Van Minh Trung Quoc - Bài Giảng Khác - Nguyễn Đăng Trình

Đăng nhập / Đăng ký VioletBaigiang
  • ViOLET.VN
  • Bài giảng
  • Giáo án
  • Đề thi & Kiểm tra
  • Tư liệu
  • E-Learning
  • Kỹ năng CNTT
  • Trợ giúp

Thư mục

Các ý kiến mới nhất

  • không tải được  ...
  • tải đc nhưng ko mở đc lm ơn...
  • ...
  • bài giảng rất hay, nội dung phong phú. Cám ơn...
  • BÀI 5 T1 SỬ DỤNG ĐIỆN THOẠI...
  • Bài 5. Em vượt qua khó khăn trong học tập...
  • Bài 9. Triều Lý và việc định đô ở Thăng...
  • Bài 9. Triều Lý và việc định đô ở Thăng...
  • Bài 11 T3 Năng lượng mặt trời,  gió và nước...
  • Bài 11 T2 Năng lượng mặt trời,  gió và nước...
  • BAI 6 T2 NÓI VÀ NGHE...
  • BAI 6 T1 BUOI SANG Ở TP HỒ CHÍ MINH...
  • BAI 5 T4 VIET BAI VAN KCST...
  • BAI 5 T3 LTVC LT VỀ ĐẠI TỪ...
  • Các ý kiến của tôi
  • Thành viên trực tuyến

    1287 khách và 815 thành viên
  • Lê Thị Thúy
  • Lê Thị Viên Thành
  • trần thanh trà
  • Nông Thị Thu Kiều
  • Phạm Thị Diện
  • Nguyễn Thị Hoàn
  • hoangthi tuyen
  • Nguyễn Tuân
  • Lê Thị Thu Huệ
  • võ xuân dũng
  • Phạm thị ngọc ánh
  • nguyễn thủy
  • Thach Lay
  • Nguyễn Thúy Nga
  • Lùng văn Tuấn
  • mai lan lan
  • Nguyễn Thị Kim Thảo
  • Lê Thị Nhẩn
  • Đỗ Ngọc Huyên
  • Đặng Văn Sâm
  • Tìm kiếm theo tiêu đề

    Searchback

    Đăng nhập

    Tên truy nhập Mật khẩu Ghi nhớ   Quên mật khẩu ĐK thành viên

    Tin tức cộng đồng

    5 điều đơn giản cha mẹ nên làm mỗi ngày để con hạnh phúc hơn

    Tìm kiếm hạnh phúc là một nhu cầu lớn và xuất hiện xuyên suốt cuộc đời mỗi con người. Tác giả người Mỹ Stephanie Harrison đã dành ra hơn 10 năm để nghiên cứu về cảm nhận hạnh phúc, bà đã hệ thống các kiến thức ấy trong cuốn New Happy. Bà Harrison khẳng định có những thói quen đơn...
  • Hà Nội công bố cấu trúc định dạng đề minh họa 7 môn thi lớp 10 năm 2025
  • 23 triệu học sinh cả nước chính thức bước vào năm học đặc biệt
  • Xem tiếp

    Tin tức thư viện

    Chức năng Dừng xem quảng cáo trên violet.vn

    12087057 Kính chào các thầy, cô! Hiện tại, kinh phí duy trì hệ thống dựa chủ yếu vào việc đặt quảng cáo trên hệ thống. Tuy nhiên, đôi khi có gây một số trở ngại đối với thầy, cô khi truy cập. Vì vậy, để thuận tiện trong việc sử dụng thư viện hệ thống đã cung cấp chức năng...
  • Khắc phục hiện tượng không xuất hiện menu Bộ công cụ Violet trên PowerPoint và Word
  • Thử nghiệm Hệ thống Kiểm tra Trực tuyến ViOLET Giai đoạn 1
  • Xem tiếp

    Quảng cáo

    Hướng dẫn sử dụng thư viện

    Bài 4: Quản lí ngân hàng câu hỏi và sinh đề có điều kiện

    12808795 Ở , , chúng ta đã biết cách tạo một đề thi từ ngân hàng có sẵn hay tự nhập câu hỏi, tạo cây thư mục để chứa đề thi cho từng môn. Trong bài này chung ta tiếp tục tìm hiểu cách xây dựng và quản lý ngân hàng câu hỏi mà mình đã đưa lên và...
  • Bài 3: Tạo đề thi trắc nghiệm trực tuyến dạng chọn một đáp án đúng
  • Bài 2: Tạo cây thư mục chứa câu hỏi trắc nghiệm đồng bộ với danh mục SGK
  • Bài 1: Hướng dẫn tạo đề thi trắc nghiệm trực tuyến
  • Lấy lại Mật khẩu trên violet.vn
  • Kích hoạt tài khoản (Xác nhận thông tin liên hệ) trên violet.vn
  • Đăng ký Thành viên trên Thư viện ViOLET
  • Tạo website Thư viện Giáo dục trên violet.vn
  • Xác thực Thông tin thành viên trên violet.vn
  • Hỗ trợ trực tuyến trên violet.vn bằng Phần mềm điều khiển máy tính từ xa TeamViewer
  • Xem tiếp

