên (khoảng vĩ độ 25˚-30˚) tạo nên sa mạc Thar dài hơn6000 km.Lưu vực sông Ấn rất hiếm mưa và chịu tác động trực tiếp của sa mạc Thar, cát baydữ dội, hàng năm phủ một lớp dày trên hai bờ trung lưu sông Ấn.Trong khi đó vùng Đông Bắc, lưu vực sông Hằng lại có tác động của gió mùa, cómưa và cây cối rất tươi tốt. Gío biển đem lại mưa, khí hậu dịu mát hơn và mang đến nướcsinh hoạt cho dân 2 vùng duyên hải đông, tây. Vùng sông Hằng ở đông - bắc chịu ảnhhưởng của gió mùa, trồng lúa nước và những loại cây gần gũi với đời sống của dân ĐôngNam Á.Như vậy, ta thấy rằng thiên nhiên Ấn Độvới miền Bắc sông ngòi và miền Nam lắmrừng nhiều núi, lại có 2 dải bờ biển dài vào loại nhất trên thế giới, có sa mạc nóng cháy, lạicó mưa gió theo mùa. Thiên nhiên Ấn Độlà một thiên nhiên vừa đóng kín vừa cởi mở, vừalà một tiểu lục địa thống nhất cách biệt với bên ngoài, vừa chia cắt khác nhau bên trong,vừa hùng vĩ lại cực kì đa dạng đã mang đến cho Ấn Độmột cuộc sống sớm hình thành vàcũng qua đó mà Ấn Độcó những bước lịch sử đầy phong lưu, bão táp và cũng nhiều huyhoàng…1.2 Dân cư:Cư dân Ấn Độ là chủng tộc da đen Nêgroid với các đặc điểm đầu dài, mũi tẹt, môidày.Cư dân Ấn Độ về thành phần chủng tộc gồm 2 loại chính: người Đraviđa cư trú chủyếu ở miền Nam và người Arya chủ yếu cư trú ở mièn Bắc. Người Đraviđa cao, da nâusẫm, mũi thẳng, tóc đen, là người sáng tạo ra nền văn minh đầu tiên tại lưu vực sông Ấn làthành phố Harappa và Mohendjo- Daro ở thế kỉ III TCN.Người Arya da trắng, gốc Ấn Âu, mũi thẳng, dáng cao, giỏi cung kiếm nên chủ yếuphát triển kinh tế chăn nuôi du mục.Ngoài ra còn nhiều chủng tộc khác như người Hi Lạp, người Hung Nô, người Arập,…Họ dần dần đồng hoá với các thành phần dân cư khác, do đó vấn đề bộ tộc ở Ấn Độlàmột vẤn đề hết sức phức tạp. Cũng do đó mà Ấn Độcó nhiều thứ ngôn ngữ, đa dạng tôngiáo, chữ viết, phong tục tập quán và nghệ thuật. Theo số liệu thống kê Ấn Độcó 1600ngôn ngữ, trong đó có 200 ngôn ngữ chính thức và Hinđi là phổ biến nhất.2. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ ẤN ĐỘ CỔ, TRUNG ĐẠITừ khi bước vào xã hội có nhà nước cho đến khi bị thực dân Anh chinh phục, lịchsử Ấn Độ có thể chia thành 4 thời kì lớn: Thời kỳ văn minh lưu vực sông Ấn (đầu thiên niên kỉ III đến giữa thiên niên kỉII TCN) Thời kì Veda (giữa thiên niên kỉ II đến thiên niên kỉ I TCN) Ấn Độ thời kì từ VI TCN đến XII Ấn Độ thời kì từ thế kỉ XIII đến XIX2.1 Thời kì nền văn minh cổ nhất: văn minh lưu vực sông Ấn (đầu thiên niên kỉIII đến giữa thiên niên kỉ II TCN)Trong nhiều năm người ta chỉ được biết về thời đại đá mới. đồng và sự xuất hiệncủa các quốc gia sơ kì ở lưu vực sông Hằng, thì sự phát hiện một nền văn minh cổ xưa hơntrên lưu vực sông Ấn đã gây nên sự ngạn nhiên và thích thú cho giới khoa học cũng nhưmọi người quan tâm tới lịch sử Ấn Độ. Thực ra từ cuối thế kỉ XIX, từ năm 1875A.Cunnigham đã phát hiện ra địa điểm Harappa và đến đầu những năm 20 các nhà khảo cổẤn Độ mới khai quật đầy đủ 2 di sử là 2 thành phố cổ Harappa vàMohendjo Daro. Từ bấyđến nay còn có thêm một số thành thị cổ được phát hiện làm phong phú thêm những hiểubiết về nền văn minh cổ sông Indus, như Kot Diji, Kalibangan, Rupar, cảng thị Lothal.Chính việc phát hiện dấu tích các thành phố cổ trên các di chỉ Harappa và Mohendjo Darođã đưa dân tộc Ấn Độ trở thành chủ nhân của một nền văn minh vào hàng cổ nhất và pháttriển nhất thế giới. Hai địa điểm này cách nhau rất xa, chỉ tình cờ phát hiện được: Harappaở Tây Punjab vùng thượng lưu Indus, còn Mohendjo Daro ở vùng Sind, bắc hạ lưu Indus.Mỗi thành phố cổ này gồm có 2 khu: khu thánh là nơi có dinh thự đền đài và khudân cư. Theo báo cáo của J. Marshall: “Ở Ai Cập hoặc Lưỡng Hà những cung điện và đềnthờ quá nguy nga, đồ sộ, thật tương phản với nhà dân là những túp lều tranh vách đất.Nhưng ở thung lũng sông Indus những công trình kiến trúc đẹp nhất lại là những côngtrình được xây dựng vì sự tiện lợi của các công dân.”Khu dân cư là ngững đường phố quy hoạch tốt và một hệ thống tiêu nước đànghoàng, thường xuyên được nạo vét, phản ánh sự thận trọng của một chính quyền thườngtrực nào đó của thành phố.Ở đây có những ngôi nhà hai tầng, xây bằng gạch nung, những nhà tắm công cộngvà phòng tắm riêng “tốt nhất chưa hề thấy ở đâu”. Còn có những nhà kho đựng lúa, nhữngquầy hàng nhỏ nằm liền một dãy, những kho hàng gắn với những ngôi nhà riêng rộng rãicho thấy một cộng đồng thương nhân hùng mạnh và phồn vinh: nhiều đồ trang sức bằngvàng, bạc, đồ gốm có men, đồ đựng bằng đồng, một số loại vũ khí, một số tượng người vàdấu vết của vải dệt sợi bông.Còn ở Harappa tìm thấy 2000 con dấu hình vuông hoặc hình chữ nhật, bằng đấtnung có hình người, thú và có chữ. Đến nay người ta chưa đọc được chữ này nhưng condấu Harappa đã nói lên mối quan hệ buôn bán giữa lưu vực sông Indus với bên ngoài chủyếu với Iran, Trung Á, Tây Á. Căn cứ vào các hiện vật tìm thấy, văn hoá sông Ấn đượcđịnh niên đại vào khoảng 3000-1500 năm TCN vào thời kĩ nghệ đồng và đồng thau cùngthời với văn hoá cổ Ai Cập và Lưỡng Hà. Ở đây tuy kém về công trình kiến trúc đồ sộ vàsố lượng văn tự nhưng có phần hơn về kiến trúc và quy hoạch thành thị cổ, sàn phẩm thủcông, vải sợi bông và gốm tráng men.Chủ nhân của văn hoá sông Ấn chưa biết đến kĩ nghệ sắt, chưa biết dùng ngựa,không trồng lúa nước mà trồng đại mạch. Nhưng nông nghiệp đã phát triển, có thóc dưthừa chứa trong các kho dụn, cùng với sự phát triển của công thương nghiệp. Họ đã có mộtđời sống đô thị phát triển cả về vật chất và tinh thần đến mức ‘trên một vài phương diệnthậm chí còn cao hơn văn minh Lưỡng Hà và Ai Cập đương thời”.Tuy nhiên văn hoá sông Ấn có những dấu hiệu suy sụp nhanh chóng, thậm chí cóvẻ đột ngột và được nối tiếp bởi văn hoá sông Hằng ở đông- bắc mà chủ nhân là một bộtộc người đến sau, người Arya.2.2 Thời kì Veda (giữa thiên niên kỉ II đến giữa thiên niên kỉ I TCN)Thời kì này lịch sử Ấn Độ được phản ánh trong các tập Veda nên gọi là thời Veda.Veda vốn là những tác phẩm văn