Về I Hay Y Trong Chính Tả Việt Ngữ | Tương Tri
Có thể bạn quan tâm
NGUYỄN KHẮC XUYÊN

về i hay y trong chính tả việt ngữ
Đọc Ngày Nay số 239 ngày 1 tháng 11-1991, Phần B, chúng tôi được biết bài của P.A.N.K. nói về Vài điểm nhận xét về chính tả Việt ngữ, chúng tôi xin góp đôi lời để làm sáng tỏ vấn đề. Thực ra đã có nhiều người bàn luận tới. Riêng phần chúng tôi, chúng tôi cũng viết cho tạp chí Văn Hóa Nguyệt san Sàigòn năm 1956 về Nguồn gốc hai chữ I và Y trong quốc âm. Chúng tôi cũng nhắc lại trong Sự hình thành chữ quốc ngữ. Ở đây chúng tôi sẽ trình bày lai lịch vấn đề từ thế kỉ 17 cho tới ngày nay.
Chúng tôi sẽ nói tới ba giai đoạn chính yếu thuộc ba thế kỉ khác nhau: Thế kỉ 17 với nhóm người sáng lập chữ quốc ngữ, trong đó nổi bật tên tuổi giáo sĩ Alexandre de Rhodes, rồi sau gần hai thế kỉ nghĩa là vào thế kỉ 19 mới có Taberd và Theurel với tự vị Việt Latinh, Legrand de la Liraye và Génibrel với tự vị Việt Pháp để đi tới Huỳnh Tịnh Của. Sau cùng vào thế kỉ 20, chúng ta có Việt Nam Tự điển của Khai Trí Tiến Đức và Tự vị Việt Hoa Pháp của Gustave Hue, để rồi đi tới những tự điển rất gần chúng ta ngày nay: Lê Ngọc Trụ và Lê Văn Đức Sàigòn; Từ điển tiếng Việt và Từ điển chính tả tiếng Việt Hà Nội.
1. Thế kỉ 17 với Alexandre de Rhodes
Nói về Tự điển Việt Bồ La ấn hành năm 1651 ở Rôma thì cũng phải đề cập tới Khái luận về tiếng Việt hay Mẹo tiếng Việt, ngữ pháp tiếng Việt đầu tiên cũng do Alexandre de Rhodes viết. Ông nói gì về hai tiếng I và Y chúng ta muốn bàn giải ở đây, vắn tắt thì thế này:
Ở đầu một chữ, khi đứng trước một nguyên âm thì dùng Y, thí dụ Yả, Yêm, còn khi đứng trước một phụ âm thì dùng I, thí dụ Im, In.
Ở cuối một chữ thì đều dùng l, thí dụ hỉ mũi, biên kí, trừ khi bó buộc phải dùng Y để phân biệt với một âm khác, thí dụ cai, cay.
Đứng một mình thì dùng I, thí dụ i (áo), í (mặc í, có í, vô í).
Theo đây thì chúng ta thấy tác giả đã nghiêm chỉnh giữ một định luật bất khả xâm phạm: một kí hiệu cho một âm, một âm có một kí hiệu. Nhưng tại sao lại không viết I mà là Y ở đầu một chữ khi tiếp sau là một nguyên âm. Trong Tự điển ông ghi: Yả, Yêm, Yểm, Yên, Yến sào, Yên (một yên), Yết hầu, Yêu, Yểu, Yểu (chết yểu); Im, In, Inh ỏi, ít.