    Hỗ trợ kĩ thuật

    • (024) 62 930 536
    • 0919 124 899
    • hotro@violet.vn

    Liên hệ quảng cáo

    • (024) 66 745 632
    • 096 181 2005
    • contact@bachkim.vn

    Tìm kiếm Bài giảng

    Đưa bài giảng lên Gốc > THCS (Chương trình cũ) > Lịch sử > Bài giảng khác >
    • van minh trung quoc
    • Cùng tác giả
    • Lịch sử tải về

    van minh trung quoc Download Edit-0 Delete-0

    Wait
    • Begin_button
    • Prev_button
    • Play_button
    • Stop_button
    • Next_button
    • End_button
    • 0 / 0
    • Loading_status
    Nhấn vào đây để tải về Báo tài liệu có sai sót Nhắn tin cho tác giả (Tài liệu chưa được thẩm định) Nguồn: Người gửi: Nguyễn Đăng Trình Ngày gửi: 15h:57' 30-10-2013 Dung lượng: 5.1 MB Số lượt tải: 192 Số lượt thích: 0 người Chương III. Văn minh Trung Quốc.I. Tổng quan về Trung Quốc cổ trung đại.1. Địa lí và cư dân.2. Sơ lược lịch sử cổ trung đại Trung Quốc.a) Thời kì cổ đại.b) Thời kì trung đại.II. Những thành tựu chính của văn minh Trung Quốc.1. Chữ viết.2. Văn học.3. Sử học.4. Khoa học tự nhiên.5. Bốn phát minh lớn về kĩ thuật.6. Tư tưởng và tôn giáo.7. Giáo dục.8. Hội hoạ, kiến trúc và điêu khắc.Trung Quốc nằm ở khu vực Đông Á. Trên lãnh thổ có hai con sông lớn chảy qua là s. Hoàng Hà (dài 5.464 km) ở phía Bắc và s. Trường Giang (dài 6.300 km) ở phía Nam.Hoàng Hà từ xưa thường gây ra lũ lụt, do đó đã bồi đắp cho đất đai thêm màu mỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp khi công cụ còn thô sơ. Đây là cái nôi của nền văn minh Trung Quốc.Khi mới lập quốc (khoảng TK XXI TCN), địa bàn Trung Quốc mới chỉ là một vùng nhỏ ở trung lưu lưu vực Hoàng Hà. Từ đó, lãnh thổ Trung Quốc được mở rộng dần nhưng cho đến thế kỉ III TCN (cuối thời cổ đại), biên giới phía Bắc của Trung Quốc chưa vượt qua dãy Vạn lí trường thành ngày nay, phía Tây mới đến Đông nam tỉnh Cam Túc và phía Nam chỉ bao gồm một dải đất dọc hữu ngạn s.Trường Giang.Từ cuối thế kỉ III TCN, Trung Quốc trở thành một nước phong kiến thống nhất. Từ đó, nhiều triều đại của Trung Quốc đã chinh phục các nước xung quanh, mở rộng lãnh thổ. Đến thế kỉ XVIII, lãnh thổ Trung Quốc về cơ bản được xác định như ngày nay.Trung Quốc là một trong những cái nôi tối cổ của loài người. Năm 1929, ở Chu Khẩu Điếm (Tây Nam Bắc Kinh), giới khảo cổ học Trung Quốc đã phát hiện hoá thạch của một loài vượn người có niên đại sống cách nay khoảng 400.000 năm. Sau đó, nhiều hoá thạch vượn người trên khắp lãnh thổ Trung Quốc có niên đại xưa hơn được phát hiện. Đặc biệt, hoá thạch của người vượn Nguyên Mưu (Vân Nam) được phát hiện năm 1977 có niên đại đến 1.700.000 năm.Về mặt chủng tộc, cư dân ở lưu vực s. Hoàng Hà thuộc giống Mông Cổ, đến thời Xuân Thu được gọi là Hoa Hạ. Đó là tiền thân của dân tộc Hán sau này. Còn cư dân ở phía Nam Trường Giang thì khác hẳn cư dân vùng Hoàng Hà về ngôn ngữ và phong tục tập quán, tục cắt tóc, xăm mình và đi chân đất. Đến thời Xuân Thu, các tộc người này bị Hoa Hạ đồng hoá.Dưới thời quân chủ, ở Trung Quốc, tên nước được gọi theo tên triều đại. Đồng thời, từ thời cổ đại, người Trung Quốc cho rằng họ là một nước văn minh ở giữa, còn xung quanh là những tộc lạc hậu gọi là Man – Di – Nhung - Địch, vì vậy đất nước của họ được gọi là Trung Hoa hay Trung Quốc. Tuy vậy, danh từ này chỉ để phân biệt với các vùng xung quanh chứ chưa phải tên nước chính thức. Đến năm 1912, khi cách mạng Tân Hợi nổ ra, triều Thanh bị lật đổ, cái tên Trung Hoa mới trở thành tên nước chính thức.Trung Quốc đã trải qua xã hội nguyên thuỷ. Theo truyền thuyết, thời viễn cổ ở Trung Quốc có một thủ lĩnh mà người đời sau thường xuyên nhắc đến là Phục Hy. Đến nửa đầu thiên kỉ III TCN, ở vùng Hoàng Hà xuất hiện một thủ lĩnh bộ lạc gọi là Hoàng Đế. Hoàng Đế họ Cơ, hiệu là Hiên Viên, được coi là thuỷ tổ người Trung Quốc. Đến cuối thiên kỉ III TCN, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, Hạ Vũ đều là dòng dõi của Hoàng Đế lần lượt trở thành những thủ lĩnh liên minh bộ lạc.Tương truyền, năm Nghiêu 72 tuổi đã nhường ngôi lại cho Thuấn, khi Thuấn già lại nhường ngôi cho Vũ. Nhưng sau khi Vũ chết, con của Vũ là Khải được tôn lên làm vua và Trung Quốc bắt đầu bước vào xã hội có giai cấp và nhà nước.Thời cổ đại ở Trung Quốc có 3 vương