Vàng Xưa - Báo Nhân Dân
Để nhớ LA
Con tầu lừng lững như viên đạn khổng lồ, dài, rời ga Hàng Cỏ, đưa chúng tôi lên đường. Đầu máy Diesel nặng nhọc, phì phò rồi bỗng gấp gáp hú còi, giật mạnh, khẩn cấp xuyên thẳng vào màn đêm.
Cuộc gặp đầu tiên bàn về chuyến đi này cách đây có hai tháng mà mọi công việc chuẩn bị nhân sự, tiền, mua sắm thức ăn, trang bị nhanh đến không ngờ.
Hơn bẩy chục kg vàng! Hơn nửa triệu US! Trời ơi, nếu tìm được nó? Mà nhất định tìm được! Ta sẽ đổi đời! Trong đêm trước, tôi nói như mơ mấy lần với vợ câu ấy. Không biết bọn kia có ngủ không? Đêm nay, tôi lại sẽ trằn trọc. Tôi không ngủ như ngày nào.
Tiếng bánh sắt nghiến vào đường ray chao chác hối hả. Qua những ô cửa tươi sơn, kính trong vắt chưa sập, ánh sáng như lưỡi kiếm vàng lạnh liên tục chém loang loáng. Con tầu mỗi khi gặp chuyến ngược tuyến, cứ tưởng như đứng lại hay thời gian trôi ngược.
Tại sao tôi không nghĩ về viễn cảnh của ngày mai? Người đời, khi sắp đưa chân vào một hoàn cảnh mới, rực rỡ hơn, liệu có chợt nhớ ngày bĩ cực như tôi không?
Giải phóng Sài gòn một cách bất ngờ. Trở về nhà bất ngờ. Tất cả làm lại từ con số không. Một năm lần mò khắp nơi kiếm việc làm. Ăn bám anh chị. Công việc nào dành cho một kẻ văn hóa hết phổ thông? Chuyên môn không! Có chân bảo vệ bãi cát xây dựng. Phúc chán! Lấy vợ. Sinh con.. Nhìn cát mênh mông, trắng phớ bay mù mịt sau những chuyến xe mà nhớ!
Những bữa cơm hai vợ chồng chỉ có hai bìa đậu phụ. Miếng ăn dùn đi đẩy lại thành miếng ăn thừa. Đĩa rau muống chấm nước mắm khăm khẳm. Gia tài chỏn vỏn cái giường gỗ phân phối theo giấy đăng kí, mọt nghiến suốt đêm. Tủ lạnh chị gái tôi thương em mà cho, có trăm nốt rỉ đen, thủng lỗ chỗ như bị đạn bắn. Nó là nhà máy sản xuất đá để bán cho hàng nước chè bên kia hè đường, luôn rỗng mùi thịt cá. Tôi nghĩ tới những mẩu thuốc lén nhặt trên mặt đất. Tôi gặm ăn cả kỉ vật. Con dao găm Mỹ, chiếc Ponso rằn ri. áo choàng mưa sĩ quan hậu cần phát trước lúc ra quân. Cả cái bật Zippo nhặt lên ướt máu của người lính ở Quảng Trị, Mậu Thân 68. Vỏ khắc: “Please! Don´t tell about Vietnam because I have been there(1)“ và bên kia, đứa con gái trần như nhộng dạng háng cười nhoe nhoét.
Tôi trằn trọc. Tầu qua một cung đường đang sửa, chưa ổn định, lắc đi lắc lại. Tôi nhìn bóng đầu ai trên trần toa, nghĩ tới cái chảo đãi vàng cũng lắc đi lắc lại như thế.
Ngã ba suối cạn. Hai seo cát như đôi vú mẩy cứng thanh xuân, giữa lòng ngã ba suối lấp lánh. Mùa khô trong khu rừng ấy, ba thằng đi kiếm cá đụng phải. Bắt đầu, thằng Phương phát hiện, cái quần đùi rách tướp tua của tôi, trên những sợi bông dính nhiều bụi tấm, vàng lấp lánh dưới ánh sáng mặt trời. Vốc cát, reo lên! Vàng! Dân gốc Hàng Bạc. Nhà tao bốn đời làm vàng, đánh bạc, tao không lầm! Phương hét lên.
Chúng tôi đắp đìa, đãi vàng, lắc, nhặt, thổi, dầm chân trong con suối suốt cả tuần. Dòng suối từ đâu đổ về, đâm thẳng vào vách núi rồi cuộn vòng sang trái. Nước xoáy mãi vào đá, tạo thành những cái hốc nhẵn tròn. Bao nhiêu năm? Nước chảy, quẩn, dồn tích mãi, sàng lọc tự nhiên vàng đọng xuống từng hốc chạt dầy tới nửa gang tay. Vàng mỏng tang như vẩy nhót. Thổi khô, bay phát sáng trong nắng. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy vàng. Phương bảo, đây là vàng bẩy, gọi là vàng cám, vàng sa khoáng. Tôi nhìn, bụi vàng như vảy nhót. Hơn bẩy chục cân chứ chả ít. Đóng vào sáu cái túi cát Mỹ. Hì hụi như thế rồi vàng chẳng để làm gì, giết thời giờ vô vị sáu thằng trông cái kho sắp sập. Thằng Hội dân Đông Anh, làng đúc đồng truyền thống, lấy đất nặn nồi. Đắp lò hun than. Quạt quạt thổi thổi. Vàng cũng chảy ra. Phương khoe, có a xít, vài hóa chất nữa, tao sẽ lấy ra vàng mười tuổi. Đúc thành mấy thoi bằng ngón tay rồi lại bỏ đấy. “Giá như chúng mình đào được một nồi thịt kho hay một bao gạo trắng nhỉ?“ Tôi nghĩ, khi một đêm đi gùi đạn về đói thót ruột. Đã hai năm, sắn trừ bữa nên hay mơ gạo, thịt. Hay nói món nọ món kia. Muốn chất đạm thì săn thú, bắt cá. Tiêu chuẩn bồi dưỡng sĩ quan, người ốm, thương binh là đạn. Mười viên đạn một quý! Mùa khô thú biến mất tăm. Đói quá hóa điêu. Hội bảo, bây giờ có, tao ăn hết bốn kí thịt luộc! Để qua ngày, cái bụng bớt bồn chồn, lấy cả cọng khoai ngứa dại nấu nhừ với nhúm bột cá. Rau tàu bay, độn vào bột sắn giả bánh khúc! Hôi mùi dầu! Lùng bắt tiệt cả chuột dưới gầm kho. Chuột béo nhẫy. Sao chúng sung suớng thế, no nê, phởn phơ, chí choé đú đởn suốt đêm? Giá mình là chuột? Mỡ từ những lũ chuột thui vàng ươm cháy xèo xèo trên dàn lửa. Răng nhe trắng ởn. Nước dãi nuốt ừng ực. Còn cái giống khoai dại dai như đỉa. Ninh mấy lửa, tưởng nhừ tướp mà xơ đầy, khi nuốt lắng nhắng vướng trong họng, phát nôn. Thế mà lại vớ được vàng!