Có một điều mà chúng tôi chưa thấy rõ khi bắt đầu nghiên cứu chữ quốc ngữ đó là điều này. Khi lớp giáo sĩ dòng Tên đầu thế kỉ 17 tới xứ ta, vì thấy chữ Nôm rất khó học, nên họ mới nghĩ ra cách Latinh hóa vần quốc âm để họ dễ học tiếng nước ta. Chúng ta đã có chữ viết rồi, chúng ta không cần một thứ chữ nào khác. Phiên âm tiếng Việt để cho họ học mà thôi và họ đã dùng chữ Latinh để viết chữ Việt. Mà tiếng Latinh là thứ tiếng hay thứ chữ cổ điển chung cho cả các giáo sĩ người Âu, nhất là người Ý, người Bồ, người Tây Ban Nha, người Pháp. Và trong vần Latinh của họ có một chữ I nguyên âm là I và một I phụ âm là J. Do đó trong các sách Latinh lúc đó (bởi vì sau này có sửa đổi), họ viết iustitia = justitia (la justice, sự công bằng), hoặc ieiunium = jejunium (le jeune, sự ăn chay). Vì thế, đối với họ mà thôi (bởi vì đối với chúng ta là những người không biết tiếng Latinh, thì không có sự lẫn lộn đó) nếu viết là ỉa, iếm, iểm, iến, iến sào, iến, iết, iêu… thì họ có thể lầm là jả, jếm, jểm, jến, jến sào, jết, jêu… Còn nếu viết im, in, inh ỏi, ít… thì I ở đây không thể là I phụ âm được.
Chữ Y này, chúng ta gọi là I dài (Y) để phân biệt với I ngắn (I), nhưng thực ra khi chúng tôi học đánh vần thì gọi nó I gờ rét, vì là chữ I tiếng Hylạp (Y grec). Bởi vì thực ra tiếng Latinh chỉ có chữ I, nhưng sau này khi họ dịch tiếng Hylạp sang tiếng nước họ, thì họ đã phiên âm chữ upsilon Hylạp là Y. Thí dụ Kupios thành Kyrios, để thành Kyris trong kinh Latinh thời xưa vẫn đọc. Chúng tôi không dài dòng về vấn đề này.
Trung thành với lời lẽ của mình về chữ I đứng cuối, De Rhodes đã ghi trong tự điển nhất luật như sau:
– Hi, hỉ mũi; hỉ, hoan hỉ.
– Kí, biên kí; kì, hương kì nam; kì, kinh kì; kỉ, ngoại kỉ.
– Li, Cao li; lí, lí lẽ.
– Mĩ (tốt), mị, phì mị (béo).
– Qui (về); quí, phú quí, quỉ.
– Ti, nha ti; tí (chuột); tỉ, củ tỉ; tị (rắn).
Thực ra sự hình thành chữ quốc ngữ là công cuộc thuộc về cả một lớp người đã đi trước De Rhodes: ông có công là đã thu tập, đã hoàn thành một cách sáng sủa và tra tay kí vào mấy cuốn như Phép Giảng và Tự điển của ông (1651). Vì thế, đó đây, người ta đã thấy trong các bản viết tay một số các chữ viết theo cách thức ông đã nêu ra trong Khái luận (1651).
Bản viết tay của Borri năm 1621, có ghi ma quỉ (Đỗ Quang Chính, Lịch sử chữ quốc ngữ, Sàigòn, 1972, trang 32). Bản viết tay của Gaspar d’Amaral năm 1632 ghi: nha ti (Sd trang 55), tế kì đạo (trang 56), cầu iền (trang 59). Theo chúng tôi, chữ iền D’Amaral viết ở đây, có thể coi là jền thì đúng hơn, bởi vì đây là cầu Dền, ô cầu Dền ở Hà Nội ngày nay, không xa chùa Liên Phái thời danh. De Rhodes ghi trong Lịch sử Đàng Ngoài là cầu Giền, tự điển của ông cũng ghi cầu Giền.
Một bản viết tay khác vào năm 1648 cho biết người ta đã viết í chứ không phải ý: í nài (Sd trang 75); muôn í; Lu-i-si phiên âm tên riêng tiếng Pháp là Louis (Đỗ Quang Chính cho là phiên âm Aloysius).
Thế nhưng trong bản viết tay của Văn Tín năm 1659, thì thấy ý chứ không í (Sd trang 95). Và cũng trong bản viết tay năm 1659 của Bentô Thiện, thấy
viết theo nguyên tắc De Rhodes đã đưa ra về chữ I ở cuối, đó là : Mị chu (châu) (Sd trang 109), Lí Nam Đế (trang 111), nhà Lí lên trị (Sd trang 113), nhà Lí (trang 114), Lí Li (Hồ Quí Li, Sd trang 115).