học gồm 4 tập: Rich Veda, Xama Veda, Atacva Veda,Yagiva Veda. Trong đó Rich Veda được sáng tác vào đầu thiên niên kỉ II TCN, ba tập cònlại được sáng tác vào đầu thiên niên kỉ I TCN. Bộ kinh đầu tiên Rich Veda cho biết về giaiđoạn đầu người Arya đến Ấn Độ(khoảng nửa sau thiên niên kỉ II TCN). Hai bộ sử thiRamayana và Mahabharata phản ánh tình hình đong- bắc Ấn Độtrong khoảng 1000- 700năm TCN. Puranas là một tập hợp huyền thoại tương đối muộn kể lại nguồn gốc của ngườiẤn Độ.Rich Veda là thư tịch gắn với giai đoạn này một cách thiết thực, nên tuy là một bộkinh Bàlamôn toát lên đầy sự huyền hoặc, nhưng cũng chứa đựng nhiều xác thực: các bộlạc Arya đang trên đường phân hoá, xã hội chia thành đẳng cấp giàu nghèo, các công xãđóng kín phân biêt với người bản địa có trước và giũa các công xã của người Arya vớinhau. Các tín ngưỡng tôn giáo ban đầu có thấm đượm vai trò của các tinh linh và có tínhchất tản mạn.Tuy nhiên Veda được viết lại tương đối muộn, nên ngoài điều ghi nhớ những gì đãdiễn biến đương thời (khi người Arya mới vào thung lũng sông Hằng) thì còn xen lẫn cảnhững sự kiện của thời sau. Sự xâm nhập của người Arya vào Ấn Độđã nhanh chóng rađời chế độ đẳng cấp Varna, là một chế độ phân biệt màu da giữa bốn đẳng cấp rất khắcnghiệt, nghiêm ngặt và khắt khe. Sau đó là sự ra đời của đạo Bàlamôn ở thiên niên kỉ ITCN khi người Arya đã làm chủ được phần lớn bán đao Ấn. Giáo lí của đạo Bàlamônchính là kinh Veda nói về kiếp “luân hồi nghiệp báo”, với nghi lễ phức tạp và xa xỉ thì đạoBàlamôn với giáo lí kinh Veda trở thành công cụ đắc lực bảo chế cho sự phân chia đẳngcấp do thần Brama sáng tạo, không bao giờ thay đổi.Veda còn cho biết quan niệm của tín ngưỡng Veda về số phận của con người hiệntại là kết quả, hay “nghiệp” (Karma) của kiếp trước và người ta mong mỏi ở một kiếp sautốt đẹp hơn. Con người phải nhận số phận và cái nghiệo vì đó là Đạo pháp (Dharma)- quytắc căn bản do thần thánh tạo ra.Nhưng hệ thống Varna và địa vị của tầng lớp Bàlamôn tối cao, bí hiểm và độcquyền với kinh Veda chi phối đã không còn thích hợp với sự chuyển biến xã hội qua 10thế kỉ và sự phát triển bành trướng của các quốc gia, lịch sử của đất nước Ấn Độbước vàongững giai đoạn khác.2.3. Ấn Độ thời kì từ thế kỉ VI TCN đến thế kỉ XII:Ấn Độ từ thế kỉ VI TCN đến thế kỉ XII đã có rất nhiều sự biến chuyển, có thể đi vào4 giai đoạn như sau:2.3.1 Các quốc gia ở miền bắc Ấn Độ và sự xâm lược của AlêchxăngdrơMakêđônia:Bắt đầu từ thế kỉ VI TCN, Ấn Độ mới có sử sách ghi chép về tình hình chính trị củađất nước mình. Lúc bấy giờ ở miền Bắc Ấn Độ có 16 nước trong đó mạnh nhất là nướcMagada hạ lưu sông Hằng. Trong số các nước ở Tây Bắc Ấn Độ chỉ có nước Po là tươngđối lớn. Năm 327 TCN, sau khi tiêu diệt Ba Tư, quân đội Makêđônia do Alêchxăngdrơ chỉhuy đã tẤn công Ấn Độ. Quân đội của nước họ đã chiến đấu rất dũng cảm nhưng cuốicùng bị thất bại. Alêchxăngđrơ định tiến sang phía đông tấn công nước Magada nhưngquân sĩ đẫ quá mệt mỏi sau một cuộc trường chinh nhiều năm nên phải rút lui, chỉ để lạimột lực lượng nhỏ chiếm đóng ở hai cứ điểm đã chiếm được mà thôi.2.3.2 Vương triều Môrya (321- 187 TCN):Ngay sau khi Alêchxăngđrơ rút lui, ở Ấn Độ đã dấy lên phong trào đấu tranh giảiphóng chống lại sự chiếm đóng của quân Makêđônia. Thủ lĩnh của phong trào này làSanđragupta, biệt hiệu là Môrya (chim công). Quân Makêđônia bị đuổi khỏi Ấn Độ,Sanđragupta làm chủ được cả vùng Pungiáp. Tiếp đó, ông tiến quân về phía Đông giànhđược ngôi vua ở Magađa, lập nên một triều đại mới gọi là vương triều Môrya, triều đại huyhoàng nhất trong lịch sử Ấn Độ cổ đại.Đến thời Axôca (273- 237 TCN) vương triều Môrya đạt đến giai đoạn cường thịnhnhất. Đạo Phật ra đời từ khoảng thế kỉ V TCN đến thời kì này được phát triển nhanh chóngvà trở thành quốc giáo. Sau khi Axôca chết, vương triều Môrya suy sụp nhanh chóng,nước Magadda thống nhất dần dần tan rã, đến năm 28 TCN thì diệt vong.2.3.3 Nước Cusan:Trong tình hình chia cắt ở Ấn Độđang diễn ra trầm trọng thì vào thế kỉ I tộc Cusan(cùng huyết thống với người Tuốc) từ Trung á tràn vào chiếm được miền Tây Bắc Ấn Độlập thành một nước tương đối. Vua nước Cusan là Canixca (78- 123) cũng là người tônxùng đạo Phật nên thời kì này Phật giáo cũng rất hưng thịnh. Sau khi Canixca chết, nướcCusan ngày càng suy yếu, đến thế kỉ V thì diệt vong.2.3.4 Vương triều Gúp ta và vương triều Hacsa:Trong thế kỉ IV Ấn Độ lại bị chia cắt trầm trọng. Năm 320, vương triều Gúpta đượcthành lập, miền Bắc và một phần miền Trung Ấn Độ tạm thời thống nhất. Từ năm 500-528phần lớn miền Bắc Ấn Độ bị người Eptalil xâm chiếm và thống trị đến năm 535 triềuGúpta diệt vong.Năm 606 vua Hacsa lại dựng lên một vương triều tương đối hùng mạnh ở miền BắcẤn Độ. Chính trong thời kì này, nhà sư Huyền Trang của Trung Quốc đã sang Ấn Độ đểtìm Kinh Phật. Năm 648, Hacsa chết, quốc gia hùng mạnh do ông dựng lên cũng tan rã.Từ đó cho đến thế kỉ XII, Ấn Độ bị chia cắt càng trầm trọng và nhiều lần bị ngoạitộc xâm nhập. Đặc biệt từ đầu thế kỉ XI, Ấn Độthường bị các vương triều Hồi giáo ởApganixtan tấn công và đến năm 1200 toàn bộ miền Bắc Ấn Độ bị xâm nhập vàoApganixtan.2.4 Thời kì từ thế kỉ XIII đến XIX:Thời kì Xuntan Đêli (1206- 1526):Năm 1206, viên tổng đốc của Apganxtan ở miền Bắc Ấn Độđã tách miền Bắc ẤnĐộthành một nước riêng tự mình làm Xuntan (vua) đóng đô ở Đêli gọi là nước XuntanĐêli (vương quốc Hồi giáo Đêli). Từ đó đến năm 1526 ở miền Bắc Ấn Độ đã thay đổi đến5 vương triều, nhưng đều do người ngoại tộc theo Hồi giáo thành lập, đồng thời đều đóngđô ở Đêli nên thời kì này gọi là thời kì Xunta Đêli.Thời kì Môngô (1526- 1857)Nước Mông Cổ do Thành Cát Tư Hãn thành lập năm 1206, sau khi chết 1227, đếquốc Mông Cổ chia nhỏ thành nhiều nước. Dòng dõi người Mông Cổ ở Trung Á đều Tuốchoá và đều theo đạo Hồi. Thế kỉ XIII, người Mông Cổ ở Trung á nhiều lần tẤn công ẤnĐộ, năm 1526 chiếm được Đêli thành lập nên vương triều Môngô (Mông Cổ). Từ giữa thếkỉ XVIII thực dân Anh bắt đầu chinh phục Ấn Độ, đến 1849 Ấn Độhoàn toàn biến thànhthuộc địa của Anh, vương triều Môngô đến năm 1857 bị diệt vong.Như vậy từ điều kiện tự nhiên và dân cư đến những nền văn minh cổ nhất và từngbước Ấn Độ để lại những trang sử hào hùng khi trải qua nhiều giai đoạn lịch sử và nhiềubiến động gay go ở thời kì cổ trung đại, là cơ sở và tiền đề để lịch sử Ấn Độ đi lên nhữnggiai đoạn biến đổi ngày càng cao hơn.