triều nối tiếp nhau là Hạ, Thương, Chu.Hạ (khoảng thế kỉ XXI đến XVI TCN): Tuy Vũ chưa xưng vương nhưng ông được coi là người đặt cơ sở cho triều Hạ. Thời Hạ, người Trung Quốc chỉ mới biết đến đồng đỏ, chữ viết chưa có. Sau 4 thế kỉ, đến thời vua Kiệt - bạo chúa nổi tiếng đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc, triều Hạ bị diệt vong. Thương (còn gọi là Ân, TK XVI – XII TCN): Người thành lập nước Thương là Thang. Nhân khi vua Kiệt bạo tàn, nhân dân oán ghét, Thang đem quân diệt Hạ. Thời Thương, người Trung Quốc đã biết sử dụng đồng thau, chữ viết cũng đã ra đời. Đến thời vua Trụ, Thương bị Chu tiêu diệt.Chu (TK XI – III TCN): Người thành lập triều Chu là Văn vương. Trong hơn 8 thế kỉ tồn tại, triều Chu chia làm 2 thời kì là Tây Chu và Đông Chu. Từ khi thành lập đến năm 771 TCN, triều Chu đóng đô ở Cảo Kinh ở phía Tây nên gọi là Tây Chu. Thời Tây Chu, xã hội Trung Quốc tương đối ổn định. Từ năm 770 TCN, vua Chu dời đô sang Lạc Ấp ở phía Đông nên gọi là Đông Chu. Thời Đông Chu tương ứng với 2 thời kì Xuân Thu (722 – 481 TCN) và Chiến quốc (403 – 221 TCN). Đây là thời kì nhà Chu suy yếu. Trong khi đó, các nước chư hầu diễn ra cuộc nội chiến triền miên để giành quyền bá chủ, tiến tới tiêu diệt lẫn nhau để thống nhất Trung Quốc. Thời Xuân Thu, đồ sắt đã xuất hiện, đến thời Chiến Quốc thì được sử dụng rộng rãi trong đời sống xã hội.Thời kì trung đại nói chung là thời kì thống trị của các vương triều phong kiến trên đất nước Trung Quốc thống nhất. Thời kì này bắt đầu từ năm 221 TCN (khi Tần Thuỷ Hoàng thành lập triều Tần) đến năm 1840 (chiến tranh thuốc phiện giữa Anh và Trung Quốc biến TQ từ một nước phong kiến thành một nước nửa phong kiến nửa thuộc địa).Trong hơn 2000 năm đó, Trung Quốc đã trải qua các triều đại sau:Tần (221 – 206 TCN); Tây Hán (206 TCN – 8)Tân (9 - 23); Đông Hán (25 - 220);Thời Tam Quốc: Nguỵ, Thục, Ngô (220 - 280);Tấn (265 - 420),Thời Nam Bắc triều (420 - 581);Tuỳ (581 - 618); Đường (618 - 907); Thời Ngũ đại Thập quốc (907 - 960); Tống (960 - 1279) gồm 2 thời kì: Bắc Tống (960 - 1127) và Nam Tống (1127 - 1279); Nguyên (1271 - 1368); Minh (1368 - 1644) và Thanh (1644 - 1911). Trong thời trung đại, Hán, Đường, Tống, Minh là những vương triều lớn. Thời kì này, Trung Quốc rất cường thịnh và đạt được nhiều thành tựu về mọi mặt. Còn triều Nguyên và Thanh cũng là hai triều đại lớn nhưng lại là những vương triều ngoại tộc nên mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp rất gay gắt. Do đó, đã hạn chế nhiều về sự phát triển văn hoá. Triều Thanh tuy tồn tại đến năm 1911 nhưng từ 1840, tính chất của xã hội Trung Quốc đã thay đổi và chuyển sang thời kì lịch sử cận đại.1. Chữ viếtTheo truyền thuyết, từ thời Hoàng đế, sử quan Thương Hiệt đã sáng tạo ra chữ viết. sự thực, đến thời Thương, chữ viết của Trung Quốc mới ra đời. Loại chữ viết đầu tiên này khắc trên mai rùa và xương thú, được phát hiện lần đầu vào năm 1899 và được gọi là chữ giáp cốt.Sở dĩ chữ đời Thương được khắc trên mai rùa và xương thú vì đó là những quả bói. Người Trung Quốc lúc đó, khi muốn bói việc gì thì khắc điều muốn bói lên mai rùa hoặc xương thú, đục lỗ ở giữa rồi nung lửa, sau đó theo đường rạn nứt để đoán ý của trời đất quỷ thần.Phương pháp cấu tạo chữ giáp cốt chủ yếu là phương pháp tượng hình. VD: chữ “nhật” (mặt trời) thì vẽ một vòng tròn nhỏ, ở giữa có một chấm ⊙: 日; chữ sơn (núi) thì vẽ 3 đỉnh núi : 山Dần dần, do yêu cầu ghi chép các động tác và các khái niệm trừu tượng, trên cơ sở phương pháp tượng hình đã phát triển thành các loại chữ biểu ý và mượn âm thanh.Cho đến nay đã phát hiện được hơn 100.000 mảnh mai rùa và xương thú có khắc chữ giáp cốt. Tổng số chữ giáp cốt đã phát hiện có khoảng 4.500 chữ, trong đó đã đọc được 1700 chữ. chữ giáp cốt đã ghép được những đoạn văn tương đối dài, có đoạn dài tới 100 chữ.