Về Chế định Viện KSND Theo Quy định Của Hiến Pháp Nước Ta Từ ...

Theo quy định tại Chương VI, Hiến pháp năm 1946, Cơ quan tư pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa gồm có Tòa án tối cao, các tòa án phúc thẩm, các tòa án đệ nhị cấp và sơ cấp. Hệ thống cơ quan công tố chưa được Hiến pháp quy định. Sau đó, Chính phủ mới ban hành các sắc lệnh quy định về cơ quan công tố nằm trong hệ thống tổ chức của tòa án, do Bộ tư pháp quản lý.

Ngày 29/4/1958, Quốc hội ban hành Nghị quyết thành lập Viện Công tố. Ngày 01/7/1959, Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng ban hành Nghị định số 256-TTg quy định về nhiệm vụ và tổ chức của Viện Công tố. Theo đó, hệ thống Viện công tố gồm có: Viện Công tố trung ương; Viện Công tố địa phương các cấp; Viện Công tố quân sự các cấp. Nhiệm vụ chung của Viện Công tố là giám sát việc tuân thủ và chấp hành pháp luật Nhà nước, truy tố theo luật hình những kẻ phạm pháp để bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân, giữ gìn trật tự an ninh, bảo vệ tài sản của công, bảo vệ quyền lợi và lợi ích của người công dân, bảo đảm cho công cuộc kiến thiết và cải tạo xã hội chủ nghĩa tiến hành thuận lợi. Nhiệm vụ cụ thể của Viện Công tố là: Điều tra và truy tố trước tòa án những kẻ phạm pháp về hình sự;Giám sát việc chấp hành luật pháp trong công tác điều tra của cơ quan điều tra; Giám sát việc chấp hành luật pháp trong việc xét xử của các tòa án; Giám sát việc chấp hành luật pháp trong việc thi hành các bản án về hình sự, dân sự và trong hoạt động của cơ quan giam giữ và cải tạo; Khởi tố và tham gia tố tụng trong những vụ án dân sự quan trọng có liên quan đến lợi ích của Nhà nước và của nhân dân. Trong việc chấp hành các nhiệm vụ nói trên, Viện Công tố có trách nhiệm áp dụng những biện pháp thích đáng theo pháp luật để xử lý mọi hành vi phạm pháp, mọi phần tử phạm pháp.

Ngày 31/12/1959, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà khoá I, kỳ họp thứ 11 đã nhất trí thông qua Hiến pháp năm 1959. Chế định VKSND lần đầu tiên được Hiến pháp 1959 quy định tại Chương VIII, từ Điều 105 đến Điều 108. Theo quy định tại Điều 105 Hiến pháp năm 1959: “ Viện kiểm sát nhân dân tối cao nước Việt Nam dân chủ cộng hoà kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ, cơ quan Nhà nước địa phương, các nhân viên cơ quan Nhà nước và công dân.

Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương và Viện kiểm sát quân sự có quyền kiểm sát trong phạm vi do luật định”.

Các Điều từ 106 đến 108 Hiến pháp năm 1959 quy định về nhiệm kỳ của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao là năm năm; tổ chức của các Viện kiểm sát nhân dân do luật định. Viện kiểm sát nhân dân các cấp chỉ chịu sự lãnh đạo của Viện kiểm sát nhân dân cấp trên và sự lãnh đạo thống nhất của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội, trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Như vậy, Hiến pháp 1959 chỉ mới quy định về chức năng của VKSND là “kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ, cơ quan Nhà nước địa phương, các nhân viên cơ quan Nhà nước và công dân”, chưa quy định về nhiệm vụ của VKSND.

Cụ thể hóa Hiến pháp năm 1959, ngày 15/7/1960 Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà khoá thứ II, kỳ họp thứ nhất đã thông qua Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân. Ngày 26/7/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Lệnh số 20/LCT công bố Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960, đánh dấu sự ra đời của ngành VKSND Việt Nam. Đây là bước phát triển quan trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện các cơ quan tư pháp của nước ta. Và ngày 26/7/1960 được lấy làm ngày thành lập Ngành kiểm sát nhân dân.

Tại Điều 2 Luật tổ chức VKSND năm 1960 quy định “ Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật làm cho pháp luật được chấp hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất, pháp chế dân chủ nhân dân được giữ vững.

Mục đích của việc kiểm sát là bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân, trật tự xã hội, tài sản công cộng và những quyền lợi hợp pháp của công dân, góp phần bảo đảm cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và sự nghiệp đấu tranh nhằm thực hiện thống nhất nước nhà được tiến hành thắng lợi”.

Ngày 18/12/ 1980, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VI, kỳ họp thứ 7 thông qua Hiến pháp năm 1980. Tại Chương X Hiến pháp năm 1980 quy định về TAND và VKSND, theo đó tại Điều 127 quy định “ Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong phạm vi chức năng của mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự tôn trọng tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân.

Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của tập thể và quyền lợi chính đáng của công dân đều phải được xử lý theo pháp luật”.

Các Điều từ 138 đến 141 Hiến pháp năm năm1980 quy định: Viện kiểm sát nhân dân tối cao nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các bộ và cơ quan khác thuộc Hội đồng bộ trưởng, các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức xã hội và đơn vị vũ trang nhân dân, các nhân viên Nhà nước và công dân, thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố trong phạm vi trách nhiệm của mình ( Điều 138). Nhiệm kỳ của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội ( Điều 139). Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các địa phương chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Viện trưởng, các Phó Viện trưởng và kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân địa phương do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm và bãi miễn ( Điều 140). Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng Nhà nước (Điều 141).