Đánh giá chung:Có thể nhận thấy rằng chính vì một phần điều kiện tự nhiên thuận lợi, nguồn gốc cưdân đa dạng cùng với lịch sử văn hóa lâu đời đã tạo điều kiện cho văn minh Ấn Độ đượctạo điều kiện phát triển ngay từ những giai đoạn đầu của lịch sử. Đó là tiền đề lý tưởng chovăn minh Ấn Độ phát triển với nhiều lĩnh vực đa dạng.CHƯƠNG IINHỮNG THÀNH TỰU CHÍNH CỦA VĂN MINH ẤN ĐỘ1. Chữ viết:Dưới thời đại Harappa chữ viết đầu tiên ở Ấn Độ được sáng tạo. Tại các di chỉthuộc nền văn minh Miền Bắc lưu song Ấn được phát hiện hơn 3000 con dấu khắc chữ đồhọa. Đây là một loại chữ dùng hình vẽ để ghi âm và ghi vấn.Trong số 3000 con dấu có 22dấu cư bản. Loại chữ này viết từ phải sang trái. Những con dấu đã phát hiện được lànhững con dấu dùng để đóng trên các kiện hàng để xác nhận hàng hóa và chỉ rõ xuất xứcủa những hàng hóa đó. Khoảng 800 năm TCN, khoảng thế kỉ V TCN bắt đầu xuất hiệnchữ viết được khắc trên hiện vật sớm nhất là chữ Kharosthi. Đây là một loại chữ phỏngtheo chữ viết của vùng Lưỡng Hà. Chữ Kharosthi có nguồn gốc chữ Aramaic ở Tây Áđược dung ở Iran và vùng Tây Bắc Ấn Độ. Trên bán đảo Ấn Độ dụng rộng rãi hơn là chữBrami,có nguồn gốc Sêmitic cũng ở Tây Á. Những địa phương Bắc Ấn, nhất là vùngMagadha người ta ngày càng quen nói một thứ tiếng Ấn - Âu đã chuyển hóa, cải biến trởthành thơ ngữ Prakrita. Sau đó người ta lại cải biên và sang tạo một hệ thống mẫu mực đểghi chép, đó là chữ Pali.So với chữ Sanskrit, chữ Pali đơn giản hơn về âm tiết, biến cách, cú pháp và đơngiản hơn về nét chữ. Chẳng hạn Kostha(Skr): Kottha (Pali): kho; Suvarna (Skr): savanna(pali)vàng; Dhamma(pali) : Đạo pháp. Chữ Pali chủ yếu để viết kinh phật nên kém pháttriển so với chữ Sankrit. Dưới thời Asoca cho dựng nhiều cột đá để ghi các chiến côngcủa mình, rải rác hầu hết khắp bán đảo Ấn Độ. Các cột này được khắc bằng chữ viếtthông dụng của người địa phương: ở vùng Tây Bắc khắc chữ Kharosthi, vượt qua dãyHindu Kush còn khăc cả chữ Hi Lạp nhưng ở miền bắc và miền nam Ấn là chữ Brami.Rất nhiều con dấu và đồ trang sức được tìm ở Ấn Độ và nước ngoài. Tuy nhiên chữKharosthi và Brami không có cơ hội phát triển vì không phải là văn tự và ngôn ngữ bảnđịa của Ấn Độ.Trên cơ sở chữ Brami, người Ấn Độ lại đặt ra chữ Đêvanagari có cách viết đơngiản thuận tiện hơn. Đó là thứ chữ mới để viết tiếng Sanskrit. Đến khoảng thế kỷ X, XItrở đi Ấn Độ xuất hiện nhiều loại chữ khác nhau.2. Văn học:Văn học Ấn Độ có một khối lượng rộng lớn, một nội dung phong phú phức tạp vớimột trình độ nghệ thuật rất cao.Nó không những là cái gia tài khổng lồ của dân dân tộcẤn, mà còn là một kho tang vĩ đại của nhân loại2.1. Kinh Tôn Giáo:Kinh Veda vốn là hiểu biết của nhân dân Ấn Độ.. Nguồn gốc: Ba tập Veda trên lànhững bài ca và những bài cầu nguyện phản ánh tình hình người Aryan tràn vào ÂnĐộ,tình hình tan rã của chế độ thị tộc,tình hinh cư dân đấu tranh với thiên tai như hạn hán,lũ lụt. Thời gian: thiên niên II TCN. Cấu tạo gồm bốn phần: Rig Veda, SamaVeda,AtharvaVeda, YajuaVeda.Đặc biệt Rig Veda có 1028 bài thơ là tập quan trọng nhất, sáng tác và thu thập từthế kỷ X TCN. Nội dung phản ánh quá trình người Aryan vào và tất cả sinh hoạt nguyênthủy của họ. Nó là một kho tàng văn học thần thoại vô cùng phong phú và phức tạp.ThơRing Veda là bức tranh rất đẹp mô tả thiên nhiên ở những nơi người Aryan đi qua và địnhcư,lúc đầu thì bất cứ vị thần thiên nhiên nào ở trong Ring Veda đều có quyền lực nhưnhau để sang tạo ra của cải vật chất và hạnh phúc trần thế cho con người và được conngười ca ngợi như nhau.Nhưng về sau thì người ta quy tất cả mọi quyền lực ấy vào chomột đấng sang tạo duy nhất và tối cao.Atharva Veda gồm731 bài văn vần, chủ yếu gồm những bài chú nhưng nội dungmà tập Veda này đề cập là chế độ đẳng cấp,việc hành quân,chữa bệnh…Ca ngợi thần sétIndra.Nói về uy quyền của đẳng cấp Bàlamon khi họ làm cố vấn tôn giáo cho nhàvua,Atácva viết:“Sắc hơn lưỡi búaSáng hơn ngọn lửaVang hơn tiếng sét của IndraCố vấn của người như thế chính là ta”Sama Veda gồm 1549 bài thơ là trí thức viết về các giai điệu ca chầu khi hành lễ.Yagiue Veda là một chuỗi các công thức hàm chứa những nghi lễ khác nhau (nghilễ dâng trăng tròn,trăng mới,nghi lễ dâng các vong nhân,dâng bốn mùa)Ngoài ra còn có những bài thơ tỏ tình. Kế tiếp Veda còn có những tác phẩmBramana,Araniaca…Những sách này đều viết bằng văn xuôi.nội dung bao gồm những bàicầu nguyện,thần chú,những ngi thức cúng bái,những lời giải thích triết lý trong kinh Vedachứ về văn học thì không có giá trị đáng kể.2.2 Sử thi:Sử thi là một bức tranh sinh động phản ánh đời sống tư tưởng của nhân dân Ấn Độqua những cuôc xung đột vũ trang của các vương quốc,giữa những chủng tộc sống trênđất Ấn Độ.Sử thi còn là bài ca vĩ đại ca ngợi những chiến công hiển hách,khí phách hàohung của các anh hung lý tưởng mà nhân dân Ấn Độ cổ xưa ngưỡng mộ và tôn thờ.Cácdân tộc Ấn Độ để lại kho tang văn học nhiều bản anh hùng ca viết bằng những ngôn ngữkhác nhau.Trong đó Mahababharata và Ramayana được viết bằng chữ sankrit mang tầmcỡ được gọi là sử thi cổ điển đích thực.Mahabharata: ra đời vào nửa thiên niên I TCN, tác giả:Viasa (tương truyền).Mahabharata là cuộc chiến tranh lớn của dòng Bhrat. Đây là tập sử thi vĩ đại của ngườiHinĐu có 18 chương gồm 220.000 câu thơ, là bộ sử thi dài nhất thế giới.Bộ sử thi này thuộc về tập thể nhiều người, trong vòng ít nhất là vài ba thế kỷ, chođến năm, sáu thế kỷ mới hoàn thành. Sử thi Ấn Độ này là “hằng hà sa số” sáng tác dângian truyền miệng, kết lại thành hệ thốngđược , tạo thành kho bách khoa toàn thư của ẤnĐộ. Tuy nhiên một số người