Tóm lại về thế kỉ 17 và nhất là ở Rhodes, định luật một âm có một kí hiệu, một kí hiệu cho một âm được duy trì nghiêm chỉnh và đó có thể là đề tài suy nghĩ và định đoạt cho chúng ta ngày nay, như chúng ta sẽ thấy sau.
2. Thế kỉ 19 với Taberd
Trước khi tới Taberd thế kỉ 19, thực ra chúng ta có Pigneaux de Béhaine nhưng hai tác phẩm của ông này chưa được công bố và hiện nay vẫn còn là những bản viết tay rất quí nằm ở Văn khố Hội Thừa Sai ngoại quốc Paris, phố Du Bac. Nên chúng tôi không thể biết thêm về ông. Trái lại, Taberd nói rõ là đã dùng tác phẩm của Pigneaux và thêm nhiều từ cho tác phẩm của ông ấn hành năm 1838, nhan đề Nam Việt Dương Hiệp Tự vị hay Dictionarium Annamitico-Latinum (Tự vị Việt Latinh).
Taberd không hoàn toàn theo Rhodes, ông đã không giữ đúng qui luật người trước đã đưa ra, cho nên ông viết: y, ý, ỷ, yả, yêm… nhưng lại viết: ym, iủ.
Còn ở cuối, ông viết như de Rhodes: hi, hí, hỉ, kị, kí, kì; mị, mí mì, mĩ; qui, quí, quì, quỉ; tí, tì, tị, nhưng ông vừa viết li (phân li), lì, vừa viết lý, lý lẽ, đạo lý, địa lý, hoa lý.
Như vậy, với ông, chữ y đã xâm nhập vào vần quốc ngữ với y, ý, lý và mặc dầu ông ghi ym (đáng lí phải là im) và ỉu (đáng lí phải là yủ, theo De Rhodes), ông giữ cách viết như De Rhodes trong yả. Đó là phần đóng góp của Taberd, ông này, như chúng tôi đã nói và chính ông cũng cho biết, đã sử dụng dồi dào Pigneaux de Béhaine (vào năm 1777).
Theo sau Taberd, vào thế kỉ 19 này, có Theurel viết Tự vị Annam Latinh, Ninh Phú, 1877, Legrand de la Liraye với Dictionnaire Annamite Francais, Paris, 1874; Génibrel, Vocabulaire Annamite Francais, Nam ngữ thích Tây tổng ước, Sàigòn, 1893 và sau đó là Huỳnh Tịnh của với Đại Nam quấc âm tự vị, Sàigòn, 1895.
Theurel nói là đã theo Taberd, nhưng thực ra, ông thêm khá nhiều từ và nhất là sắp xếp theo từng ý nghĩa của một chữ, có chữ bao hàm hai hay ba, hoặc sáu bảy nghĩa. Nói chung Theurel viết theo Taberd như y, ý, ỳ, yả, như iu íu, iủ, nhưng ông ghi im, còn khi viết ym thì ông nói “hãy coi im”.
Tới những chữ chúng ta đưa ra làm thí dụ, thì Theurel cũng theo Taberd mà viết: hi…, kí…, mi…, qui…, ti. Về li thì vừa có li, lị, lì, lỉ tỉ, vừa có lý với bảy nghĩa được ghi lần lượt: 1) lý lẽ, lý luận; 2) thiên lý; 3) hương lý, lý trưởng, 4) lý hình, 5) hành lý; 6) họ Lý, nhà Lý 7) hoa thiên lý.
Cũng như Taberd, ở đây Theurel không cho biết tại sao đã dùng li, lị, lì, lí, vừa lý như trên đã thấy, cũng như đã không dùng i, í mà là y, ý.
Liraye cũng theo Taberd nói chung và viết y, ý, ỳ, ỷ, yả và iu, iủ, nhưng im, chứ không ym. Ngoài ra, ông viết hi…, mi, mĩ..; qui…; ti… Còn về ki thì có kị, kiêng kị; kĩ, kĩ càng; nhưng lại ghi ký, biên ký, ký chép; kỳ, kỳ dị, tam kỳ, kỳ lân…; kỷ, năm kỷ tị, tự kỷ… Về li, thì có li, li dị…; lị, bệnh lị… nhưng có lý với nhiều ý nghĩa như trong Theurel tuy ít hơn một chút, ông cũng không cắt nghĩa tại sao ông dùng ký, kỷ thay vì kí, kỉ. Hẳn không phải vì chữ nào gốc Hán thì ghi với y, còn chữ nào gốc Nôm thì ghi i, bởi vì Liraye cẩn thận ghi xuất xứ của một số chữ và ở đây ông viết kị (gốc Hán tự) mà lại viết với i, còn ký, kỳ, kỷ cả ba chữ này đều được coi là gốc Hán tự, theo Liraye, mà lại ghi với y.