Đến thời Tây Chu, số lượng chữ ngày càng nhiều và cách viết càng đơn giản. chữ viết tiêu biểu thời kì này là kim văn hay là chung đỉnh văn (chữ viết trên chuông đỉnh). Kim văn từ đời Thương đã có nhưng còn ít. Đến Tây Chu, nhà vua thường ban tặng ruộng đất và người hầu cho các quý tộc. Mỗi lần như vậy, vua thường sai người đúc đỉnh đồng để ghi sự việc ấy để làm kỉ niệm, do đó kim văn đến thời kì này rất phát triển. Ngoài đồ đồng, chữ viết thời Tây Chu còn được khắc trên trống đá, thẻ tre.Các loại chữ viết đầu tiên này được gọi chung là chữ đại triện, cũng gọi là cổ văn. Thời xuân Thu Chiến Quốc, do đất nước không thống nhất nên chữ viết cũng không thống nhất. Đến thời Tần, thừa tướng Lý Tư đã dựa vào chữ nước Tần kết hợp với các thứ chữ của các nước khác, cải tiến cách viết tạo thành một loại chữ thống nhất gọi là chữ tiểu triện.Từ cuối thời Tần Thuỷ Hoàng (221 206 TCN) đến thời Hán Tuyên đế (73 -49 TCN), lại xuất hiện một kiểu chữ mới goi là chữ lệ. Chữ lệ khác chữ triện ở chỗ, chữ triện còn giữ lại nhiều yếu tố tượng hình, do đó cónhiều nét cong nét tròn, còn chữ lệ thì biến những nét đó thành ngang bằng sổ thẳng vuông vức ngay ngắn. Thời gian sử dụng chữ lệ tuy không lâu nhưng nó có ý nghĩa quan trọng vì đó là bước quá độ để phát triển thành chữ chân, tức chữ Hán ngày nay.2. Văn học.Thời cổ trung đại, Trung Quốc có một nền văn học rất phong phú. Từ thời Xuân Thu Chiến Quốc, văn học Trung Quốc đã bắt đầu phát triển. Đến thời Tây Hán, tư tưởng Nho gia được đề cao. Nho gia là trường phái rất coi trọng việc học tập, vì vậy từ Hán trở về sau, những người có thể cầm bút viết văn trong xã hội Trung Quốc rất nhiều. Đến thời Tuỳ Đường, chế độ khoa cử bắt đầu ra đời, trong đó văn chương trở thành thước đo chủ yếu của tài năng; do đó văn học Trung Quốc càng có những thành tựu lớn lao. Văn học Trung Quốc thời kì này có nhiều thể loại như thơ, từ, phú, kịch, tiểu thuyết…, trong đó tiêu biểu nhất là Kinh Thi, thơ Đường và tiểu thuyết Minh – Thanh.a) Kinh Thi.Kinh Thi là tập thơ ca đầu tiên và cũng là tác phẩm văn học đầu tiên của Trung Quốc được sáng tác trong khoảng 500 năm từ đầu thời Tây Chu đến giữa thời Xuân Thu. Thời đó, thơ cũng là lời của bài hát. Vì vậy, vua Chu và vua các nước chư hầu thường sai các viên quan phụ trách âm nhạc của triều đình sưu tầm thơ ca các địa phương để phổ nhạc. Những bài thơ được sưu tầm, phần lớn được tập hợp thành một tác phẩm gọi là Thi. Trên cơ sở đó, Khổng Tử đã chỉnh lí lại một lần nữa. Đến thời Hán, khi Nho giáo được đề cao, Thi được gọi là Kinh Thi.Kinh Thi có 305 bài chia làm 3 phần là Phong, Nhã, Tụng. Phong là dân ca của các nước nên gọi là Quốc phong. Nhã gồm có hai phần là Tiểu Nhã và Đại Nhã. Nhiều người cho rằng, Tiểu Nhã là những bài thơ do tầng lớp quý tộc nhỏ sáng tác và Đại Nhã là do tầng lớp quý tộc lớn sáng tác. Còn Tụng bao gồm Chu Tụng, Lỗ Tụng, Thương Tụng là những bài thờ do các quan phụ trách tế lễ và bói toán sáng tác dùng để hát khi cúng tế ở miếu đường.Trong các phần đó, Quốc Phong là phần có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao nhất. Bằng lời thơ gọn gàng, thanh thoát mộc mạc nhưng đầy hình tượng, những bài dân ca này đã mỉa mai hoặc lên án sự áp bức bóc lột và cảnh giàu sang của giai cấp thống trị, nói lên nỗi khổ cực của nhân dân.Tuy nhiên, chiếm tỷ lệ nhiều nhất và hay nhất là những bài thơ mô tả tình cảm yêu thương gắn bó hoặc buồn bã nhớ nhung hoặc bâng khuâng, mong đợi giữa trai gái, vợ chồng.Là một tập thơ được sáng tác trong vòng 5 thế kỉ, KInh Thi không chỉ có giá trị về văn học mà còn là một tấm gương phản ánh tình hình xã hội Trung Quốc đương thời. Ngoài ra, tác phẩm này còn được các nhà Nho đánh giá cao về tác dụng giáo dục tư tưởng của nó.b) Thơ ĐườngThời kì huy hoàng nhất của thơ ca Trung Quốc là thời Đường (618 -907). Trong gần 300 năm tồn tại, thời Đường đã để lại tên tuổi của trên 2000 nhà thơ với gần 50.000 tác phẩm.Cùng với sự thăng trầm về chính trị, thời Đường được chia làm 4 thời kì: Sơ Đường (618 - 713), Thịnh Đường (713 - 766), Trung Đường (766 - 827) và Vãn Đường (727 - 904). Thịnh Đường là thời kì trị vì của Đường Huyền Tông. Đây là thời kì tương đối ổn định về chính trị, phát triển về kinh tế, đặc biệt đây là thời kì phát triển cao về văn hóa.Thơ Đường không những có số lượng rất lớn mà còn có giá trị rất cao về tư tưởng và nghệ thuật. Hơn nữa, đến thời Đường, thơ ca Trung Quốc đã có một bước phát triển mới về luật thơ.Các nhà thơ Đường sáng tác theo 3 thể: Từ, Cổ phong và Đường luật.Từ là một loại thơ đặc biệt ra đời giữa thời Đường, kết hợp chặt chẽ với âm nhạc. Vì viết theo những điệu có sẵn nên sáng tác Từ còn được gọi là điền từ.Cổ phong là thể thơ tương đối tự do, không bị ràng buộc về số chữ trong một câu (thường là 5 và 7 chữ), số câu trong bài, về niêm, luật, đối. Tuy vậy, cũng có một số bài tiếp thu một số yếu tố của thơ luật để tạo nên các kiểu trung gian.