Thằng Hội treo cả sáu túi vàng lên cái cần cối giã sắn. Nhờ sức nặng của vàng, sắn thành bột làm bánh nhanh hẳn lên! Rồi cũng chẳng đứa nào tha thiết với vàng nữa. Thằng Bảo dọa: “Đời lính, đi trận, vớ vàng xui lắm. Tụi mình, thế nào cũng có thằng chết!“ Nó đi trước tôi có vài tháng nhưng hay ra giọng cựu binh ở Tây Nguyên. Nói tới chết thì ai chẳng sợ. Có kiêng có lành. Tự nhiên, những túi vàng ám ảnh cả bọn về những cái xui xẻo ngoài trận mạc vốn thường nhật như cơm bữa.
Nửa năm sau, bất ngờ có lệnh rời khu kho vũ khí đã rỗng. Mặt trận chuyển hướng. Lại xuyên rừng. Cái đời lính căng hải(2) suốt năm, suốt tháng. Vứt mẹ nó đi! Báo lên trên cũng chả ai để ý tin chuyện có thực. Thêm rách việc! Năm trước, bộ tư lệnh bị vố lừa vụ “người rừng’’ nên các bố cảnh giác. Thôi, cho vào hang đánh dấu. Biết đâu nay mai có đứa sống mà tìm. Ra trận súng đạn là chính. Đi trận ăn sướng hơn trông kho. Thay vì cái thứ vàng vô tích sự, chỉ mang cái xui tới, là tám bơ gạo, cá sấy và thịt nai khô. Lương khô BA hai phong. Mì chính nửa lạng. Sướng thế, bỗng chốc dồi dào thế. Chỉ tội, gạo mới lĩnh mà lúc nhúc bọ đen tanh tách nhảy.
Bảo về đơn vị cối. Còn lại về bộ binh.
Chúng tôi đi cùng đất tới Sài Gòn. Hội sau mất tích. Nó mất tích kì lạ. Kì lạ như bí mật của câu chuyện nó thổ lộ.
Trước trận cuối cùng, nằm ở Mũi Lớn, nó hỏi tôi, hòa bình rồi về đâu? Về Hà Nội chứ về đâu! Nó nhăn đôi lông mày rậm đen nhánh, thốt lên: “Ông còn có nơi về. Đây chẳng biết về đâu?“ Tôi gạn mãi, nó dặn đi dặn lại không được kể lại chuyện nó. Bắt mang danh dự thằng lính ra thề.
Gia đình nó có hai anh em. Thằng anh vừa cưới vợ một tháng, xung phong đi bộ đội. Khi bom Mỹ bắt đầu đánh xuống miền Bắc, thanh niên tòng ngũ như trẩy hội. Đa số chúng tôi đi bộ đội diện ấy. Hội khi 17 tuổi cũng đi nhưng không như thế. Nhà có người đi rồi, chú nó chủ tịch xã. Ai bắt nó đi! Xung phong cũng khó. Anh nó đi một năm, hai năm, ba năm biệt tin. Nó ở chung với chị dâu và bố. Một bữa, đi cầy về trời mưa tầm tã. Bố đi họp dưới huyện. Chị gọi em vào xê thóc tránh dột. Chái nhà hẹp. Đụng chạm. Quần áo ướt bết da thịt, cơ thể phô phang trần trụi, khêu gợi. Hơi thở, hơi nóng từ hai con người hừng hực bốc ra. Chị dâu, con gái thơi thới, vừa biết mùi trần tục mà chồng đã vắng xa biền biệt. Thế là xảy ra chuyện động trời. Nó ngẹn ngào nhớ từng chi tiết. Em cũng chả biết sao lại thế. Em mới mười sáu tuổi.. Chị em kéo tay em ấn xuống, nắm cái ấy. Chị đè ngiến em dưới nền đất. Lăn lộn. Hổn hển. Hai con chó liếm láp, cắn nhau vội vã. Ăn vụng. Làm liều. Miền trung du, tổng động viên, nam giới như mì chính cánh. Chị dâu thoả mãn, búi lại tóc, ưu tư nói: “Chú giống anh như đúc. Đi, đứng, cười, mùi nách...’’ Mấy tháng sau nó luôn tránh cái nhìn của chị. Dứt khoát không nhìn chị. Có thế thôi mà chị nó chửa. Cắn lưỡi không khai ai làm. Vợ bộ đội đi Nam chiến đấu cho làng nước mà chửa!? Lỗi ấy tày trời. Ông bố Hội gọi bố đẻ chị dâu sang. Hai người già uống rượu. Trói con họ vào gốc cau. Cạo trọc đầu. Nửa đêm Hội đứt ngủ. Tiếng la. Chửi, thề độc, kể lể của hai người già đều góa vợ. Tiếng khóc của chị. Gần sáng, nó lẻn ra, liều cắt trói. Cứ cầm tay nhau mà chạy. Lang thang lên tận Điện Biên. Rồi mẹ tròn con vuông. Nhưng lương tâm day dứt. Suy đi nghĩ lại, Hội quyết chí đi tìm anh thú tội. Chỉ có gặp anh thú tội rồi chết. Đơn giản hoảng lên nghĩ vậy. Đi bộ đội. Mà chỉ xin đi B3. Vào tới B3 biết anh nó hy sinh ở Kontum. Thế là nó âm thầm nuốt nghẹn câu chuyện riêng, lì lì sống dở, chết dở. Hoà bình tới đít chợt nhớ ra ngày trở về. Về đâu? Mặt mũi nào về làng? Người ta đã nguyền rủa bố nó cho đến phải hộc máu chết. Nhà vô phúc! Tuyệt tự, chết dường chết chợ! Về với chị nó ư? Giá như anh nó còn mà tha tội. Hội đã muốn chết trăm lần mà chưa chết được. Bom đạn tránh nó, sự sống hành hạ từng đêm không tha. Buổi ấy tôi chả biết khuyên nó thế nào. Tôi nắm bàn tay nó trong đêm tối. Nghe nó khóc. Rồi, đêm sau tiến vào Sài Gòn như cơn bão. Trận ấy mấy lần Hội toàn nhận những nhiệm vụ nguy hiểm nhất. Chẳng chết được. Sống nhăn răng. Xong, trung đoàn lấy hai ba tổ quay lại mấy vùng đóng quân cũ đi thu gom liệt sỹ. Chả ai muốn làm việc gợi đau ấy! Nó xung phong đi. Nghe tin công việc kết thúc là nó mất tiêu trong rừng. Người ta tìm thấy võng, ba lô của nó treo gần con suối. Hổ, thú dữ, bom mìn, sốt rét...Ai biết điều gì đã xảy ra với Hội? Nó đi đúng gần cái vùng vàng xưa. Thôi, nó đi là phải. Sống mà thế thì chết là về, yên, được tha thứ.
Thằng Phương thì tiêu trong lần đánh đèo Tuy Hoà. Lúc quàn nó, thấy hai thỏi vàng trong túi cóc. Anh em cho cả vào ni lon gói chôn. Tôi cắn cỏ lạy nó phù hộ và hứa không lộ chuyện vì sao có hai thỏi vàng. Có thể nó là thằng xuống âm phủ xông xênh!