Như vậy với ông này, có sự lấn át của chữ Y bởi vì không phải chỉ có y, ý và lý mà còn thêm ký nữa.
Génibrel không đi xa hơn mấy bạn đồng sự, bởi vì ông viết y, ý, ỳ, ỷ, yả, iu, iủ, nhưng không viết ym mà lại là im. Ngoài ra ông viết: hi…; mi, mỉ…; qui, quí..; ti, tị, tí… nhưng ông lại ghi cả hai lối viết: ki, kị, kí hay ký, kì hay kỳ, kỉ hay kỷ, kĩ hay kỹ. ông cũng ghi: li hay ly, lị, lý (họ Lý).
Huỳnh Tịnh Của là người Việt Nam đầu tiên làm từ điển tiếng Việt, năm 1895. Đây không phải là từ điển Việt Latinh hay Việt Pháp mà là hoàn toàn tiếng Việt, lấy tiếng Việt cắt nghĩa tiếng Việt.
Thực ra Huỳnh Tịnh Của theo những người trước và ông ghi:
y, ý, yả, yê… ym, iủ…
Ngoài ra có:
hi, hì, hí, hỉ
mi, mì, mị, mí, mĩ
qui (về), qui (chế), qui (rùa), quị, quí, quì, quỉ
ti, tị, tí, tỉ, tĩ, tị.
Nhưng lại có:
li (lìa); li, lưu li; li, phân li;
ly, hồ ly; lý (lẽ), lý (dặm), Lý (họ Lý, nhà Lý); Lỳ (mòn).
Về ki thì có ki, kị, rồi kí (nhớ, biên, ghi), ký (gởi, ủy thác); kì (lạ, hẹn), kỳ (kỳ lân), kỳ (cờ), kì (cờ), kỳ (kinh kỳ), kỳ (cầu); ký (sử ký), kỉ (ngoại kỉ). Nói chung, không có một tiêu chuẩn nào, không theo một qui tắc nào, thí dụ kỳ (lá cờ), kì (đánh cờ)…
Tóm lại, trong thế kỉ 19 này, chữ Y xâm nhập vào K và L, tức Ký, Lý… còn thì vẫn giữ hi, mi, qui, và ti. Cái nguyên tắc ban đầu không được áp dụng nghiêm chỉnh.
3. Tiền bán thế kỉ 20
Không có khả năng kê khai hết các từ điển, chúng tôi chỉ đưa ra hai cuốn làm tiêu biểu cho giai đoạn này: Việt Nam tự điển của Khai Trí Tiến Đức, Hà Nội 1932 và Dictionnaire Annamite Chinois Francais (Tự điển Việt Hoa Pháp) của Gustave Hue, 1937.
Khai Trí Tiến Đức là cuốn từ điển tiếng Việt thứ hai do một nhóm người Việt Nam soạn, sau cuốn của Huỳnh Tịnh Của. Đại Nam quấc âm tự vị (1895) đã ra mắt đồng bào vào thời phôi thai của nền văn học viết theo chữ quốc ngữ, trái lại bộ Việt Nam tự điển được biên soạn sau khi đã có hai tờ Đông Dương tạp chí và tờ Nam Phong và một số tác giả tiên phong trong văn học quốc ngữ.
Bộ tự điển này có hai đặc điểm trong vấn đề chúng ta đang bàn giải. Thứ nhất, chúng ta thấy ghi: y (nó), y (áo), y (theo), y (thuốc) và ý, ỳ, ỷ, ỵ. Nhưng nếu ghi ỉu thì cũng viết là ỉa; chữ ỉa này hoàn toàn mới so với cách viết thế kỉ 17 và 19.