Đường luật gồm 3 dạng chính: bát cú (8 câu, có thể là “thất ngôn” hay “ngũ ngôn”), tuyệt cú (4 câu) và bài luật (còn gọi là trường luật – bài luật kéo dài). Có thể coi thất ngôn bát cú là dạng cơ bản vì từ nó có thể suy ra các dạng khác. Trong số các thi nhân đời Đường còn lưu tên tuổi đến nay, Lý Bạch, Đỗ Phủ thuộc thời Thịnh Đường và Bạch Cư Dị thuộc thời Trung Đường là 3 nhà thơ tiêu biểu nhất.Thơ Đường là những trang chói lọi trong lịch sử văn học Trung Quốc, đồng thời nó đã dặt có sở nghệ thuật, phong cách và luật thơ cho nền thi ca Trung Quốc các thời kì sau này. Thơ Đường cũng có ảnh hưởng tới nền thơ ca Việt Nam.c) Tiểu thuyết Minh – Thanh.Tiểu thuyết là một hình thức văn học mới bắt đầu phát triển từ thời Minh – Thanh. Trước đó, ở các thành phố lớn thường có những người chuyên làm nghề kể chuyện, đề tài của học thường là các sự tích lịch sử. Dựa vào các câu chuyện ấy, các nhà văn đã viết thành các tiểu thuyết chương hồi. Những tác phẩm nổi tiếng trong giai đoạn này là Truyện Thủy hử của Thi Nại Am, Tam quốc chí diễn nghĩa của La Quán Trung, Tây du kí của Ngô Thừa Ân, Nho lâm ngoại sử của Ngô Kính Tử, Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần…3. Sử học.Trung Quốc là một quốc gia rất coi trọng lịch sử, bởi vậy sử học Trung Quốc phát triển từ rất sớm và có một kho tàng sử sách hết sức phong phú. Theo truyền thuyết, từ thời Hoàng Đế ở Trung Quốc đã có những sử quan như Đại Náo, Thương Hiệt. Nhưng đó là điều không đáng tin cậy. Đến thời Thương, trong các bản minh văn bằng chữ giáp cốt có chứa đựng một số tư liệu lịch sử quý giá. Có thể coi đó là mầm mống của sử học.Thời Tây Chu, trong cung đình đã có những viên quan chuyên phụ trách chép sử. Đến đầu thời Đông Chu, những nước chư hầu có nền văn hóa phát triển tương đối cao như nước Lỗ, Tấn, Sở… cũng đặt chức quan chép sử. Trong số các sách sử của các nước, có giá trị nhất là cuốn sử biên niên của nước Lỗ. Trên cơ sở quyển sử của nước Lỗ, Khổng Tử đã biên soạn lại thành sách Xuân Thu, đó là quyển sử do tư nhân biên soạn sớm nhất ở Trung Quốc. Tác phẩm này chép sử Trung Quốc từ năm 722 đến 481 TCN. Toàn bộ tác phẩm chỉ có 18.000 chữ nhưng đã ghi chép các sự kiện lớn về chính trị, quân sự, ngoại giao của 124 nước chư hầu. Đến thời Hán, nó được coi là một trong năm tác phẩm kinh điển của Nho giáo.Ngoài sách Xuân Thu, các tác phẩm khác như Thượng Thư, Chu Lễ cũng là những tài liệu chứa đựng những giá trị lịch sử về tình hình chính trị, chế độ quan lại, lễ nghi đương thời. Đến thời Chiến Quốc, các sách như Tả truyện, Quốc ngữ, Chiến quốc sách, Lã thị Xuân Thu đều là những tác phẩm sử học có giá trị.Đến thời Tây Hán, sử học Trung Quốc bắt đầu trở thành một lĩnh vực độc lập mà người đặt nền móng là Tư Mã Thiên. Với bộ Sử kí, bộ thông sử đầu tiên của Trung Quốc, Tư Mã Thiên đã ghi chép lại lịch sử gần 3000 năm từ thời Hoàng Đế đến thời Hán Vũ Đế.Sử kí gồm 12 bản kỉ (sự tích các vua), 10 biểu (bảng tổng kết về niên đại), 8 thư (lịch sử các chế độ, các ngành riêng biệt như lễ, nhạc, kinh tế), 30 thế gia (lịch sử các chư hầu và những người có danh vọng), 70 liệt truyện (chuyện về các nhân vật lịch sử). Qua 5 phần đó, Tư Mã Thiên đã ghi lại mọi mặt trong xã hội như chính trị, quân sự, văn hóa, ngoại giao… của Trung Quốc trong giai đoạn lịch sử đó. Do vậy, Sử kí là một tác phẩm rất có giá trị về mặt sử liệu cũng như tư tưởng.Tiép theo Sử kí là Hán thư của Ban Cố ghi chép lịch sử triều Tây Hán từ Hán Cao tổ đến thời Vương Mãng (206 TCN - 23). Tiếp đến là các tác phẩm Tam quốc chí của Trần Thọ và Hậu Hán thư của Phạm Diệp. Bốn tác phẩm Sử kí, Hán thư, Tam quốc chí và Hậu Hán thư đều do tư nhân biên soạn và được gọi chung là “tiền tứ sử”.Từ thời Đường, có quan biên soạn lịch sử của nhà nước gọi là sử quán được thành lập. Từ đó, các bộ sử của các triều đại đều do nhà nước biên soạn. Đến thời Minh, Trung Quốc đã biên soạn được 24 bộ sử, về sau thêm vào hai bộ Tân Nguyên sử và Thanh sử cảo thành 26 bộ sử.Ngoài 26 bộ sử trên, còn có nhiều tác phẩm sử học khác viết theo các thể loại khác nhau như Sử thông của Lưu Tri Cơ (viết về phương pháp biên soạn lịch sử), Thông Điển của Đỗ Hữu đời Đường (viết về lịch sử các lĩnh vực như kinh tế, chế độ thi cử, chức quan từ thời Thượng cổ đến giữa thế kỉ VIII), Tư trị thông giám của Tư Mã Quang đời Tống (bộ biên niên chép sử từ thời Chiến Quốc đến thời Ngũ đại).Bên cạnh những bộ sử ấy, thành tựu trong biên soạn lịch sử thời Minh – Thanh là hoàn thành những tác phẩm đồ sộ như Vĩnh Lạc đại điển, Cổ kim đồ thư tập thành và Tứ khố toàn thư.Vĩnh Lạc đại điển do vua Minh Thành Tổ tổ chức biên soạn bao gồm các nội dung chính trị, kinh tế, văn hóa, nghệ thuật, tôn giáo…Đó là một công trình tập thể của hơn 2000 học giả làm việc trong 5 năm. Bộ sách gồm 11.095 tập, là bộ bách khoa toàn thư rất lớn của Trung Quốc. Hiện nay bộ sách này chỉ còn hơn 300 tập.Cổ kim đồ thư tập thành gồm 10.000 chương với các nội dung chính trị, kinh tế, đạo đức, văn học, khoa học…Bộ sách này được biên soạn dưới thời Khang Hy nhà Thanh, là bộ bách khoa toàn thư lớn thứ 2 sau VLĐĐ.Tứ khố toàn thư được biên soạn dưới thời Càn Long gồm 4 phần: Kinh (sách kinh điển Nho gia), Sử, Tử (tác phẩm của các học giả thời Chiến Quốc) và Tập (văn, thơ, từ, khúc) chia thành 36.000 tập.Những bộ sách trên là những di sản văn hóa vô cùng quý báu của Trung Quốc có giá trị lịch sử rất lớn.4. Khoa học tự nhiên.a) Toán học.Theo truyền thuyết, thời Hoàng Đế, người Trung Quốc đã biết phép đếm lấy 10 là cơ sở. Đến thời Tây Hán, ở Trung Quốc đã xuất hiện tác phẩm Chu bễ toán kinh nói về lịch pháp, thiên văn, hình học (tam giác, tứ giác, ngũ giác), số học (phân số, số thường)…Đặc biệt, đây là tác phẩm toán học sớm nhất của Trung Quốc nói về quan hệ giữa 3 cạnh trong tam giác vuông giống như định lí Pitago.Thời Đông Hán lại xuất hiện một tác phẩm quan trọng hơn là Cửu chương toán thuật. Tác phẩm này chia làm 9 chương, trong đó chứa đựng 4 phép tính, phương pháp khai căn bậc 2, bậc 3, phương trình bậc 1, số âm, số dương, cách tính diện tích các hình, thể tích các hình khối, diện tích xung quanh và thể tích hình cầu, quan hệ giữa 3 cạnh trong tam giác vuông…Thời Ngụy,Tấn, Nam Bắc triều, có hai nhà toán học nổi tiếng là Lưu Huy và Tổ Xung Chi. Lưu Huy đã chú giải sách Cửu chương toán thuật và tìm ra số ¶ = 3,1416. Tổ Xung Chi cũng chú thích sách Cửu chương toán thuật và là người sớm nhất thế giới biết được số ¶ chính xác.Đời Đường, Trung Quốc có nhiều nhà toán học nổi tiếng như nhà sư Vạn Hạnh đã nêu lên công thức phương trình bậc 2 (), Vương Hiếu Thông soạn sách Tập cổ toán kinh trong đó dùng phương trình bậc 3 để giải quyết nhiều vấn đề toán học.Thời Tống, Nguyên, Minh, Thanh càng có nhiều nhà toán học, trong đó Giả Hiến và Thẩm Quát đời Tống là những người tiêu biểu. Giả Hiến tìm được phương pháp giải các phương trình bậc cao. Thẩm Quát đã nêu lên những ý kiến về cấp số, cách tính độ dài của cung và dây cung khi đã biết đường kính của vòng tròn và chiều cao của dây cung. Đặc biệt, thời Tống, Nguyên, người Trung Quốc đã phát minh ra cái bàn tính, rất tiện lợi trong tính toán.b) Thiên văn học và lịch pháp.Theo truyền thuyết, từ thời Hoàng Đế, Nghiêu, Thuấn, Trung Quốc đã biết quan sát thiên văn. Đến thời Thương, trong các tài liệu giáp cốt đã có chép về nhật thực và nguyệt thực. Đó là tài liệu sớm nhất thế giới chép về các hiện tượng này. Sách Xuân Thu cũng chép trong vòng 242 năm có 37 lần nhật thực, nay đã chứng minh được 33 lần chính xác. Sách Xuân Thu còn chép năm 613 TCN “sao Bột nhập vào Bắc đẩu”. Đó là sao chổi Halây được ghi chép sớm nhất trong lịch sử.Thiên Ngũ hành chí trong Hán thư là tài liệu sớm nhất chép về hiện tượng điểm đen trong mặt trời.Nhà thiên văn học nổi tiếng nhất của Trung Quốc là trương Hành (78 - 139). Ông đã biết ánh sáng mặt trăng là nhận từ mặt trời, lần đầu tiên giải thích đúng nguyệt thực là do mặt trăng núp sau bóng của trái đất. Tác phẩm “Linh hiến” của ông đã tổng kết các tri thức thiên văn đương thời, trong đó ông đã có những tri thức đúng đắn như vũ trụ là vô hạn, sự vận hành của hành tinh nhanh hay chậm là do cự li cách trái đất gần hay xa.