Bao nhiêu năm trôi qua, thiên hạ nói đến tiền, vàng làm tôi chảy nước rãi. Thì mình cũng từng có tưng ấy vàng. Ba bốn năm tôi đi tìm thằng Bảo giữ cái bản đồ. Sau hoà bình, đứa chết đứa sống. Chả ai biết cái đống vàng ấy. Mỗi lúc bí tiền, con ốm vợ đau. Lại thấy lúc người ta xe ngựa, võng rạp, trong khi, quay đi quay lại, nơi tôi làm việc toàn cát. Cát day dứt tôi. Lại nhớ vàng xưa. Nhớ thời bom đạn, đồng đội sống chết bên nhau, chiến thắng, thất bại, no, đói sẻ chia. Mấy lần có ý tìm Bảo. Nó mất tiêu như thú mùa khô, rừng khộp..
Đã chán tìm thì gặp nó ở chân cầu Long Biên. Mồ hôi nhễ nhại, cha con đủn xe thồ hai cái sọt ăm ắp xu hào, cà chua leo dốc. Nắng hanh chiếu chếch. Lệch lạng hai bóng in trên trời xanh, hằn rõ bóng thằng cụt đẩy xe làm tôi chạnh lòng, vịn tay đẩy giúp. Không ngờ lại là thằng mình tìm suốt mấy năm.
Bỏ gánh xu hào cho thằng con đem bán. Hai đứa vào uống rượu, lòng lợn gầm cầu. Xơi hết cả hai sọt bự rau chợ tết. Sọ nó có miếng nhựa phập phồng theo nhịp thở, mềm mềm thay cho miếng xương bị đạn chọc vỡ. Nó chả nhớ gì cả. Nhưng tôi nhớ. Sự mơ giầu làm tôi nhớ. Trí nhớ của tôi giúp nó trở về với dĩ vãng. Thôi bỏ mẹ! Chúng mình giầu to rồi. Nó hét lên khi tôi nhắc chuyện cũ. Thiên hạ đánh mắt nhìn, tưởng hai thằng điên mới trúng mánh. May quá, nó vẫn giữ tấm bản đồ quân sự ghi dấu chốn ấy làm kỷ niệm. Vâng, chúng tôi là lũ mạt hạng, đói đường của thành phố này. Thế nhưng lũ chúng tôi sắp giầu to!
Để rủ rê, thuyết phục cái thằng dở khùng ấy cũng chẳng dễ. Chủ nhật tìm tới nhà, nó lại hỏi: “Bản đồ nào nhỉ?“ Đến tên tôi nó còn nhầm lẫn lung tung. Lúc thì bảo Sinh, lúc thì “Minh ơi.” Lại, mày có gặp thằng Tam không? Tôi quát: “Tao là Sinh. Mày nhầm thằng Minh nào? Tam nó chết ở bãi Cam rồi mà!” ừ, ừ. Bảo gãi cái đầu đám lởm chởm tóc, đám mông mốc trơ da như trảng rừng bị B52. Cái lứa chúng tôi ra đi suốt hơn mười năm thủa ấy, bây giờ còn mấy ai? Lo sống chưa xong thì lo nhớ làm gì nhiều?
“Bố cháu dở hơi ấy mà. Chú chấp làm gì!” Thằng con gã, cao tới mét bẩy. Chân tay xuơng xẩu, cơ bắp.
Vợ Bảo đi ra, đi vào hóng chuyện. Thoắt một cái mâm thịt gà bưng lên giữa chiếu rách trải giữa nền đất. Gà ở đâu ra? Gà nhà mình chứ gà nhà ai! Người đàn bà, vai so dúm dó, một bên đít to như lồng bàn, bên kia hóp teo, trơ cả xương chậu, lăng xăng ấn vào tay chồng chai rượu cười xoe xoét. Bác sơi với nhà em bữa cơm rau! Vợ tớ đấy! Nó cũng ở Trường Sơn, lính VT471. Gặp nhau ở trại an dưỡng, nó rủ tớ về đây. Người đàn bà lườm chồng một cái. Trông chả tới nỗi nào! Người ta, khi có động thái sinh động hẳn lên. Con gái mà đứng yên giống như manơcanh. Thời xưa mày ấy, mắt này hẳn đỏm gái. Dân sốt rét nhiều, tóc rụng, tiêm Quynin lắm, mông làm mủ, teo hết cơ.
Tôi cười: “Cơm rau?“ “ấy cái giống đàn bà nó thế đấy! Chả dấu. Dịch toi hết rồi, chắc nó lại mượn gà của mẹ nó. Năm ngoái giỗ bố, bảo nó làm con gà cúng, nó dãy như đỉa phải vôi. Kêu, ông có thích ăn thịt gà đâu! Ông thích ăn bánh đúc! Gà béo mướt lông, chùn đít, đéo thịt! Dành cuối năm bán mua trăm ngói chống dột thì cứ nói mẹ nó ra cho nhanh, lại bảo ông không thích thịt, chỉ thích bánh đúc! Chống dột phải chống từ cái bụng trước. Bụng không dột mới lo chống nhà dột. Đằng này bụng ông dột, bố dột, con dột. Giờ thấy hơi vàng bầy biện nhanh thế. Hì hì. Mọi bữa nó cấm cả rượu nữa. Không cay cay thì gặp nhau cũng nhạt thếch!’’ Tôi dàn hòa, ai chả tham chả ham. Có điều chúng mình là loại hết cửa, chả có chỗ để tham mà ham....
***
Đoàn đi tìm vàng của chúng tôi gồm bốn đứa. Tôi được suy tôn làm đoàn trưởng.
Thành viên thứ hai của đoàn là Trọng, con trai Bảo. Nó gối đầu lên cái ba lô đầy ắp thức ăn và ngáy vô tư như thổi bễ
“Cho nó đi cho biết thế nào là Trường Sơn!” Bảo hua cái chân cụt: “Nhất nhất theo chú ấy!” Tôi hỏi Trọng: “Tìm được vàng cháu làm gì?’’ Mua một cái chân gỗ cho ông già! Suy tính một tị nó tiếp: “Mua cái xe bò và làm cái lò gạch” Thế thôi! Đơn giản thế ư? Nó im lặng.
Ước mơ của thằng nông dân như những giọt nước. Thằng em tôi ở quê lên Hà Nội, ra phố ngó đăm đăm mấy cái lốp xe. Nó chỉ ước mua được cái xe kéo bánh ô tô. Cái máy xát chạy dầu. Thấy nó phong phanh, tặng cái áo bông cũ. Cười xỉ xả: “Về chữa lại cho bu cháu!” Người thân, ăn no, mặc ấm và làm ăn!
Thằng Bảo cụt không đi được, nó muốn lắm, đưa con ra bến tầu. Ngày xưa bố nó đưa nó đi. Bây giờ Bảo đưa con đi. Bảo hôm nào khác gì Trọng bây giờ. Trẻ. Khuôn mặt đầy. Tóc dầy xanh. Má lơ thơ tơ măng. Bàn tay chai vì đào hào và bắn súng. Thế mà sốt trận, đói ăn ...rồi thời gian và cái chân cụt, cái đầu vá nhựa. Nó sắp xuống lỗ rồi.