sưu tập và biên soạn là học giả và tu sĩ Balamôn. Họ nắmđộc quyền tinh thần và học vấn trong xã hội Ấn Độ. Họ đem giáo lý giải thích chuyện đórồi xâu tất cả vào một chủ đề nhất định theo tinh thần tôn giáo. Họ muốn dung tập sử thinày đẻ khẳng định địa vị thống trị và nguồn gốc thần thánh của Blamôn.Chủ đề của tập thơ vĩ đại là cuộc chiến tranh lớn giữa hai dòng Lôrava và Panđara.Hai dòng đánh nhau để cướp vương quốc mà kinh đô là Varotinapura (đô thành voi). Dấutích của đô thành này vẫn còn cho đến ngày nay cách đến Thành Phố Delvi 9 cây số vềphía Đông Bắc trên một dòng sông cũ của sông Hằng.Nội dung của Mahabharata: “Ở thành phố Haxtivapua có một dòng họ vua chúagọi là Curu vốn là con cháu vua Bharata. Dòng họ này có hai an em là Đvitarattơra vàPanđu.Vì người anh bị mù ên Panđu được làm vua. Đivitarattơra có 100 con trai, gọichung là anh em Curu còn Panđu có 5 con trai, gọi chung là anh em Panđu. Sau khi Panđachết,anh em Curu và anh em Panđu chia đôi vương quốc. Nhưng vì muốn chiếm toàn bộđất nước, anh em Curu đã thách anh em Panđu đánh bạc. Nhờ gian lận,anh em Curu thắngliên tiếp. Bị mất hết mọi của cải, anh em Panđu đặt phần đất nước của mình vào canh bạcnhưng cũng bị thua nốt.Theo lời giao hẹn,anh em Panđu bị trục xuất và phải trốn tránhtrong 13 năm,không được để phía anh em Curu phát hiện.Hết kì hạn, anh em Panđu trở về yêu cầu anh em Curu trả lại đất đai cho họ, nhưngbị từ chối, do đó một cuộc chiến tranh khốc liệt giữa hai bên bùng nổ. Sau 18 ngày đánhnhau dữ dội, hàng trăm triệu người đã bị tử trận, phe Curu chỉ còn 3 người sống sót,cả100 anh em Curu đều chết. Phe Panđa tuy thắng lợi nhưng cũng chỉ còn lại 6 người,trongđó có 5 anh em Panđa.”Tập sử thi là một loạt những mâu thuẫn xã hội được phản ánh rõ rệt. Chiến tranh 1dòng họ biểu hiện sự suy tàn của chế độ huyết thống trong thị tộc, công xã và sự thịnhvượng của nhà nước và quốc gia nô lệ. Mâu thuẫn giữa dân chủ bộ lạc với được giảiquyết bằng sự hình thành nhà nước nô lệ và thành lập vương quốc. Tiếp đó là mâu thuẫntrong nội bộ giai cấp thống trị. Tất cả các mâu thuẫn trên đó cũng dồn thành chiến tranhlan rộng và có sức tàn phá mãnh liệt làm cho cả một nền văn minh dựa trên c ơ sở vănminh nô lệ đại thịnh vượng phải chậm lại một thời gian. Về sau quốc gia nô lệ vẫn tồn tạinhưng bắt đầu xuất hiện những mầm mống của Chế độ Phong kiến.Trong bối cảnh chằng chịt những mâu thuẫn ấy nổi lên một tinh thần văn minh sâusắc thể hiện ở hệ thống nhân vật. Tinh thần nhân văn được thể hiện bằng truyền thốngđácma nghĩa là đạo đức hiền hòa, bình đẳng, bác ái của thời kì công xã nguyên thủy.Truyền thống đácma còn tồn tại trên thực tế tạo thành nền tảng tinh thần của nhân dân khixã hội chưa có giai cấp.Về sau trong quốc gia nô lệ, hệ thống Đarta thay thế hệ thốngĐacma. Hệ hống Đarta tiểu biêu cho quyền tư hữu, gia đình phụ quyết,trước kia choquyền tư hữu.Trước kia khi giải quyết công việc chung công chúng làm trọng tài,sau nàychỉ còn việc xử phạt bằng sức mạnh và của cải để bảo vệ quyền tư hữu cha truyền connối.chính vì thế nhân dân luôn quay về với truyền thống Đácma. Cho nên cần nhận rõ sựxung đột giữa truyền thống Đácma và quyền lực mới và tinh thần cơ bản của sử thiMahabharata. Nhân dân mong ước và phấn đấu cho một Đácma thật sự, còn giai cấpthống trị lại dựng cái vỏ Đácma khoác cho quyền lực mới để đánh lừa dân chúngCùng với thời gian, những câu chuyện như vậy không ngừng được bổ sung vàolàm cho tác phẩm càng thêm phong phú. Và tác phẩm có thể được đánh giá “Cái gìkhông tìm thấy trong Mahabharata thì sẽ không có ở Ấn Độ”.Ramayara: Tác phẩm được triển khai trên phương diện chiến công và tình yêu.Anh hùng thì ai cũng dễ nhận ra trên phương diện chiến công còng tình yêu là cái khôngphải ai cũng thể hiện được và cũng không phải cũng dễ nhận ra. Nếu Mahablarata là quốcca bi tráng mà rất đỗi hào hùng thì Ramayana lại là một hòa âm êm dịu hơn.Ramayana VII chương, 24.000 câu thơ đôi, tức 48.000 dòng thơ. Chủ đề của tácphẩm là chuyện tình duyên giữa hoàng tử Rama và người vợ chung thủy Sita. Xưa kia ởvương quốc Côxala có ông vua già yếu tên là Dasaratha, có 4 người con trai do bà vợ sinhra. Con cả RaMa hơn hẳn các em về tài đức, vua có ý định nhường ngôi cho chàng, nhưngvì bị trói buộc lợi hứa với bà vợ thứ hai Kaikeiy xinh đẹp cho nên đã đẩy Rama vào rừng14 năm và trao ngôi cho Bharata-con của Kakeiy.Vợ Rama, nàng Sita cùng em traiLaskuana tình nguyện theo Rama vào rừng sống,luyện tập võ nghệ,ăn quả rừng,uốngnước suối chịu đựng cuộc đời khổ hạnh.Quỷ vương Ra ở đảo Ranka lập mưu đồ cướp nàng Sita đem về làm vợ. Hắn dụ dỗvà ép buộc nàng nhưng nàng kịch liệt chống cự. Mất Sita,Rama đau buồn khôn xiết,chàng quyết tâm cứu bằng được vợ trở về. Trên đường đi Rama gặp được sự giúp đỡ củavua khỉ XuGniva sau đó chàng được tướng khỉ Hamuman, cùng đàn quân khỉ giúp. Cuốicùng Rama cũng cứu được Sita. Nhưng sau chiến thắng vẻ vang đó, Rama ngi ngờ tiếthạnh của Sita nổi cơn ghen dữ dội , không muốn nhận lại nàng làm vợ. Để Rama tin vàolòng thủy chung của mình Sita đã bước vào lửa. Thần lửa Anhi biết được nàng trong sạchđã cứu nàng. Biết được sự thật, biết được một lòng thủy chung của Sita. Rama đã vô cùngsung sướng, dang tay đón nàng. Cả hai người đưa nhau trở về trong cảnh chào đón nồngnhiệt của dân chúng, Rama và Sita là một chủ đề của thiên sử thi đầy mê hoặc này.Có tìnhyêu nào mà được đưa lên đỉnh cao tuyệt mỹ và cũng chịu bao trầm luân trong hố thẳm củahận sầu thiên thu. Tên của nàng Sita có nghĩa là luống cày-con của nữ thần mẹ đất, nàngtừ đất đi ra và qua cuộc thử lửa rạng ngời như Mặt trời,Mặt trăng- đó là khát khao của lýtưởng nhưng trong thẳm sâu đó là nỗi đau đáu nàng về lại với đất.Nếu sử thi Mahabrata nói lên khát vọng tâm linh cao cả mang tính tôn giáo –triếthọc thì Rmayana thể hiện tâm hồn trong sáng và nồng cháy yêu thương,che chở an ủinhững nỗi khổ của con người: “Chừng nào sông chưa cạn, núi chưa mòn thì Rmayanacòn làm say mê lòng người và cứu