Ông còn cho rằng thiên thể hình cầu như vỏ quả trứng, mà trái đất như lòng đỏ. Một vòng của bầu trời là 365 độ ¼, một nửa ở trên trái đất, một nửa ở dưới trái đất. Căn cứ vào đó,ông làm ra mô hình chuyển động của các vì sao giống như sự thực ngoài bầu trời. Ông còn có nhiều hiểu biết về địa lí, địa chất học và là người chế tạo được dụng cụ đo động đất là “địa động nghi” có thể đo một cách chính xác phương hướng của động đất.Nhờ sớm có những hiểu biết về thiên văn nên từ sớm Trung Quốc đã có lịch.Theo truyền thuyết, thời Hoàng Đế, Trung Quốc đã biết cách làm lịch, một năm chia làm 12 tháng lấy tháng giêng âm lịch ngày này làm tháng đầu năm. Đến thời Thương, Trung Quốc biết kết hợp vòng quay của mặt trăng xung quanh trái đất với vòng quay của trái đất xung quanh mặt trời để đặt ra lịch. Loại lịch này chia 1 năm = 12 tháng, tháng đủ có 30 ngày, tháng thiếu có 29 ngày. Để khớp với vòng quay của trái đất xung quanh mặt trời, người đời Thương đã biết đặt thêm tháng nhuận.Năm Thái sơ thứ nhất, đời Hán vũ đế (104 TCN), Trung Quốc đổi một loại lịch cải cách gọi là lịch Thái sơ. Lịch này lấy tháng giêng âm lịch làm tháng đầu năm và được dùng từ đó đến nay. Từ thời Xuân Thu, người Trung Quốc đã biết chia một năm làm 4 mùa, 4 mùa có 8 tiết là Lập Xuân, Xuân Phân, Lập Hạ, Hạ Chí, Lập Thu, Thu Phân, Lập Đông, Đông Chí. Trên cơ sở ấy, lịch Thái sơ chia một năm thành 24 tiết, trong đó có 12 trung khí còn 12 tiết khác gọi là tiết khí. Thường thì mỗi tháng có một trung khí, còn tháng nào không có trung khí thì thành tháng nhuậnNgười Trung Quốc ngày xưa chia một ngày đếm thành 12 giờ và dùng 12 địa chi để đặt tên giờ, mỗi giờ chia là 8 khắc. Để đo thời gian, người Trung Quốc đã phát minh ra “nhật khuê”, “nhật quỹ”, “lậu hồ” và “đồng hồ”.c) Y dược học.Nền y dược học Trung Quốc có lịch sử phát triển lâu đời và vẫn giữ vai trò quan trọng trong cuộc sống hiện nay, không chỉ ở Trung Quốc mà cả trên thế giới.Thời Chiến Quốc đã có một tác phẩm y học nhan đề là Hoàng đế nội kinh, trong đó miêu tả những vấn đề về sinh lí, bệnh lí và nguyên tắc chữa bệnh.Đến cuối thời Đông Hán, kết hợp những thành tựu đời trước với kinh nghiệm bản thân, Trương Trọng Cảnh đã soạn sách Thương hàn tạp bệnh luận gồm hai phần: “Thương hàn luận” và “Kim quỹ ngọc hàm kinh”, nội dung chủ yếu là nói về cách chữa bệnh thương hàn. Đến nay, sách này vẫn có giá trị trong Đông y.Thầy thuốc nổi tiếng nhất của Trung Quốc là Biển Thước, sống thời Chiến Quốc. Ông được coi là ông tổ của ngành mạch học ở Trung Quốc.Từ thời Hán về sau, Trung Quốc càng có nhiều thầy thuốc giỏi, trong đó nổi nhất là Hoa Đà. Ông là thầy thuốc giỏi về các khoa nội, ngoại, phụ, nhi và châm cứu, song sở trường là ngoại khoa. Ông đã phátg minh ra cách dùng rượu gây mê trước khi mổ cho bệnh nhân. Hoa Đà còn chủ trương phải luyện tập thân thể để huyết mạch lưu thông. Ông đã soạn ra một bài tập thể dục gọi là “ngũ cầm hý”, bắt chước động tác của 5 con vật hổ, hươu, gấu, vượn và chim.Thời Minh có nhà y dược học tài năng là Lý Thời Trân (1518 - 1593). Ngoài việc chữa bệnh, ông còn viết tác phẩm “Bản thảo cương mục”, trong đó ghi chép 1892 loài cây thuốc, đã phân biệt, đặt tên, giới thiệu tính chất, công dụng và vẽ hình các loại cây thuốc đó. Vì vậy, tác phẩm này không chỉ có giá trị dược học mà còn là một tác phẩm thực vật học quan trọng.Ngoài ra, các mặt khác như địa lí, nông học,…cũng có những thành tựu đáng kể.5. Bốn phát minh lớn về kĩ thuật.a) Kĩ thuật làm giấy.Đến thời Tây Hán, người Trung Quốc vẫn dùng thẻ tre, lụa để ghi chép. Đến khoảng thế kỉ II TCN, người TQ đã phát minh ra phương pháp dùng xơ gai để chế tạo giấy. Tuy nhiên, giấy của thời kì này còn xấu, mặt không phẳng, khó viết nên chủ yếu dùng để gói.Đến thời Đông Hán, năm 105, một viên hoạn quan là Thái Luận đã dùng vỏ cây, lưới cũ, giẻ rách.. làm nguyên liệu; đồng thời cải tiến kĩ thuật nên làm được loại giấy có chất lượng tốt hơn. Từ đó, giấy được dùng phỏ biến thay thế cho các chất liệu khác. Do công lao ấy, năm 114, ông được vua ban tước “Long Đình hầu”. Nhân dân gọi giấy đó là giấy “Thái hầu” và tôn ông làm ông tổ nghề giấy.Khoảng thế kỉ III, nghề làm giấy truyền sang Việt Nam, TK IV truyền sang Triều Tiên, TK V truyền sang Nhật Bản, TK VII truyền sang Ấn Độ.Giữa TK VIII, do cuộc chiến tranh giữa nhà Đường với Arập nên kĩ thuật làm giấy được truyền sang Arập. Năm 1150, người Arập truyền sang Tây Ban Nha. Sau đó, nó lần lượt được truyền sang Ý, Đức, Hà Lan, Anh. Sau khi nghề làm giấy được truyền bá rộng rãi, các chất liệu dùng để viết trước đây đều bị giấy thay thế.b) Kĩ thuật in.Kĩ thuật in bắt nguồn từ việc khắc chữ trái trên các con dấu đã có từ thời Tần. Thời Ngụy, Tấn, Nam Bắc triều, Đạo giáo đã in nhiều bùa chú để trừ ma.