Có người kiểm soát vé tới. Thằng Viên làu nhàu nhổm dậy trên võng dù Mỹ. Đây là người thứ ba trong đoàn. Viên kín đáo. Dáng nho nhã, nhẹ nhàng. Mắt sắc, tai dầy, ép nhẹm vào sát sọ. Sách tướng viết, dấu tai là cách của kẻ làm được chính trị. Thế mà gã lại là dân làm ăn? Nghe nói, gã từng tốt nghiệp tổng hợp văn. Đi dạy học, sau bỏ nghề, chạy chợ. Bôn ba lắm. Bảo khoe: “Thằng này cái gì cũng tường. Nó tới đây mua đất trong làng. Thương mình lắm. Có lần thiếu tiền, nó rút ngay hai trăm ngàn biếu nhưng mình đếch nhận’’. Viên chưa vợ, ghét đàn bà nhưng lại biết kĩ càng về gái điếm. Đấy là Bảo nghe hơi nồi chõ kể lại. Đêm, Viên trầm ngâm uống rượu. Ngày thì không. Khói thuốc xanh bay thơm phưng phức, hắn hay hỏi mọi người. Lo cho từng miếng cơm ngụm nước.
“Mạo hiểm phiêu lưu lắm! Nếu không tìm thấy nơi ấy là cậu mất toi năm chỉ đấy” Tôi bảo gã. Gã cười, chém tay vào không khí: “Một sấp, một ngửa. Tiếng reo này là ù! Trên đời, nhất liều, nhị liều. Được, thua, giặc hay vua như nhau cả!’’
Tầu vào tới Thanh Hóa rồi. Quân thợ ảnh đang ngủ bỗng bật dậy.
- Em vừa mơ anh ạ! Hắn dụi mắt. Quân là người thứ tư.
Quân không ở đơn vị tôi, nhưng rất thân tôi từ hồi giải phóng thành phố Sài Gòn. Nó trẻ hơn tụi lính cũ cả chục tuổi. Khi tôi về nhà, nó còn sang Campot, sau lên biên giới phía Bắc choảng nhau nữa.. Quân tháo vát. Nhà nó ở Khương Hạ. Làng ấy quanh năm muối cà bát. Nó về nhà thì cha mẹ chết sạch. “Năm anh chị em dành nhau mảnh vườn bằng cái mảnh chó ỉa làm em chán ngán chạy ra vừa học nghề ảnh vừa làm thuê cho ông cậu họ ở Bát Đàn”. Tôi tưởng Quân cũng khá. Ai dè nó nhăn như bị: “Chẳng bõ bèn gì đâu ông ơi! Chụp một cuốn, có thêm tí tiền đấy song cô dâu chú rể nó sai như sai chó. Thôi, trắng mặt ăn tiền, nghệ thụât nghệ thẽo gì! Em chưa có một ngày nghỉ’’ Khi ấy, Viên chua: “Nghệ thuật nhất là nghệ thuật làm vua. Bắt cả thiên hạ theo, tất đầy nghệ thuật. Nghệ thuật các anh là đẹp. Thiên hạ thấy đẹp, lạ thì xem, ngó một tí, mấy ai theo’’.
Đúng. Thợ đám cưới mong chủ nhật, thứ bẩy như mong giỗ.
Quân hơn ba chục tuổi. Da dẻ hồng hào. Là lính trận mà nó chưa dính sốt rét. Nó là lính đồng bằng. Quân chưa vợ. Nó bảo, lấy vợ mà không có tiền ư? Vợ nó khinh, con cái khổ lây. “Thứ rách như tổ đỉa, có vợ đẹp con ngoan nhan nhản ra đấy!’’ Tôi cãi. Vâng, nhưng có thằng nào tổ đỉa mà vợ con mát mặt không! Người ta quen sống vì cái tiếng, cái vỏ, cái nhìn thấy, sờ thấy. Nó nghiêm túc nói. Nó đúng! Tự nhiên tôi nhớ khuôn mặt luôn khó đăm đăm, buồn rười rượi của vợ tôi.
Thế là, chỉ có tôi có gánh nặng ở Hà Nội khi đi. Vợ, con gái còn dại. Tôi ôm con vào lòng, trước khi ra ga vào miền trung. Từ Quảng Bình sẽ thuê xe ô tô vào Chooc. Viên bảo, năm 87 nó đánh hàng dép lê Lào, đã ở vùng ấy. Thung thổ ở bàn tay! Nó chỉ vào bàn tay mềm, mát như mỡ đông, dầy dặn, cười. Tại đó, chúng ta sẽ nhờ cánh buôn lậu dắt qua biên giới và vào đường Trường Sơn. Từ đó, có Quân sẽ tiện lắm, nó là bạn lính cũ, tin được, lại thạo bản đồ, xác định hướng nhanh. Lính thiện chiến trinh sát sư 320 cũ ngửi gió, tùy mùa, nhắm mắt cũng biết hướng nào!.
Kế hoạch đi được vạch ra chi tiết. Thằng Bảo cụt phải ở nhà nhưng bầy binh bố trận không trật một khấc. Đúng là một cán bộ tham mưu cỡ trung đoàn. Cũng lạ! Một thằng khùng thế, mà khi vạch đường đi nước bước trở nên tỉnh táo lạ thường. “Hừ, mày là tổ trưởng nhé!” “Rắn phải có đầu!” Viên đế theo!
Chúng tôi lục trang bị cũ ra dùng cho đỡ tốn tiền. Chỉ có Viên là phải mua sắm. Nó khoác nguyên bộ quần áo Mỹ. áo Nato, quần túi đắp, ghệt Camel, dao găm Phần Lan bén cạo được cả ria cứng. Tăng võng toàn loại nilon nhẹ bấc của Nam Triều Tiên. Ba lô của nhà giầu ra trận bao giờ chả khác. Mùi hồ thơm, khác hẳn cái thứ nùng nục mốc, mùi cá khô của tôi và con Bảo, của Quân.
Vợ Bảo làm cơm tiễn cả bọn. Trong khi rượu ngà ngà tôi hỏi Quân, mày có vàng rồi, làm gì? Quân muốn một cái Studio với biển hiệu ảnh ViệnNguyễn Quân thật lớn màu da cam. Em sẽ thuê người. Sẽ cho bọn “thầu giầu” làng ảnh biết lễ độ. Mình không có tiền, mãi mãi làm thuê. Nhục lắm. Thằng Viên tủm tỉm: “Thế là biết! Đã nhục, cố mà thành chủ. Bé cũng là chủ, lớn cũng là chủ. Chủ lớn mới tránh được đời o ép. Muốn làm gì cũng có tự do. Muốn tự do phải có nhiều, thực nhiều tiền!”
Được. Một trăm cây vàng lo được chứ gì? Tôi bảo. Quân cười: “Nhiều quá!” Cậu sẽ có 100 cây vàng! Hai đứa cười hoang hoác, tưởng rung cả trời.
Quay sang Viên, tôi hỏi, còn cậu? Tôi ấy à! Chơi. Chơi cho hết kiểu chơi. Hắn cười hào sảng. Tôi không tin lời Viên khi ấy. Nó có phải thiếu tiền như cánh tôi đâu! Bỏ ra một cây cho chuyến đi, dễ như trở bàn tay. Thế là còn tham vọng giầu nữa. Dường như biết tôi nghĩ gì, hắn nói: “Ông anh tưởng chơi cũng dễ hả. Ngõ ngách lắm. Mỗi thời một kiểu. Chơi tiền là khó nhất. Siêu nhất!”
Tôi thì rõ rồi. Tôi sẽ thoát khỏi cái nghèo đay nghiến. Sửa nhà, nuôi con ăn học tới nơi tới chốn, chứ không học vớ học vẩn, dang dở đời tôi. Tôi sẽ mua xe máy tàng tàng, khỏi phải hàng ngày sang tận bãi bên Gia Lâm, lọc cọc đạp cái xe khung Sài Gòn mang từ hồi giải phóng, lắp phụ tùng nội, nặng như cùm.
Tầu tới ga xép nữa rồi lại vùn vụt chạy. Tiếng rao đêm bơ vơ của đám trẻ ở lại sân ga. Tôi hỏi Quân: “Mơ gì?” Quân xúc miệng òng ọc, rồi nhổ phóng ra ngoài cửa sổ. Bụi nước li ti bay ngược lại. “Em mơ thấy chúng nó bắn vào toa tầu.”
Những đụn khói hình nấm tung lên sau tiếng nổ trầm. Mảnh bom xoe xoé réo. Bọn F4, F105, F8h thay nhau bay chéo cắt xuống đoàn tầu nhiều đợt bom giây.
-Em chạy ngược. Anh chạy xuôi.
Chùm lửa sáng trắng khạc ra từ họng súng sáu nòng bên hai cánh bay bắn dọc con tầu. Đạn trên dưới bắn nhau rát tai. Mấy trăm người dân, lính chạy tóe ra hai bên đường như đám ong bị chọc tổ. Người ngã xuống mặt đất như đốn chuối.
-Em bảo, về thôi. Vàng đâu mà tìm. Lại thấy những bụi cây lúp xúp bên Campot.
Mỗi bụi có một họng súng bắn lén. Mìn ba râu, lá lúa, mìn nhẩy rình rập từng bước đi trên đường mòn, trên mặt đất, dưới gốc cây thốt nốt đang ứ đường mật từng thớ gỗ, mạch cây.
Quân kể tiếp : ‘‘Sợ quá chồm dậy. Đã tới Thanh Hóa rồi à? Nhanh thế? Ngày xưa vào tới Vinh, phải hết năm ngày đêm!’’
Tôi đứng ở cửa sổ. Ngoài đồng kia, trong đêm tối, hình như có bọn trẻ đã nghịch lửa, tro bụi giờ sót lại leo leo cháy trong đêm. Mấy đám đỏ lốm đốm, thỉnh thoảng gió thốc lên, bùng lửa từ tro tàn!
Toa đen bịt kín, đám lính trẻ nằm như xếp cá. Ho khục khặc. Tiếng đánh diêm hút thuốc lào xoèn xoẹt. Trong đêm, lính thức và yên lặng. Chỉ có tiếng sắt thép đều đều, chan chát va đập như tiếng đóng đinh dồn dập vào quan tài trong hẻm núi. Và, những khung cửa cứ vùn vụt trôi mãi về phía Nam. Hình ảnh trong cửa sổ trôi ngược về phía Bắc. Bầu trời lỗ chỗ qua mấy chục lỗ thủng trên nóc toa bị đạn xuyên qua từ ngày nào. Thi thoảng lại có tia chớp từ xa lắm, nhằng nhằng và lát sau dội về tiếng ì ì ầm ầm làm rung nhẹ miếng kính vỡ - Mơ hồ, xa xăm. Ven cái ga sắp vào Vinh, lố nhố bóng người dọn dẹp. Mùi cỏ, nhựa cháy, khăm khẳm mảnh thịt sót... Tiếng gọi. Những cáng thương hối hả nối theo nhau dằng dập, thình thịch. Đất dội tiếng chân người.
Tầu hỏa hôm nay ban ngày kễu kện chạy. Ban đêm thung dung đèn sáng, hỉ hả kéo còi. Mùi nước hoa của đôi trai gái vừa đi qua bay dọc toa. Tiếng khúc khích. Tiếng nựng trẻ êm êm. Mùi cà phê thơm ngào ngạt từ toa nằm bọc da mới bay lại. Những bao hàng đủ mầu trong các toa tầu. Chúng tôi lẫn vào đám buôn chuyến. Chả ai thèm hỏi một lời.
* * *
Trọng cứ đặt lưng là ngủ. Mới đi bộ hai ngày mà nó đã nhức vai đau chân. Tôi luôn đi cuối cùng. Mùa khô. Chẳng phải hành quân dưới mưa. Vả lại cuộc sống lầm than bấy nay làm tôi, tuổi chẳng còn trẻ, vẫn quen đi bộ. Cái kinh nghiệm đắc dụng nhất, có lý nhất cho thằng lính trở về là thuật đi bộ! Vừa đi vừa nghỉ ngơi bàn chân, thư dãn trong giầy. Giữ hơi, khí lực khi vượt dốc. Đái vào chân, ngâm chân nước muối mỗi tối....Tôi trở về với mùi rừng. Mùi suối. Mùi ngái ngái của cỏ tranh khô nỏ...Tự nhiên, trăm thứ dội về, thơi thới quên cả khó nhọc.
Tôi đưa ra bản đồ. Khi nào bắt tới gần Mường Phìn là rẽ ngược chếch đông nam tám độ - Quân xác định. Từ đấy phải hơn một tuần sẽ tới thung lũng dấu vàng. Viên suốt mấy ngày không nói gì. Nó đi lầm lũi, lầm lũi ăn, lầm lũi hút và uống thứ rượu màu ngà thơm lạ đựng trong bình tông Mỹ. Nhưng quả thực tôi không chê ở Viên điểm gì trong mấy ngày hành trình. Nó chẳng một ngày ở lính, thế mà nó chịu nắng, chịu rét, chịu đi không than một câu. Có thể cuộc sống nó giang hồ, rèn nên bản lĩnh như người lính chăng? Thậm chí thằng Quân còn lười, Viên không vậy. Nó dậy trước mọi người, hỏi tôi tỉ mỉ, cách cắm cây làm kiềng sao cho vững vàng, không cháy đổ nửa chừng. Cây nào tươi, tước ngay có thể nấu dưới mưa. Nó tự tay pha chế, nấu nướng làm ai cũng ăn ngon miệng. Khen, nó cười, hay ăn thì lăn vào bếp thôi! Sao dân chơi, dân làm ăn mà chịu khó thế? Biết nhiều, chả bù cho tụi tôi hồi nào bằng tuổi nó. Sự để mắt tới nó của tôi chuyển hướng sang Quân vì vừa về nhà chưa hết mùi lính mà nó đã cứ lánh việc cho người khác. Bực nhất là đi được hai ngày tôi phát hiện ra thằng Quân không phải Quân thời ở với tôi giải phóng Sài Gòn. Nó luôn lấm la lấm lét khi dù chỉ một bụi cây bên đường có con thỏ chạy qua, con chim cút vừa thấy động vụt bay lên. Tôi bảo, mày thế nào vậy? Quân mặt dại như đi táo, cười chóm chém chữa ngượng, dạo này em bị thiếu máu, nên hay giật mình. Thiếu máu cái mẹ gì! Ngày tôi với nó vào Đồng Dù, ở bên cạnh nhau, hồng cầu của tôi có hai triệu. Còn nó bây giờ hồng hào như lửa thế kia. Biết thế! Tôi chợt nghĩ. Nghĩ mà ngượng thay cho nó với thằng Viên. Thế mà Viên chả coi thường Quân tí nào. Hôm leo dốc đỉnh 364, khi biếu không chúng tôi kẹo sâm Nam Hàn để ngậm, Viên cười tươi nói: “Quân ốm nhất đoàn nhưng tinh tai, tinh mắt, tao cho hai viên.” Ngượng quá. Thế mà từng lính chiến!