vớt họ ra khỏi tội lỗi”Hai bộ sử thi Mahabharata và Ramayana là những công trình sáng tác tập thể củanhân dân Ấn Độ. Đây là những bộ sử thi đồ sộ gấp 4 lần “Iliat và Ôđixe” của Hy Lạp,những tác phẩm được nổi tiếng được bổ sung từ thế hệ này qua thế hệ khác và trở thànhniềm tự hào của văn học Ấn Độ, trở thành nguồn cảm hứng cho các thể loại văn học khácvà lan truyền hầu hết các nước Đông Nam Á trong đó có Việt Nam.Vì thế người ta gọi ẤnĐộ là sứ sở của sử thi.2.3. Những tác phẩm của CaliĐaxa:Ấn Độ không chỉ rưc rỡ bởi sử thi tiêu biểu là vở kịch Socuntla.CaliĐaxa là nhàthơ và nhà soạn kịch lớn nhất thời Gupta(thế kỉ V).Tuy là nhà soạn kịch cung đình,lại chịu ảnh hưởng của đạo Blamôn nhưngCaliĐaxa thể hiện trong tác phẩm của mình tư tưởng tự do,chống lại lễ giáo khắt khe,lênán bản chất giả dối,lừa gạt…Vở kịch Socuntla có nội dung phỏng theo một câu chuyện dan gian,chép trong sửthi Mahabharata nhưng được tác giả cả biên và thêm nhiều tình tiết .Vở kịch miêu tả câuchuyện tình duyên giữa nàng Socuntla và vua Đusonta,trải qua nhiều éo le trắc trở, cuốicùng hai người được đoàn tụ và được hạnh phúc đời đờiCốt truyện của vở kịch là:vua Đusonta đi săn trong rừng,tình cờ đến vườn tu của đạo sĩKawa. Đạo sĩ còn đi vắng ,nhà vua gặp Sơcuntona,con gái nuôi của đạo sĩ,vua cảm sắcđẹp của nàng, yêu nàng, muốn lấy nàng làm vợ. Sơcuntơna lín đáo và e thẹn, nhưng cũngkhông dấu nổi tình yêu. Sợ vua là bấc quốc vương không hiểu nổi mình, nàng dùng ngóntay đề thơ trên lá sen để thổ lộ tâm tình với nhà vua. Hai người gặp nhau kết hôn theo tụcGadarava của các nữ thiên thần, nghĩa là không cần ý kiến cha mẹ. Nhưng nhà vua phảivề kinh đô. Trước khi lên dường, Đusơnta thề thốt đủ điều, trao cho nàng chiếc nhẫn cókhắc tên mình làm tin và hứa sẽ cho người đón nàng vào cung làm hoàng hậu. Xa ngườiyêu, Sơkuntơla nhớ nhung sầu muộn, chẳng để ý mọi việc chung quanh. Một hôm,có đạosĩ Đurava đi qua vườn gặp nàng, xin vào trọ. Nàng còn bần thần ngơ ngác, nên khôngchào hỏi và đáp lại. Đạo sĩ tức giận, đọc thần chú nguyền rủa nàng, bắt người yêu củanàng sẽ mất hết trí nhớ và quên hẳn nàng đi để trị tội nàng đã vô lễ với mình. Hai cô bạncủa nàng nge thấy,để xin đạo sĩ giảm tội cho nàng. Đạo sĩ bằng lòng sửa lại lời thần chú,cho phép người yêu của nàng sẽ phục hồi trí nhớ và trở lại yêu nàng khi nào thấy lại chiếcnhẫn. Sơcuntona đang có mang lại ốm tương tư, các bạn gái hết lòng chăm sóc, khôngmuốn gây phiền muộn thêm cho nàng, nên giấu câu chuyện thần chú kia đi. Đạo sĩ Kanwatrở về. Tiếng hát thiên thần mách cho đạo sĩ biết là mệnh trời thuận cho Đusonta vàSơcuntơna kết duyên và sẽ dành cho vợ chồng nàng một hoàng tử hết sức vinh hiển saunày.Vì thần chú ứng nghiệm nhà vua quên nàng,không cho người trở lại đón nàng,màtheo lễ giáo là con gái lấy chồng không thể ở nhà cha mẹ được,sợ tai tiếng,nên Kanwaphải cho sư nữ Gôtami và hai môn đệ tuổi trẻ Sơcuntơna vào kinh yiết kiến vua.Nàngcùng người nhà vào cung trình vua đủ mọi điều.Nhưng vua không nhận ra vì mất hết trínhớ, theo lời dặn của các cô bạn nàng,nàng định rút chiếc nhẫn ra trao cho vua, nhưngkhốn thay nàng đã vô ý đánh rơi nhẫn lúc qua song Hằng rồi. Nhà vua mắng mỏ nàng làbịa đặt gian dối. Không nén được giận nàng cũng mắng nhà vua là phường bội bạc. Nhàvua ruồng bỏ nàng. Các tu sĩ sợ hãi bỏ ra về, không dám cho nàng về theo, vì ngại phạmlễ giáo như đã nói ở trên.Tuyệt vọng Sơcuntơna bỏ đi,kêu khóc thảm thiết: “Hỡi thần linhđất thiêng! Hãy mở rộng lòng đón con”.Thế là một đám mây mờ cuốn nàng đi mất.Về saumột người đánh cá tìm được chiếc nhẫn, đem bán ở kinh thành. Lính nhà vua bắt được,thấy tên vua trên nhẫn tịch thu vào cung nộp.Vua đươc nhẫn phục hồi trí nhớ,nhớ đếnSơcuntona người yêu cũ rồi hối hận đau buồn,cố vẽ lại hình ảnh nàng cho đỡ nhớ. Bảynăm qua,sau khi lên trời đẹp trời quái thắng lợi, nhà vua được Kasypa và Aditi là cha mẹcủa các thiên thần ban thưởng cho gặp lại vơi con và hứa sẽ cho đứa con trở thành một vịminh quân nối ngôi cha trị vì thế gian. Vợ chồng sum họp,vui sướng đem con trở vềvương quốc.Là một nhà soạn kịch của triều đình, chịu ảnh hưởng của tôn giáo của tư tưởngthống trị và nghệ thật quý tộc,Kalidaxa không thể nào xa rời những quy phạm khắc khecủa thơ ca và sân khấu triều đình.Dù vậy nhưng ông cũng đem đến cho người đọc nhữngcái mới mẻ độc đáo. Suốt 15 thế kỷ nay,Socuntla đã trở thành nguồn cảm hứng, nguồn đềtài của nhiều nghành nghệ thuật khác nhau của Ấn Độ. Gớt nhà thi hào Đức đã không tiếclời ca ngợi:“Nếu muốn có một tiếng ôm ấp được cả hoa mùa xuân và trái mùa thu,Một tiếng làm đắm say nuôi dưỡng và thỏa mãn được tâm hồn.Nếu muốn có một tiếng bao gồm được cả trời đất,Thì tôi gọi:Sơcuntla.Tiếng đó nói lên tất cả.”Ông được xếp vào loại nhà văn của Thế Giới.2.4. Truyện ngụ ngôn:Là thể loại văn học ra đời sớm ở Ấn Độ có hai vở nổi tiếng là Panchatatra (5phương pháp), Hyôadesha (lời khuyên tốt). Lấy các loài vật hèn mọn làm chủ đề của tácphẩm. Kết thúc câu chuyện thường là triết lý nhằm thể hiện luân lí quy tắc cai trị đấtnước.2.5. Các tác phẩm văn học viết bằng các phương ngữ:Từ cuối thế kỉ X về sau,ngoài văn học tiếng Xanxerít đã xuất hiện nhiều tác phẩmvăn học viết bằng các loại phương ngữ khác nhau.Vào thế kỉ XIII, nhà thơ Tichcala đã dịch 15 chương trong bộ sử thiMahabharata ra tiếng Têlugu, làm cho nền văn học cổ điển càng được phổ cập rộng rãi.Đến thế kỉ XVI, XVII, dưới triều Môgôn, có một số nhà thơ đã sáng tác bằng tiếngBa Tư. Tuy nhiên,phong phú nhất vẫn là nền văn học bằng tiếng Inđi và các loại ngônngữ địa phương khác. Thiên đường ca Ramayana do Tunxi Đát viết bằng tiếng Inđi làmột tác phẩm nổi tiếng được nhân dân rất ưa thích.Tập thơ Xuốc của nhà thơ mù Xuốc Đát viết bằng một loại phương ngữ khác trongtiếng Inđi mà chủ đề chính là chủ nghĩa anh hùng và tình yêu cũng là một tác phẩm có giátrị.Những bài ca du dương, gợi cảm ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên Ấn Độ của ca sĩ kiêmnhà thơ Tanxen cũng rất nổi tiếng.