Đến khoảng giữa thế kỉ VII (đầu đời Đường), kĩ thuật in đã xuất hiện. Sử sách còn chép chuyện nhà sư Huyền Trang đã cho in một số lượng lớn tượng Phổ Hiền để phân phát bốn phương. Năm 1966, ở Hàn Quốc phát hiện bản in kinh Đàlani in vào khoảng năm 704 – 751. Đây là ấn phẩm cổ nhất thế giới được phát hiện.Kĩ thuật in lúc mới ra đời là in bằng ván khắc. Phát minh quan trọng này giúp người ta in được nhiều bản trong thời gian ngắn, công nghệ khắc in đơn giản, ít tốn kém. Tuy vậy, nó có nhược điểm là chỉ sử dụng được một lần.Để khắc phục nhược điểm đó, đến những năm 40 của thế kỉ XI, một người dân thường là Tất Thăng đã phát minh ra cách in chữ rời bằng đất sét nung. Phát minh này tuy là một bước tiến nhưng vẫn còn nhược điểm là chữ hay mòn, khó tô mực, chữ không sắc nét. Đến thế kỉ XI, Thẩm Quát thử dùng chữ gỗ thay cho chữ đất sét nung. Đến thời Nguyên, Vương Trinh cải tiến thành công việc dùng con chữ rời bằng gỗ. Sau đó, người ta còn dùng các kim loại để làm chữ rời nhưng cũng không dược dùng rộng rãi.Từ đời Đường, kĩ thuật in ván khắc đã truyền sang Triều Tiên, Việt Nam, Nhật Bản, Philippin, Arập rồi truyền dần sang châu Phi, châu Âu. Năm 1448, một người Đức là Guytenbéc đã dùng chữ rời bằng hợp kim và dùng mực dầu để in kinh thánh. Việc đó đặt cơ sở cho việc in chữ rời bằng kim loại như ngày nayc) Thuốc súng.Đây là một phát minh của những người luyện đan thuộc Đạo giáo. Đến thế kỉ X, thuốc súng được dùng làm vũ khí. Những vũ khí đầu tiên là tên lửa, cầu lửa, pháo, đạn…, tác dụng chỉ để đốt doanh trại đối phương.Đến đời Tống, vũ khí làm bằng thuốc súng được cải tiến hơn. Loại “chấn thiên lôi” có sức công phá và sát thương rất lớn.Năm 1132, Trung Quốc phát minh ra ra “hỏa thương”. Lúc đầu, hỏa thương làm bằng ống tre to, bên trong nạp thuốc súng, khi đánh nhau thì đốt ngòi, lửa sẽ phun ra thiêu cháy quân địch.Vào thế kỉ XIII, trong lúc xâm lược TQ, người Mông Cổ đã học tập được cách làm thuốc súng. Sau đó, người Mông Cổ chinh phục Tây Á, do đó đã truyền kĩ thuật này sang Arập. Về sau, người Arập lại truyền kĩ thuật này sang châu Âu.d) Kim chỉ nam.Đến thế kỉ III TCN, người TQ đã biết được từ tính và tính chỉ hướng của đá nam châm. Lúc đó, học phát minh ra một dụng cụ chỉ hướng gọi là “tư nam”. Tư nam làm bằng đá thiên nhiên, mài thành hình cái thìa để trên một cái đĩa có khắc các phương hướng, cái thìa sẽ chỉ hướng nam. Đây là tiền thân của kim chỉ nam. Tuy nhiên, nó có hạn chế là khó mài, nặng, chuyển động không nhạy, chỉ hướng chưa chính xác.Đến thời Tống, các thầy phong thủy đã phát minh kim nam châm nhân tạo. Họ dùng kim sắt, mài mũi kim vào đá nam châm để thu từ tính, rồi dùng kim đó làm la bàn. La bàn lúc đầu còn thô sơ: xâu kim nam châm qua cọng rơm sợi bấc đèn rồi thả nổi trên bát nước gọi là thủy là bàn, hoặc treo kim nam châm bằng một sợi tơ ở chỗ kín gió.La bàn được các thầy phong thủy sử dụng lần đầu tiên để xem hướng đất. Đến cuối thời Bắc Tống, la bàn được dùng trong việc đi biển. Khoảng nửa sau thế kỉ XII, la bàn do đường biển truyền sang Arập rồi châu Âu. Người châu Âu cải tiến thành la bàn khô, tức la bàn có khắc các vị trí cố định. Nửa sau thế kỉ XVI, la bàn khô lại truyền trở lại Trung Quốc.   ↓ ↓ Gửi ý kiến

    Hãy thử nhiều lựa chọn khác

  • Thumbnaillich su 6
  • ThumbnailCách kiểm tra đánh giá trong môn lịch sử
  • ThumbnailBáo Cáo tuyên truyền Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng
  • Thumbnaillịch sử địa phương tp hồ chí minh
  • Thumbnaillịch sử văn minh Cổ trung đại Trung Hoa
  • Thumbnailtoan 5 Van toc
  • Còn nữa... ©2008-2017 Thư viện trực tuyến ViOLET Đơn vị chủ quản: Công ty Cổ phần Mạng giáo dục Bạch Kim - ĐT: 04.66745632 Giấy phép mạng xã hội số 16/GXN-TTĐT cấp ngày 13 tháng 2 năm 2012

    Từ khóa » Slide Về Văn Học Trung Quốc