Lúc trước ở biên giới, Viên đi một lát mang về người dẫn đường. Một thanh niên gầy, khô đen như cục than cháy, hai hốc mắt thâm sâu như vừa từ dưới mộ chui lên. Họ lạnh lùng trao đổi ngắn gọn. Trả tiền ngay sau buổi vượt qua biên giới. Tôi nhận ra đường ra trận ngày nào.
Ngầm chữ A. Con suối cạn. Hang đá chôn mấy cô gái Quảng Bình. Tiếng khóc râm rứt không nguôi mãi ba bốn ngày mới đứt. Mặt đất đầy mảnh bom, mảnh rocket trộn lẫn trong bụi. Con đường tuyến sinh tử bụi mát lạnh ngập tới bắp chân. Cái xe Jin 130 chềnh ềnh giữa ngầm trọng điểm. Mở cửa, đổ nghiêng ra người chiến sỹ lái. áo giáp nhôm máu đen. Mắt trừng trừng. Bàn tay trái giữ chặt vô lăng. Phải bẻ gãy ngón cái mới lôi được xác anh ra....
Núi đá vùng này xưa lắm vượn đen! Bây giờ đâu hết? Cỏ, lau, sậy, rừng non vươn xanh lại ngút ngàn, che lấp đường ô tô cũ, cố vươn lên khỏi những thân cây cháy, cành không lá, đen đúa chĩa lên trời, thi thoảng sót lại. Nhiều khi vạch lối, phát đường mà đi. Có tiếng ô tô xa lắm, ì ầm bên trái.
Tôi nghe như ong ong tiếng máy bay Ov10 lượn suốt đêm ngày trên đầu. Đêm, máy bay C130 ì ì nặng tiếng săm soi.
Tôi chỉ núi, chỉ đồi, chỉ rừng kể cho con của Bảo. Thằng bé ngây mắt nhìn. Bố cháu ngày xưa như thế ư? Nó hỏi. Tôi bâng khuâng: “Bố cháu nhanh như cắt. Tinh như cú”.
Khungsedon, đi gùi gạo. Sẩm tối lọt vào ổ phục kích. Sương từ thung lũng trào ra dầy đặc bưng mắt. Thằng địch bất ngờ nhao ra chỉa súng vào ngực. Bảo né người nháy cò ba viên, tiêu diệt ngay hai tên bên trái. Tôi thoắt lật, báng khẩu cối cá nhân đánh bay lên trúng hàm của thằng lính chĩa súng. Cú đánh quá gần. Máu phọt đầy mắt, miệng, nóng, mằn mặn. Bảo hô: chạy! Hai đứa dong hai con lợn. Bỏ! Lợn cũng chạy mất tiêu. Ba lô gạo nếp nương vừa mua của dân dính đạn chảy hết không còn một hạt....Đi toi hai ngàn năm trăm Kíp(3)! Năm ấy cả đại đội mất tết chửi hoắng mấy thằng đi lấy thực phẩm!
Viên bên tôi cười. Dường như nó biết tôi nghĩ gì. Nó xoa bàn tay mềm vào lưng tôi, nhồn nhột, như ý bảo: “Ông bạn già rồi mà nhớ dai!’’
Quân bắt đầu có vẻ sốt ruột. Nó hay hỏi, sắp tới chưa? Mới đi có năm ngày, sắp tới rồi. Nhìn bản đồ mày biết cả còn gì. Tôi sẵng!
Việc này, thú thực tôi đã bàn kỹ với Bảo cụt khi ở nhà. Chỉ cho tất cả biết hướng đi thôi. Còn vị trí chính xác nơi dấu vàng chỉ có người chỉ huy nắm. ấy là ngày xưa ở mặt trận vẫn như vậy.
Đêm rừng. Khí núi túa ra rất lạnh. Buổi tối, phải đốt lửa sưởi. Mùi săng lẻ bắt lửa, mùi thơm lá rừng, hoa cỏ nỏ, tiếng tanh tách cháy nổ bắn ra. Quân mang theo ít rượu nếp. Chúng tôi lùa được con khỉ già, lông nham nhở, cụt một chân khi nó dạn người nhón nhén ra nhặt cơm vãi. Trọng nhìn thấy. La lên. Bốn người đuổi nó mãi, dồn vào góc suối cạn. Tôi vồ trượt. Viên chém một nhát, nó giơ tay đỡ. Ngọn dao bén đứt lìa bàn tay, theo đà băm giữa mặt. Con khỉ già gục xuống ngáp ngáp.
Thui, bóp mắm tôm nướng. Trọng bưng mặt.
Thịt dai ngoách như chão. Có lẽ nó là thương binh từ hồi bom đạn? “Trường sơn chả tới nỗi nào/ đã chơi khỉ lại lạc vào giữa mâm’’ Viên ứng khẩu một câu lục bát. Nhân bữa ấy. Tôi kể chuyện săn thú của bố cho Trọng. Chuyện đánh nhau. Trọng luôn hỏi, thật thế hả chú? Tôi chân thật, đấy là một thời, muôn người như một. Viên cười, chả như một đâu. Tôi bảo, không như một sao thằng Mỹ bỏ chạy. Đâm đầu vào bụi! Viên cười. Tôi không muốn căng thẳng, im lặng. Bây giờ cuộc sống làm cho khó hiểu những điều đã từng có thực xảy ra trong chiến tranh. Viên không muốn tin hay chẳng hiểu mà tin? Mà sao con người nó nhiều mặt thế? Tốt thì như một vị thánh mà ngang thì đúng là cua. Trọng vẫn ham nghe, lại hỏi, đi mãi như thế, lâu như thế mà chú và bố cháu chịu được? Chịu được! “Không chỉ là chú và bố cháu, sau chúng tôi khi ấy là cả dân tộc.’’ Tôi nghĩ như vậy nhưng im lặng.
Suốt tám ngày đi không có gì xảy ra. Thi thoảng gặp vết chân voi. Bãi phân voi to bè còn nghi ngút khói, chua hăng. Mùi cây bị voi chà ngái hắc. Tôi dặn Trọng: thấy voi chớ chạy. Nó khôn lắm, biết ai hiền, ai ác, ai định hại nó, ai không. Cứ thủng thẳng mà đi!