Thứ hai, chúng ta thấy ghi:
hi, hí, hỉ.
li, lí. (Đây là một lối viết khác với lối viết của những người trước).
ky, ký, kỳ, kỷ, kỹ, kỵ. (Hoàn toàn tránh i).
mi, mí, mì, mĩ, mị. (Kể cả Mĩ châu).
qui, quí, quì, quỉ, quĩ, quị.
ti, tí, tì, tỉ, tĩ, tị. (Không có y).
Gustave Hue là một giáo sĩ thuộc Hội truyền giáo ngoại quốc Paris, người Pháp. Ông rất tinh thông Hán học, lại viết tiếng Việt sành sõi, người ta thường nhắc tới bộ Tự điển Việt Hoa Pháp và bộ sách tranh luận khá gay gắt về vấn đề Phật giáo vào thời gian này, gọi là bộ Phục Phật xích độc in khổ bỏ túi và có chừng hơn một chục cuốn. Trong lời tựa của tự điển, ông viết rất thẳng thắn và rất có lí như thế này: “Hai chữ y và i hình như chỉ chỉ một âm, nửa nguyên âm hay nguyên âm tùy trường hợp và việc dùng hai chữ này tách biệt thì không có lí cớ nghiêm chỉnh. Do đó, để duy trì truyền thống, thì chúng tôi giữ chính tả cổ xưa.” (Sđ trang 2)
Do đó, chúng ta thấy có: y, ý, ỷ (mà không có i, í, ỉ); có ỉa, ỉu nhưng ở yả thì nói coi ỉa. Chúng tôi xin lỗi độc giả, vì hẳn có người thấy khó chịu khi nói đi nói lại cách viết chữ này: yả hay ỉa, nhưng chính tả là chính tả, không tránh né được. Chúng tôi nhắc lại, khi viết yả là để tránh không cho người đọc lẫn với ỉa tức jả đối với người đọc theo tiếng Latinh, như chúng tôi đã nói ở trên. Theo nguyên tắc này thì phải viết yủ để khỏi lẫn với iủ tức jủ và nếu viết iêu thay vì yêu, thì có thể lẫn với iêu tức jêu, vì i vừa đọc là i nguyên âm, vừa đọc là j phụ âm trong La ngữ.
Còn về sáu chữ chúng ta bàn tới thì hoàn toàn ông viết với i, không hơn không kém:
hi, ki, li, lí, mi, mĩ, qui, quí, ti…
Ở chữ mĩ, ông đưa ra hai nghĩa:
–mĩ là đẹp, là tốt;
– mĩ là phiên âm vắn tắt của chữ Amérique, gọi là Mĩ quốc hay A-mĩ-lợi-gia.
Như vậy trừ chữ y dùng thay cho i theo De Rhodes, thì Gustave Hue gần De Rhodes hơn cả và ông nói là ông theo chính tả cổ truyền.
4. Hậu bán thế kỉ 20
Giai đoạn hậu bán thế kỉ 20 này được đánh dấu bằng một Hội nghị thống nhất ngôn ngữ được tổ chức tại Sàigòn vào tháng 9 năm 1956. (Coi Văn Hoá nguyệt san, 1956, số 16, trang 1824). Khi viết bài này, chúng tôi cũng không còn nhớ về chi tiết và cũng không có tờ nguyệt san vừa nói. Thế nhưng hẳn là đã có những buổi thảo luận về hai chữ I và Y này, tại sao viết I mà không viết Y hay ngược lại. Chúng tôi cũng đã viết bài đã nói ở trên về nguồn gốc hai chữ Y và I và dĩ nhiên là nại tới văn bản cơ bản của De Rhodes trong Khái luận Việt ngữ cũng đã nhắc ở trên.
Cũng trong hội nghị này, người ta đã trình bày qui luật: một kí hiệu cho một âm, một âm có một kí hiệu, nhưng cũng thêm một qui luật thứ hai: thông tục cũng là một qui luật phải tôn trọng, khi không nên cải tổ, hay khó cải tổ, không cần cải tổ.