Đặc trưng chung của nền thi ca giai đoạn này là dùng ngôn ngữ dân gian chứkhông dung ngôn ngữ cung đình,đồng thời còn sử dụng nhiều chất liệu trong văn học dângian, phản ánh được tâm tư nguyện vọng của quần chúng nên được nhân dân rất thíchthú..3. Nghệ thuậtDo sớm hình thành với lịch sử văn hóa lâu đời cùng với sự đa dạng trong thànhphần dân tộc nên Ấn Độ đã đạt được nhiều thành tựu nghệ thuật đặc sắc, đóng góp lớncho sự phát triển của nền nghệ thuật nhân loại. Một số trong đó còn phát triển ở đỉnh cao,là thước đo mẫu mực, có tầm ảnh hưởng to lớn tới các quốc gia khác đặc biệt là các quốcgia khu vực châu Á. Sự phát triển của nghệ thuật Ấn Độ thời kỳ cổ trung đại được biểuhiện trên nhiều lĩnh vực đa dạng như âm nhạc, mỹ thuật, kiến trúc, điêu khắc,... nhưngđược biết đến nhiều hơn cả là thành tựu trên 2 lĩnh vực kiến trúc và điêu khắc.Có thể thấy một đặc điểm chung giữa nghệ thuật Ấn Độ với các thành tựu trên cáclĩnh vực văn hóa khác là chúng đều thấm đượm chất tâm linh, tôn giáo rất sâu đậm củaHinđu giáo, Phật giáo và Hồi giáo. Những công trình mỹ thuật được xây dựng ở nhiểuthời kỳ khác nhau, nhiều niên đại khác nhau, nhiều vùng văn hóa khác nhau với phongcách – vật liệu biểu đạt khác nhau (thường là sa thạch và cẩm thạch) tạo nên sự đa dạng,phong phú nhưng vẫn mang một bản chất Ấn Độ rõ nét. Được đánh giá là “sự kết hợphoàn hảo giữa những khát vọng tâm linh thánh thiện với khuynh hướng túng dục trầnthế”3.1 Điêu khắc:Có thể phân chia theo một cách tương đối thì nghệ thuật điêu khắc của Ấn Độ thờicổ trung đại chia thành 2 khuynh hướng lớn là: điêu khắc theo đạo Phật và điêu khắctheo đạo Hin-đu. Sở dĩ có sự phân chia này bởi có hai nguyên nhân rất đặc trưng. Thứnhất, như đã biết hầu hết các ngành văn hóa của Ấn Độ “thấm đượm chất tâm linh, tôngiáo rất sâu đậm” mà điêu khắc cũng không nằm ngoài sự ảnh hưởng đó. Nguyên nhânthứ hai là những hình tượng điêu khắc được sử dụng nhiều thông qua các hình tượng phùđiêu. Các tôn giáo khác tuy cũng có những điêu khắc, phù điêu nhưng không đạt đượcnhiều thành tựu đáng kể. Tuy nhiên cần nhận thức được rằng đây chỉ là cách chia tươngđối giúp ta có thể nắm được cái nhìn tổng thể, cơ bản nhất về nghệ thuật điêu khắc Ấn Độthời cổ trung đại chứ không mang tính chất chính quy, truyền thống. Và cách chia nàycũng chỉ được áp dụng riêng cho nghệ thuật điêu khắc.3.1.1 Điêu khắc theo đạo Phật:Có nhiều nguyên nhân khách quan mà nghệ thuật điêu khắc của Ấn Độ bị hạn chếphát triển trong một thời gian tương đối dài, nhất là trong giai đoạn đầu tiên của lịch sử.Cho mãi đến khi đạo Phật với dòng Đại thừa ra đời, việc phản đối thờ thần, tượng, ảnh bịxóa bỏ mới tạo điều kiện cho điêu khắc phát triển. Khi nghệ thuật điêu khắc lấy lại vị trícủa mình (khoảng năm 200 TCN), mới ban đầu chỉ là các phiến đá chạm nổi làm hàng ràochung quanh các stupa (tháp) Phật, hoặc các nấm mộ ở Bodh-gaya và Bharhut- tức làtrong khoảng thời gian đầu đó, điêu khắc chỉ là một ngành phụ của nghệ thuật kiến trúcchứ chưa có hẳn một vị trí như một ngành nghệ thuật riêng. Điêu khắc giữ nguyên vị tríphụ thuộc đó trong suốt lịch sử phát triển của nó, ưa kỹ thuật chạm nổi hơn là kỹ thuậtđục thành tượng (ronde-bosse). Trong các đền Jain ở Mathura, các điện Phật ở Amaravativà Ajanta, nghệ thuật chạm nổi đó đã đạt tới tột đỉnh. Nó được đánh giá là “đóa hoa đẹpnhất, có xuân tình nhất của ngành điêu khắc Ấn”.Thời vua Ashoka (273- 237TCN) ở Ấn Độ đã xuất hiện nhiều cột đá (lat) tượngtrưng cho một thứ trụ trời, nổi tiếng nhất là chiếc cột đá Sarnat ở vườn Lộc Dã, nơi xưakia Đức Phật Thích Ca đã thuyết pháp bài giảng đầu tiên. Đáng chú ý nhất là chiếc trụtrên đỉnh cột ta thấy hình ảnh 4 con sư tử lớn đấu lưng vào nhau trong tư thế tự vệ, dángđiệu chịu ảnh hưởng của Ba Tư, ở dưới 4 con sư tử đó có một trụ ngạch dài chạm trổ rấtkhéo, ta nhận được một con vật đậm chất Ấn- con voi cùng với hình bánh xe luân hồi,tiêu biểu cho Ấn Độ, ở phía dưới trụ gạch có một bông sen lớn bằng đá mà mới đầu ngườita tưởng đó là một kiểu trang trí đậm chất Ba Tư mà bây giờ mới nhận ra đó là kiểu trangtrí cổ nhất, lưu hành nhất, đặc biệt nhất trong mọi biểu trưng của trang trí Ấn. Bông senđó có hướng lên trên, nhưng cánh rủ xuống đất, nhụy hiện lên rõ ràng, như kiểu cái rốncủa vũ trụ, hoặc được dùng làm cái ngai của một vị thần vì người Ấn cho rằng đó là hìnhđẹp nhất trong thiên nhiên. Hình tượng 4 con sư tử ngồi, dáng vẻ dũng mãnh oai vệ nhìnra bốn phương ngày nay được dùng làm quốc huy cho nước Cộng hòa Ấn Độ.Sau các cột đá là các tháp Phật (Stupa) hình bán cầu được coi như những nơi tưởngniệm Phật, trong lòng có chứa ít tro xương của Đức Phật và các vị Bồ Tát. Tháp Sanchi I(còn gọi là Đại Stupa) có niên đại từ Tr.CN bằng gạch được ốp đá. Đó là một bán cầu cao15m, đường kính 35m, tượng trưng cho “quả trứng vũ trụ” khổng lồ, chung quanh cóhàng rào và hệ thống cổng đá được chạm khắc rất tinh vi, sinh động. Ứng với bốn hướngđông, tây, nam, bắc là bốn cổng bằng đá, mỗi cổng bao gồm hai cột đứng thẳng đỡ ba xàngang hơi cong bắc ngang, biểu tượng của tam thế (quá khứ, hiện tại, tương lai) tronggiáo lý nhà Phật. Ở mỗi cột, mỗi đầu cột, mỗi cây chéo, mỗi cây chống đều đầy hìnhchạm nổi, được đánh giá là “đạt đến trình độ điêu luyện của nghệ thuật chạm nổi”, “mộtthảm điêu khắc dày đặc, sống động và tinh tế”. Những nghệ nhân Ấn Độ tài hoa đã sángtạo nghệ thuật theo chủ đề tôn giáo, thể hiện một cảm xúc tràn trề, đắm say đối với cáiđẹp và đối với cuộc sống. Những hình ảnh chạm nổi đủ các loại thảo mộc, thú vật, ngườivà thánh thần hết sức tinh vi, uyển chuyển và mềm mại.Được chạm khắc nhiều hơn cả là những hình ảnh huyền thoại về nhà Phật: bánh xepháp luân, những tín đồ sống khổ hạnh, những hình ảnh về cuộc sống của Phật. Ở cổngphía Đông, trên các cột đá có một mặt chạm khắc cảnh Thích Ca Mâu Ni ngồi thiền địnhdưới gốc cây bồ đề, chân xếp, tay chắp lên ngực, mắt nhìn xuống ẩn chứa bao nỗi niềmtrăn trở, từ bi,… Tất cả đều được khắc họa rất sinh động, tinh vi để trong tâm tư người đờithấy sự tĩnh lặng và dòng thời gian trong cái nhìn ẩn dật đó.