Mùa mưa 72 đói rã họng. Lệnh tiểu đoàn cho bắn một con voi. Thằng Sáu thiện xạ, người Nùng Cao Bằng nhằm bắn con lớn nhất. Con voi bị đạn gầm lên. Sáu chạy. Voi chạy nhanh hơn người. Sáu tụt xuống cái hố củ mài mưa rừng đã xói rộng, lọt thủm hết người. Voi thò vòi vào. Sáu bắn. Thò voi ra. Bắn! Mười ba phát cả thẩy. Không thò vòi nữa. Nó đi vòng quanh Sáu. Dậm! Nghe tiếng súng, người ở nhà đinh ninh có cái khênh, tìm tới. Con voi một ngà đã đổ ềnh, giấu mặt vào bụi lồ ô rậm rạp. Tìm mãi không thấy Sáu. Thấy khoảng đất rừng voi chà nát. Đất lèn đầy vết chân voi. Con chó đại đội cứ cắn nhặng trên mảnh đất ấy. Đào lên, thây Sáu chết ngồi. Mắt trợn ngược, nước dãi, sắn, rau rừng từ dạ dày ọc ngược ra lẫn máu uớt chua áo Tô Châu. Tay ôm súng. Mắt không nhắm, ngược lên không thấy lòng đen. Còn hai viên đạn. Một lên nòng, một trong ổ. Nó bị lèn sống về với ông bà.
Sắp tới vị trí cần tìm, tới ngày thứ chín thì có chuyện. Thằng Quân đi ngoài, hoảng hốt la có người rình nó, ôm quần chạy, thụt chân xuống hố mối. Có quái gì đâu, nó đi trúng dưới cây, chỗ con cầy hôi ăn gắm vừa nhao qua. Tôi nhìn thấy rõ ở cái gốc cây trong bụi rậm những hạt gắm lẫn phân cầy hôi còn bốc khói. Mãi sau này tôi tự hiểu, thời nó ở Căm Pot thoát chết bốn năm lần bị phục kích, bắn trộm nên hư như vậy.
Một cành cây chọc qua lớp vải, đâm xiên vào đùi Quân. Máu tươi chảy đỏ xuống gót chân. Băng bó xong, tôi hỏi có đi được không. Quân gật đầu. Tôi biết, nó phải cố. Nó chống cái gậy le, khập khiễng đi theo đoàn. Tốc độ chậm hẳn lại. Nhưng khi ấy sự chịu đựng phi thường của nó cho kịp đoàn tôi lại thấy thằng Quân của ngày ở Đồng Dù.
Buổi tối, tôi ngồi bên đống lửa xem lại bản đồ, kiểm tra những điểm cao, chỉ cho Quân và Viên. Nếu bình thường là ba ngày nữa tới nơi. Chúng ta cố gắng năm ngày! Quân gật đầu. Nó nghiến răng theo cho kịp đoàn. Viên nheo mắt nhìn Quân. Thực phẩm đủ cho hơn mười ngày nữa. Tôi rất nghiêm khắc chia ra từng bữa như hồi ở lính. Nhưng nếu cứ đi chậm thế này, phải giảm khẩu phần ăn là cái chắc. Còn lượt về nữa.
Ngày hôm sau chân Quân sưng tướng lên. Sáng dậy, nó cà nhắc ra khỏi võng. Nhìn vết sưng của nó, tôi thương quá. Biết làm sao bây giờ. Tôi bảo, hay là để bọn anh võng. Quân nói, không ! Mặt nó đanh lại.
Lại đi. Nhưng thực ra là thằng Quân lê. Bắt qua ngọn núi nửa mưa, nửa nắng. Được hai tiếng, mù, sương bắt đầu thoang thoáng bay lởn vởn rồi lên càng cao càng đặc dần. Nước đọng thành từng hạt nước lớn từ lá rừng trút xuống lộp bộp. Con đường lởm chởm tai mèo ẩm ướt, rồi bắt đầu trơn nhầy rêu. Quân thực sự không thể bước được. Tôi mang ba lô cho nó. Cố lên mày! Ba tiếng nữa qua đỉnh. Bên kia là nắng. Gần thung lũng ấy rồi! Tôi phải đủn đít nó mỗi khi bước qua một tảng đá.
Ba tiếng hành quân kéo ra chín tiếng. Trời tối sẫm mới lên tới đỉnh. Quân ngã vật ra xuống bên triền cỏ bên này núi.
Thằng con Bảo tới bên tôi, hay là để cháu cõng chú ấy? Không được. Nếu mai cứ thế này sẽ làm võng khiêng Quân. Khiêng thế nào? Viên hỏi. Tôi chặt sẵn cái đòn, buộc võng vào, nói cho Viên việc võng thương, bệnh binh của chúng tôi ngày xưa. Viên bĩu môi: “Có cái bản nào gần đây không?’’ Không-Tôi chỉ bản đồ - phải một ngày đường.
Ngày nào bị thương ở trận Boloven. Bốn đứa ốm võng tôi dưới trời mưa lụt sụt. Tôi luôn mê sảng. Tỉnh, nhìn lên chỉ thấy cái lưng đẫm mồ hôi và tiếng thở như chó chạy của thằng Long Hàng Chai. Nó chết hồi đánh trận cuối cùng ở Đồng Dù, cửa ngõ Sài Gòn. Một đại đội rằn ri địch bọc hậu của Lý Tòng Bá đã xơi tái hai nhăm chiến sỹ, trong đó có Long. Nhẽ ra Long không chết, nhưng nó nhẩy khỏi chiến hào, bắn vào toán địch định khử tôi. Đạn chả kiêng người bạn xả thân vì đồng đội. Nó dính trọn cả cả quả cối cá nhân bắn thẳng. Đầu bay mất tiêu. Vết cắt gọn như chặt củ chuối. Bọt máu phun ra sủi phì phì, đùn thành bọng máu đỏ tươi từ cái cổ họng đã mất thủ cấp.
Thằng cáng đi sau là thằng Chiến Dùng. Gọi tên huý là Chiến Dùng vì với nó, bất kì cái gì cũng đút vào miệng được. Tất cả “dùng được!“ Đấy là châm ngôn cửa miệng của nó. Một thằng cao gần mét bẩy. Hồi an dưỡng nặng bẩy chục cân. Khi ấy, còn độc bộ xương lênh khênh thì chóng đói hơn thằng bốn chục cân. Thế là nó phải nhét tất cả cái gì có thể nhét vào bụng. Khốn nạn! Nó vớ phải mỗi cái nấm sót mà tái tím, co giật. Cậy miệng, nhét cái ống nứa, đổ òng ọc cả nửa lạng đường hòa nước đậu vào họng. Lại móc họng, lấy lông công ngoáy cũng không cứu được. Hôm chôn, mùa mưa lấy đâu ra ô tô chở quan. Lồ ô ghép làm quan. Ni lon trải làm chiếu, ba lô làm gối, võng làm chăn. Tôi đút vào túi quần cho nó nửa thanh lương khô BA-70, quỳ thả một nhúm đất khấn thầm. “Mày sống khôn chết thiêng, cứu anh mấy lần, phù hộ nốt cho anh sống cho tới ngày mai’’.
Làm thằng lính biết điều chỉ cần biết ngày mai. Ngày mai tức không phải ngày hôm nay. Ngày mai thì bao giờ chả có. Tôi chỉ dám xin khiêm tốn thế cho nên trời muốn tôi sống suốt cả hơn mười năm bom đạn?