Ở thời kì này, có nhiều công trình đáng ghi nhớ, vắn tắt hãy kể ra: ở miền Nam có Lê Ngọc Trụ với Việt ngữ chính tả tự vị, Sàigòn, 1959 và Lê Văn Đức, cộng tác với Lê Ngọc Trụ, với Việt Nam tự điển, Khai Trí, Sàigòn, 1970. Ở miền Bắc có Từ điển tiếng Việt, Hà Nội, 1967, Từ điển chính tả, Hà Nội 1985, và Từ điển tiếng Việt, Hà Nội, 1988. Lê Ngọc Trụ là nhà tinh thông Hán học, có nhiệt tình với quốc văn và có công nghiên cứu rành mạch. Riêng về vấn đề nhỏ bé chúng ta bàn giải ở đây, ông cũng theo người đi trước, thí dụ ỉ, âm ỉ; ỷ, ỷ lại, ỉa, ỉu. Cũng vậy ông viết mĩ, mĩ miều; Mỹ tho, Mỹ quấc. Nếu ông viết tỉ, tĩ, tị (mũi) thì ông lại viết quy, quỳ, quỷ, quỹ, quỵ, quý.
Lê Văn Đức cũng phân biệt cách viết, bởi vì nếu có i, ì, í thì cũng có y, ỳ, ý, ỷ dĩ nhiên với nghĩa khác nhau. Nếu ông viết iủ thì ông cũng ghi ỉa.
Về những chữ chúng ta bàn giải ở đây, không nhất luật, lúc ghi I, khi Y, có khi viết cả hai I và Y trong ngoặc, thí dụ hi (hy), hí (hý); cũng viết lý, còn mi thì viết mi (mày), mi (lông mi), mỹ (đẹp), mị, Mỹ (Hoa Kỳ), về ti, vừa có tí, tị (chút ít) vừa viết tỵ (tuổi tỵ), tý (tuổi tý). Còn ki, thì có kí (kí lô), kì (kì cọ), ki (cái ki), nhưng có kỳ, ký, kỷ, kỹ, kỵ. Tóm lại, người ta có cảm tưởng như có một chút kì thị các chữ: tầm thường thì viết I, cao sang hoặc gốc Hán thì viết Y? Thí dụ một tí, một tị và tuổi Tý, tuổi Tỵ.
Từ điển tiếng Việt, Hà Nội, 1963, cho biết “về chính tả, chủ yếu dựa vào quyển Từ điển chính tả phổ thông của Viện Văn Học xuất bản đầu năm 1963.”
Chúng tôi không có cuốn này, thế nhưng cứ theo Từ điển tiếng Việt này thì biết nội dung về chính tả bàn giải ở đây. Nói chung thì người ta cũng còn khá lúng túng và không dựa vào một tiêu chuẩn, một qui luật nào rõ rệt. Nếu có ì ạch thì cũng ghi ỳ ạch, ngoài ra viết y, ý, ỳ, ỷ. Chỉ có hi là viết với I, ngoài ra thì:
kí (kí lô), ky, kỳ, ký, kỷ, kỹ và kỵ.
li bì, lì, lí láu, lị (bệnh lị) và ly, lý, lỵ (bệnh), lỵ sở.
mi, mì, mí mị, mỹ (đẹp).
quy (Tất cả đều viết với Y).
ti, tí, tì, tỉ, tĩ, tị (hầu hết là chữ Nôm), nhưng ty trưởng, tỳ bà (đàn), tỳ vị, tý (chuột, tuổi Tý), tỷ lệ, tỷ giá, tỵ (rắn, tuổi Tỵ).
Có thể là vì thấy chưa có một lối viết mạch lạc, thống nhất mà Từ điển chính tả tiếng Việt, Hà Nội, 1985, đã viết trong lời hướng dẫn: “Viết nhất quán bằng I nguyên âm, I cuối âm tiết trong các âm tiết gọi là âm tiết mở như ki, li, mi, v.v… trừ trường hợp sau QU, viết Y (QUY), cho thống nhất với UY, viết UY, thí dụ mỹ (nay viết mĩ), xem mĩ; quí (nay viết quý) xem quý.” (Sd trang 21).