Điều đặc biệt mà người ta tìm thấy ở tháp Sanchi không chỉ ở bởi kiến trúc độc đáomà còn bởi nó là tuy là một công trình Phật giáo nhưng còn mang âm hưởng của đạo Hinđu. Trên cổng phía Đông, nơi có gốc cây bồ đề mà Phật tổ giảng đạo còn có chạm nổi mộtnữ thần (Yaksi)- Will Durand miêu tả: “Chân tay nặng nề, mông dày, bụng thon, bộ ngựcnhô ra đồ sộ, điệu bộ phóng túng gợi tình”. Hai bên cây chéo của cổng cũng nhìn thấynhững đắp nổi tuyệt đẹp của những tiên nữ khỏa thân. Trong tư thế bay bổng trên khôngtrung, cơ thể uốn cong, dáng đứng uyển chuyển mềm mại, mình thon, ngực và hông nở,những tiên nữ toát lên vẻ đẹp vừa trần tục, vừa thánh thiện. Một nhà nghiên cứu lịch sửnghệ thuật đã thốt lên đầy thán phục: “...Người thợ điêu khắc Ấn Độ đã biết phô diễn mộtcách tuyệt vời cơ thể con người, ở tượng nữ quần áo đơn giản đến mức người ta chỉ cócảm giác. Và tính nhục cảm thể hiện rõ ở đôi môi, bộ ngực, cánh tay…tất cả đều tràn trềmột tình cảm nồng cháy, nóng bỏng tình người”. Điều đó cho thấy trong sự phát triển củađiêu khắc Phật giáo nói chung vẫn có những sự ảnh hưởng nhất định từ điêu khắc theokiểu Hinđu giáo. điều đó chứng tỏ giữa chúng có những sự giao lưu và tiếp biến vừakhông mất đi cái “chân” của tác phẩm đồng thời tạo thêm những nét đặc sắc cho chính tácphẩm của mình. Và cũng không hề ngạc nhiên khi ta bắt gặp được một nét hơi “Phật”trong một tác phẩm kiến trúc, điêu khắc nào đó của khuynh hướng Hinđu hay bất kỳkhuynh hướng nào khác.Cũng vào thời gian này ở Ấn Độ đã xuất hiện một phái điêu khắc mang chútkhuynh hướng Hy Lạp được thể hiện ở các hình tượng các vị thần Ấn Độ có mang nétgiống với các vị thần Hy Lạp. Xu hướng nghệ thuật này cũng đã được du nhập tới một sốnước châu Á như Triều Tiên, Nhật Bản nhưng cuối cùng nó cũng không tồn tại được lâu.Trên đất Ấn Độ, phái này đã mất hẳn và nghệ thuật thuần túy chất Ấn xuất hiện trở lạicùng với các triều đại bản xứ.Dưới các triều đại Gúpta, ngành điêu khắc cũng đã đạt được một số thành tựu đángkể. Đạo Phật đã không còn ghét các hình tượng nữa, một phái Tân Bà La Môn đã khuyếnkhích nghệ thuật tượng trưng và tô điểm tôn giáo bằng mọi hình thức nghệ thuật. Nhiềutác phẩm điêu khắc có giá trị đã ra đời trong giai đoạn này.Với sự hỗ trợ của những bức phù điêu, những tượng, những cột tháp đã tô điểmthêm cho những công trình Phật giáo thêm quy mô, có tác dụng trang trí quan trọng, gópphần vào thành tựu đặc sắc của văn minh Ấn Độ.3.1.2 Điêu khắc theo đạo Hin-đu:Bên cạnh các loại hình tượng Phật thì hình tượng các vị thần trong đạo Hinđu nhưthần Visnu, thần Siva v.v…cũng là một đề tài cho những nghệ nhân điêu khắc Ấn Độ cổtrung đại khai thác. Hình tượng các vị thần này được thể hiện dưới nhiều hình thức khácnhau như: tượng thần linh Visnu ở tư thế nằm trên rắn, thần Ananta giữa mặt biển mênhmông hoặc cưỡi chim thần Garuda, Siva ở các tư thế tọa thiền, thổi sáo, cưỡi bò thầnNanđin, đặc biệt là tư thế nhảy múa trên mình quỷ lùn với 4 tay cầm các báu vật, bànchân giơ lên quanh một vòng lửa v.v… Mặc dầu vậy về cơ bản hình tượng các thần đều làhình tượng đầu nhiều mặt, nhiều tay và đôi khi lại có những hình thù rất đáng sợ.Nhìn nhận và đánh giá chung về thành tựu của điêu khắc theo đạo Hin-đu có thể kểra nhiểu tác phẩm đạt nhiều giá trị nghệ thuật như: bức tượng tạc thần Visnu ở Sultanpur,bức tượng thần Padmapani được đục đẽo rất tinh vi, bức tượng khổng lồ tạc thần Siva bamặt (gọi là trinurti) ở trong hang Elephanta, tượng đá nữ thần Rukmini được dân chúngthờ ở Nokkas, tượng Natadaja miêu tả cảnh thần Siva múa rất duyên dáng- được tạc bằngđồng đỏ, con hoẵng bằng đá ở Mamatlapuram, tượng thần Siva uy nghi ở Perur v.v… chothấy nghệ thuật điêu khắc đã được phổ biến rộng rãi trên toàn cõi Ấn Độ lúc bấy giờ.Một trong những chủ đề thường được những nghệ nhân khuynh hướng Hinđu khaithác đó là những cảnh sinh hoạt tình dục. Công trình tiêu biểu cho đề tài này là đềnVishvanatha- ngôi đền tiêu biểu cho kiến trúc Hindu. Kết hợp với lối kiến trúc theo môtipgợi tình (Erotic motifs) – trang trí những bức tường nối từ những công trình kiến trúc phụvới những gian thờ chính... Cách sắp xếp này tuân thủ quy luật Kamasutra (nguyên tắc vềtình dục) được phản ánh trong kinh Hindu. Và nó được thể hiện cụ thể qua những hìnhtượng trên các bức phù điêu. Cùng với Hindu giáo khơi dậy được cuộc sống vật chất trầntục trong đó có những lạc thú, kể cả nhục dục cũng trở thành những quy tắc, hay một conđường nào khác hơn là con đường tu luyện Yoga- đều dẫn tới sự giải thoát. Và phải thừanhận rằng những pho tượng khắc chạm nổi tầng tầng lớp lớp quanh bề mặt đềnVishvanatha được chạm khắc rất tinh xảo và công phu. Những nhà điêu khắc Ấn Độ đãđạt tới trình độ cao trong việc nghiên cứu cơ bắp và hình thể con người để có thể cónhững tác phẩm điêu khắc hoàn mĩ và độc đáo như thế.Ngoài 2 khuynh hướng trên thì điêu khắc Ấn Độ còn nổi tiếng với các bức phùđiêu, chạm nổi và tượng tròn, như các bức phù điêu Ravana lay chuyển núi Kailasa ởEllora và đặc biệt là bức Ganga giáng trần ở khu đền Mahabalipuram. Đây là một bứcphù điêu lớn nhất thế giới chạm khắc vào vách núi dài 27m, cao 7m miêu tả cảnh Nữ thầnsông Hằng từ trên trời xuống đem nguồn sống cho hạ giới với hàng trăm nghìn người, vậtto nhỏ bên nhau, từ con voi khổng lồ đến loài chuột nhắt.Từ thế kỷ XIII trở đi, dưới thời các vườn triều Dehli và các đế quốc Mogol, nền mỹ thuậtHồi giáo đã du nhập vào Ấn Độ và phát triển rực rỡ. Đó là hỗn hợp dung hòa giữa cácnền văn hóa A Rập, Ba Tư và Hin-đu tạo nên một phong cách đặc biệt. Loại hình chủ yếucủa nền mỹ thuật này là kiến trúc và hội họa. Rất ít những tác phẩm điêu khắc được tìmthấy ở thời kỳ này, vì lí do đạo Hồi cho rằng thánh Allah đã lan tỏa khắp nơi, do đónghiêm cấm công việc chạm khắc ngẫu tượng.3.2 Kiến trúc:Như đã nói ở trên nền nghệ thuật Ấn Độ chịu ảnh hưởng sâu sắc của đời sống tôngiáo- và nghệ thuật