Mặt trời sớm ra trên đỉnh núi no tròn bằng cái chảo vô tuyến lớn, đỏ sậm. Chim hót vang lừng. Gió lồng lộng thổi những đám mây tơ bay ngang. Thằng Quân kéo tôi ra chỗ quang, chỉ về bên trái. Giữa màu xanh ngút ngàn có làn khói mỏng bốc lên. Một mái nhà trắng bạc hắt nắng. Bản! Bản mới! Quân thận trọng đo la bàn. Khoảng ba ngàn mét! Chệch hướng mình đi. Từ đây tới đó phải một giờ. Anh ạ, đưa thằng Quân gửi lại đó. Viên giọng nhẹ như gió. Tôi ngần ngừ. Viên kéo cái chân Quân lên. Bắp chuối đỏ tím. Khéo hoại thư! Tôi lo lắng. Đêm qua, tôi đã chọc cho nó một phát kháng sinh liều cao. Viên lấy ra viên thuốc màu hồng, đưa miệng, bẻ răng đánh cắc. Đưa cho quân một góc và bảo: ‘‘Nuốt!’’ Quân nuốt. Một lát, khuôn mặt Quân bớt tái. Viên lại lục mấy cái vòng bạc từ túi cóc ra. Từng này đủ nuôi ba thằng Quân cả năm. “Để nó vận động, nguy hiểm’’. Viên nói đúng. Tôi hiểu. “Cả tụi quay xuống đó vậy!’’ “Không! Mình tôi đưa Quân là đủ. Anh chuẩn bị cơm nước. Tôi về ngay. Xuống dốc mà’’. “Thế nào Quân?’’ Tôi do dự. Quân nhăn mặt. Sự đau đớn thể xác buộc người ta chọn thái độ. Bây giờ vàng có ý nghĩa gì? Nó gật đầu. Nó nhìn tôi: “Em khỏi là theo dấu đuổi theo ngay’’. Tôi chân thành, không sợ à? Nó cười, lại không sợ rồi! Tôi nắm tay Quân.
Tôi và Trọng nổi lửa. Hơn một tiếng sau Viên quay lại. Nó hổn hển kể: “Dân bản rất tốt. Họ bảo tôi, để nó đấy cả mùa trăng không sợ. Cái cán bộ đi tìm người thân cũng như chúng tao thôi’’. Thế yên tâm rồi. Sẽ quay lại đón Quân sau! Viên xoa tay, tu một ngụm rượu. Cậu nói với họ ra sao? Tôi hỏi Viên. “Bọn tôi đi tìm hài cốt liệt sỹ’’. “Bản có mấy nhà?’’ “Năm nhà. Từ đường chín mới lên đốt rẫy mới’’. “Sao không mua lấy con gà hở chú?’’ Viên mắng Trọng: “Gà qué gì nữa! Mày khi nào cũng nghĩ tới gà!“
Từ đây tới đích cũng chẳng xa lắm. Thế mà hay. Khi quay về sẽ vào đó mua thêm gạo và thịt. Tôi thầm tính.
Chúng tôi lại đi. Xuống dốc, cả bọn gần như chạy. Tôi phải nói hai đứa từ từ. Máu dộng nhiều xuống bắp là đêm đau đấy! Thoắt, mọi khung cảnh xưa cũ hiện dần ra. Cũng phải ba ngày sau mới tìm thấy ngã ba suối. Nhiều dấu vết bị thời gian xóa nhòa. Viên bám sát tôi. Khi quẩn quanh tìm vật chuẩn, Viên sáng dạ, trách nhiệm. Rồi cũng tìm thấy ngọn núi thấp và con suối.
Viên nhao xuống ngã ba suối đầu tiên. Nó lặng lẽ sục tay vào từng hốc đá. Bụi vàng còn sót lại, bám lấm tấm mấy đầu ngón của hắn. Viên nheo mắt, ngắm. Nó liếm bụi vàng. Nó xoa vào mặt.
Trọng hét lên nhẩy múa như trẻ nhỏ. Tiếng lanh lảnh âm vang cả núi. Lại nhặt được cái mũ sắt đã mục quai rỉ hoét. Tôi bảo, của bố mày ngày xưa đãi vàng. Trọng chụp cái mũ lên đầu có vẻ khoái trá. Con suối êm đềm chảy. Rừng cây và ngọn núi cũ vẫn thế. Trầm tư, bình yên. Tôi đứng lặng.
Tôi mang mấy thẻ hương ra thắp vái tứ phương trên bờ cỏ. Tôi gọi. Chúng mày ơi. Tôi khấn hồn bọn bạn cũ. Khấn thằng Vượng, Chiến Dùng, Long Hàng Chai và Hội. Những kẻ một thời trẻ trai chưa hưởng xái gì. Những kẻ trót dang dở mùi đời, đầy đau khổ mà dám quên đi để chia sẻ nơi mặt trận...
Từ đó tới hang dấu vàng nào có xa. Tối rồi. Tôi dẫn cả bọn vào kho súng đạn cũ. Còn dăm cái thùng đạn vẫn yên trong kho. Mầu xanh quân dụng bền, vẫn tươi, mặc thời gian. Dăm gói bộc phá. Kíp nổ, dây cháy chậm. Cái hốc chúng tôi nấu ăn tro than nguội lạnh. Đây là chỗ tôi ngủ. Đây là chỗ thằng Long, thằng Bảo, thằng Hội...Tôi sờ soạng. Tôi cảm giác như tìm lại được điều gì rất khó dùng ngôn từ nói được. Tôi nhặt được cuốn Văn Nghệ Quân Đội trên hộc đá. Đứa nào quên nhỉ? Tấm ảnh bìa, cô gái áo nâu, ngực căng đẹp tươi choàng súng trường! Hồi #1ea
Nguyễn Văn Thọ
Từ khóa » Sưng Lưỡi Gà Zippo
-
Lưỡi Gà Zin Linh Kiện Chuyên Dụng Sửa Chửa Zippo
-
Bộ đóng Chốt Lưỡi Gà Zippo Dụng Cụ Sửa Zippo
-
Top #10 Xem Nhiều Nhất Lưỡi Gà Zippo Yếu Mới Nhất 5/2022 ...
-
Địa Chỉ Sửa Chữa ZiPPO Uy Tín
-
Lưỡi Gà Tiếng Anh Là Gì - Lashkar
-
Lưỡi Gà Trong Tiếng Anh Là Gì - Lashkar
-
Hướng Dẫn Chỉnh Zippo Mới Mua Bị Lệch Nắp, Lỏng Ruột Bằng Keo 502
-
Tất Cả Những Gì Bạn Cần Biết Về Thì Là | Vinmec
-
Sửa Chữa Thay Thế Lưỡi Gà Zippo Pk34 - KENT SHOP
-
[WeTrekology] Hướng Dẫn Cách Loại Bỏ Và Chữa Trị Khi Bị Gai ...
-
Lưỡi Gà Zippo- Loại Tốt Kèm Chốt Tán Lưỡi Gà - Sendo
-
Trẻ Em Bị Nhiệt Miệng Nên Ăn Gì? 5 Cách Phòng Tránh ...
-
Tổng Cung Cấp Mỹ Phẩm Hàn Quốc Khương Đồn - KD - Home ...