Ngày 15/4/1992, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VIII, kỳ họp thứ 11 thông qua Hiến pháp năm 1992. Chế định VKSND và TAND được quy định tại Chương X. Tại Điều 126 Hiến pháp năm 1992 quy định “Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong phạm vi chức năng của mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân”.

Chức năng của VKSND tiếp tục được Hiến pháp quy định: Viện kiểm sát nhân dân tối cao kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, các cơ quan khác thuộc Chính phủ, các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân, thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố trong phạm vi trách nhiệm do luật định ( Điều 137).

Tuy nhiên, về nguyên tắc, tổ chức và hoạt động của VKSND, về cơ bản Hiến pháp năm 1992 quy định như Hiến pháp 1980 nhưng có quy định mới về việc thành lập Ủy ban kiểm sát. Theo đó, tại Điều 138: Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các địa phương, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Việc thành lập Uỷ ban kiểm sát, những vấn đề Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân có quyền quyết định, những vấn đề quan trọng mà Uỷ ban kiểm sát phải thảo luận và quyết định theo đa số do luật định. Nhiệm kỳ của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Viện trưởng, các Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân địa phương và Viện kiểm sát quân sự các quân khu và khu vực do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.

Bên cạnh đó, Điều 139 về cơ bản vẫn giữ nguyên so với Điều 141 Hiến pháp 1980, nhưng có sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tổ chức Bộ máy nhà nước “ Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước”. Đồng thởi, bổ sung Điều mới quy định “ Viện trưởng các Viện kiểm sát nhân dân địa phương chịu trách nhiệm báo cáo trước Hội đồng nhân dân về tình hình thi hành pháp luật ở địa phương và trả lời chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân” ( Điều 141).

Ngày 25/12/2001, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X, kỳ họp thứ 10 thông qua Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992. Theo đó, Điều 137 và 140 Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung như sau: "Điều 137. Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong phạm vi trách nhiệm do luật định". “ Điều 140. Viện trưởng các Viện kiểm sát nhân dân địa phương chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân và trả lời chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân",

Như vậy, thực hiện Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001), VKSND thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, không thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội. Viện trưởng các VKSND địa phương chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân thay vì chỉ báo cáo về tình hình thi hành pháp luật ở địa phương như trước đây.

Ngày 28/11/2013, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua Hiến pháp năm 2013, có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2014. Theo đó, chế định về VKSND và TAND tuy vẫn được quy định tại Chương VIII nhưng đã được tách ra, không còn quy định chung về nhiệm vụ như Hiến pháp năm 1980 và 1992. Đồng thời, Hiến pháp năm 2013 chỉ còn có ba Điều từ Điều 107 đến 109 quy định về VKSND.

Tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013 quy định: “ 1. Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp.

Điều 108 quy định:“ 1. Nhiệm kỳ của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, nhiệm kỳ của Viện trưởng các Viện kiểm sát khác và của Kiểm sát viên do luật định.

Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. Chế độ báo cáo công tác của Viện trưởng các Viện kiểm sát khác do luật định”.

Và tại Điều 109 quy định: “1. Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên; Viện trưởng các Viện kiểm sát cấp dưới chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Căn cứ các quy định của Hiến pháp năm 2013: VKSND tiếp tục thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Tuy nhiên, so với các quy định của Hiến pháp năm 1992, có một số quy định được sửa đổi, bổ sung như sau:

- Về chức năng của VKSND, Hiến pháp năm 2013 không quy định cụ thể chức năng của VKSNDTC, của VKSND địa phương, của các VKS quân sự như Hiến pháp năm 1992 mà quy định gọn hơn, khái quát hơn, đồng thời quy định rõ về hệ thống của VKSND “ Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm sát khác do luật định”.

- Về nhiệm vụ của VKSND, nếu như Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định: “Viện kiểm sát nhân dân, trong phạm vi chức năng của mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân”, thì Hiến pháp năm 2013 quy định cụ thể, rõ ràng, đầy đủ hơn về nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân, phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế và cải cách tư pháp " Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”.

- Đặc biệt, về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trước đây chỉ được quy định trong Pháp lệnh Kiểm sát viên thì nay đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013 “ Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, Kiểm sát viên tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân”.

- Hiến pháp năm 2013 chỉ quy định về nhiệm kỳ, chế độ báo cáo của Viện trưởng VKSNDTC, còn các quy định khác như bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, nhiệm kỳ của Viện trưởng các Viện kiểm sát khác và của Kiểm sát viên; về chế độ báo cáo công tác của Viện trưởng các Viện kiểm sát khác...Hiến pháp năm 2013 không quy định cụ thể mà “do luật định”. Vấn đề này cũng đã được thể hiện tại nhiều Điều cụ thể của Hiến pháp năm 2013. Đây cũng là thể hiện trình độ, kỹ thuật lập hiến nhằm tránh cho Hiến pháp quá chi tiết, gây khó khăn cho việc xây dựng các văn bản luật và văn bản dưới luật.

HỒ NGỌC THẢO

Từ khóa » Chức Năng Của Viện Kiểm Sát Theo Hiến Pháp 2013