kiến trúc cũng không nằm ngoài quy luật đó. Nghệ thuật kiến trúc ẤnĐộ là một sự biểu hiện trần thế của tôn giáo. Vì thế nghệ thuật kiến trúc Ấn Độ cũng đadạng, phong phú muôn vẻ như sự phong phú về các loại tôn giáo. Bên cạnh đó kiến trúcẤn Độ còn bị ảnh hưởng nhiều bởi các nền kiến trúc của các dân tộc láng giềng. Mà nổibật hơn cả là kiến trúc Hồi giáo. Bên cạnh các kiến trúc Phật giáo trầm mặc, tĩnh lặng làkiến trúc Hin-đu giáo, Hồi giáo bề thế, uy nghi, hoành tráng. Do vậy, có ý kiến cho rằng,kiến trúc Ấn Độ có tính thống nhất trong đa dạng.Có thể chia những thành tựu kiến trúc Ấn Độ theo những mảng lớn sau: Kiến trúc kiểu Ấn Kiến trúc kiểu Hồi3.2.1 Kiến trúc kiểu ẤnKiến trúc kiểu Ấn bao gồm nhiều loại mà trong đó cũng được chia nhiều thành các thời kìlịch sử hay theo như sự ảnh hưởng từ các loại tôn giáo. Kiến trúc kiểu Ấn có thể chiathành các nhánh kiến trúc nhỏ sau: Kiến trúc thời Harappa và Mohenjo-daro Kiến trúc Phật giáo Kiến trúc Hinđu giáo Kiến trúc Jain3.2.1.1 Kiến trúc thời Harappa và Mohenjo-daro:Nhắc đến kiến trúc trước Asoka người ta nhắc tới kiến trúc của 2 nền văn minhHarappa và Mohenjo-daro. Mặc dù các nguồn tài liệu của Ấn Độ viết về thời kỳ nàykhông còn nhiều song không phải vì thế mà nền nghệ thuật của Ấn Độ có sự hồi ngưngcủa sự phát triển. Thậm chí người ta đã chứng minh được ngay ở thời kỳ đầu bình minhlịch sử cổ đại, Ấn Độ đã có những bước phát triển rực rỡ so với các quốc gia cùng thờiđại.Trong nền văn hóa Harappa, nghệ thuật kiến trúc đã đạt tới trình độ khá cao.Những di chỉ thành thị cổ kính ở Harappa và Mohenjo-daro đã có quy mô tương đối lớnvới diện tích hàng mấy trăm hecta. Những di chỉ đó cho biết thành phố đã được xây dựngtheo một quy hoạch thống nhất, chặt chẽ. Các đường phố đều rộng rãi, thẳng tắp, có látđá, chạy ngang dọc theo 2 hướng đông- tây, nam- bắc. Hai bên đường phố là những dãynhà hai tầng xây bằng gạch nung. Ở trung tâm thành cổ có di tích hoàng cung được xâydựng trên một đồi cao, có thể nhìn bao quát toàn thành. Khu hoàng cung có nhiều di tíchcung điện, dinh thự, kho tàng và có lẽ có cả các di tích đền miếu nữa. Ở Mohenjo-daro,người ta còn phát hiện cả một hệ thống cống ngầm rất hoàn bị, đường kính của cống rộngđến 2m, dung để thoát nước mưa cho thành phố khỏi ngập lụt. Thành phố còn có nhiều bểtắm lớn công cộng lớn, không rõ mang ý nghĩa tôn giáo gì không hay chỉ là biểu hiện đơngiản của xu thế sinh hoạt cộng đồng tương đối phổ biến ở giai đoạn bấy giờ.Mặc dù 2 nền văn minh Harappa và Mohenjo-daro tới ngày nay chỉ mang tính chất“vang bóng một thời” biểu hiện bằng việc người ta chỉ có thể hình dung được sự pháttriển của nó thông qua một lượng các di chỉ, hiện vật rất hạn chế song qua đó phần nào tathấy được sự phát triển rực rỡ của văn minh Ấn Độ từ những giai đoạn lịch sử trước đó.Qua đó thêm khẳng định văn minh Ấn Độ là nền văn minh giàu truyền thống, có từ lâuđời…3.2.1.2 Kiến trúc Phật giáo:Một trong những loại hình kiến trúc đặc sắc khác của Ấn Độ là kiến trúc Phật giáotrong đó nổi bật là quần thể đền chùa trong các hang động, vách đá. Loại đền chùa nàyđược phổ biến từ đầu Công nguyên và phát triển đến giai đoạn cuối của thời Gúpta. Hìnhthức của các dạng chùa, đền này cũng rất phong phú, đa dạng như: dạng cổng hình móngngựa hoặc hình bông sen; dạng mặt tiền gồm nhiều cột trụ to lớn, đầu đục hình loài vật;nhiều đền, chùa được trang trí bằng cột, cổng, hàng rào chạm trổ rất đẹp. Phía trong cómột chaitya- tức phòng họp, với các hàng cột để ngăn cách gian giữa với các gian bên, lạicó những trai phòng nhỏ cho các tu sĩ, và ở phía trong cùng, đối diện với cửa là một bànthờ treo các thánh tích… Ngôi đền tiêu biểu cho kiểu hình thời kỳ đầu này là đền Karle.

Trích đoạn

  • Đạo Jain ( Jainisme, Kỳna)
  • Đạo Sikh (Xích)
  • NHỮNG TIỀN ĐỀ:
  • Đối với thế giới:

Tài liệu liên quan

  • Sưu tầm, giới thiệu và đánh giá các thành tựu kiến trúc Ấn Độ giáo của văn minh Ấn Độ cổ trung đại Sưu tầm, giới thiệu và đánh giá các thành tựu kiến trúc Ấn Độ giáo của văn minh Ấn Độ cổ trung đại
    • 6
    • 10
    • 110
  • Tìm hiểu đặc điểm trong quá trình phát triển của lịch sử ấn độ cổ trung đại Tìm hiểu đặc điểm trong quá trình phát triển của lịch sử ấn độ cổ trung đại
    • 71
    • 1
    • 5
  • Quá trình tiếp xúc giữa văn minh ấn độ với văn minh phương tây Quá trình tiếp xúc giữa văn minh ấn độ với văn minh phương tây
    • 77
    • 788
    • 2
  • ĐÁP án đề THI môn LỊCH sử TRIẾT học ấn độ cổ TRUNG đại ĐÁP án đề THI môn LỊCH sử TRIẾT học ấn độ cổ TRUNG đại
    • 4
    • 1
    • 20
  • Sự khác nhau trong giải thoát luận của triết học ấn độ cổ trung đại Sự khác nhau trong giải thoát luận của triết học ấn độ cổ trung đại
    • 65
    • 1
    • 18
  • Lịch sử triết học Ấn Độ cổ - trung đại TRIẾT HỌC NÂNG CAO Lịch sử triết học Ấn Độ cổ - trung đại TRIẾT HỌC NÂNG CAO
    • 128
    • 3
    • 4
  • Chương 2-Lịch sư triết học ấn độ cổ trung đại ppt Chương 2-Lịch sư triết học ấn độ cổ trung đại ppt
    • 52
    • 1
    • 14
  • ĐỀ CƯƠNG MÔN HỌC TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ – TRUNG ĐẠI: BẢN THỂ LUẬN VÀ NHẬN THỨC LUẬN Indian Philosophy in the Ancient – Middle Ages: Ontology and Epistemology ĐỀ CƯƠNG MÔN HỌC TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ – TRUNG ĐẠI: BẢN THỂ LUẬN VÀ NHẬN THỨC LUẬN Indian Philosophy in the Ancient – Middle Ages: Ontology and Epistemology
    • 147
    • 1
    • 5
  • tiểu luận điều kiện hình thành và những thành tựu chủ yếu về văn học nghệ thuật của văn minh ấn độ cổ- trung đại tiểu luận điều kiện hình thành và những thành tựu chủ yếu về văn học nghệ thuật của văn minh ấn độ cổ- trung đại
    • 28
    • 1
    • 0
  • quan điểm triết học ấn độ cổ trung đại quan điểm triết học ấn độ cổ trung đại
    • 19
    • 705
    • 4

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

(578 KB - 74 trang) - văn minh ấn độ cổ trung đại Tải bản đầy đủ ngay ×

Từ khóa » Thành Tựu Nền Văn Minh ấn độ Cổ Trung đại