Từ điển chính tả còn viết i, ì,ỉ, ị, í (í ới), ỉa, iu, ỉu, và y (hắn), y (thuốc), y (áo), ỷ (dựa),ỷ lại, nhưng ỉ là lợn lại viết với I, còn ý thì viết với Y là lẽ dĩ nhiên, đã thành thông lệ. Cũng trong cuốn về chính tả này, có nhắc tới quyết nghị của Hội đồng chuẩn hoá chính tả của Bộ giáo dục ngày 1-7-1983. Chúng tôi không biết quyết nghị này nhưng cứ xem cuốn chính tả thì biết nội dung của quyết nghị.
Sau cùng và mới hơn là cuốn Từ điển tiếng Việt, Hà Nội, 1988. Trong lời hướng dẫn, người ta cho biết: “Theo quyết nghị số 240/QĐ ngày 5-3-1984 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục: Nguyên âm i cuối âm tiết được viết thống nhất bằng I (viết hi, ki, li, mi, ti, thay cho hy, ky, ly, my, ty, trừ uy vẫn viết uy (luy, tuy…) (Sd trang 10).
Như vậy, với Từ điển chính tả (1985) và Từ điển tiếng Việt (1988), đã có một bước tiến quyết liệt trong vấn đề chúng ta đang bàn. Ở cả hai cuốn, người ta ghi nhất luật: hi, ki, li, mi, ti, và ở cả hai đều viết quy thay cho qui, tức quy, quỳ, quý, quỷ, quỹ, quỵ. Lý do được nêu lên là ở âm UY, chứ không phải âm UI, thí dụ ui và uy, thúi và thúy.
Về điểm này, theo thiển ý chúng tôi, thì chưa xác đáng và chúng ta trở lại với bản văn của De Rhodes, theo đó viết I ở tất cả những âm cuối như Từ điển tiếng Việt (1988) vừa nói. Hơn nữa, chúng tôi nhắc lại ở đây, những người sáng chế ra vần quốc ngữ, một là đã dùng vần Latinh, hai là để cho người hiểu biết La ngữ sử dụng, vì thế họ đã ghi qui, quì, quí, quỉ, quĩ quị, bởi vì qui trong La ngữ đọc như qui rồi, không cần phải viết quy cho thêm rườm rà. Qui Latinh này thường gặp trong nhiều tiếng và đọc như qui của vần quốc ngữ, mà thực ra qui của chúng ta là do qui trong La ngữ. Tiếng Pháp cũng có từ qui, nhưng lại đọc là “ki”; cũng vậy, qualité đọc như “calitê”.
Để tạm kết luận chung cho cả bài này, chúng tôi có thể công nhận định luật một kí hiệu cho một âm và một âm có một kí hiệu. Và cũng là chủ trương của De Rhodes. Như vậy, nhất luật chúng ta viết: hi, ki, li, mi, qui, ti; qui luật này từ Taberd cho tới nay đã không được nghiêm chỉnh tuân thủ. Bản văn trong Khái luận về tiếng Việt của De Rhodes (1651) phải được học hỏi để không đi xa nguồn gốc và cơ bản.
Thế nhưng, như chúng tôi đã nói, còn một qui luật thứ hai là thông tục, vì lí do này hay lí do nọ, vì thẩm mĩ, vì chủ quan, thí dụ chúng ta đã không quen viết í tưởng mà viết ý tưởng, không quen viết i học mà viết y học, v.v… Cũng không viết yả mà viết iả. Nhưng chúng ta có thể viết Mĩ tho, Mĩ châu hoặc Mỹ tho, Mỹ châu. Ở đây vì quen mắt hay vì thẩm mĩ, chúng tôi tự hỏi. Dẫu sao, có thể còn một qui luật thứ ba là tiết kiệm sức lực, tiết kiệm thời giờ bởi vì thời giờ là vàng là bạc. Cho nên khi nhất thiết không cần viết Y thì nên viết I cho đỡ tốn công, đỡ mất thời giờ. Tinh thần thực tế, tinh thần đơn giản và thiết thực cũng là một trong những đức tính của con người ngày nay.
Cho nên, Từ điển tiếng Việt năm 1988 là một bước tiến so với Từ điển tiếng Việt năm 1963 và nói chung, thực ra là một bước tiến. Thế nhưng về việc dùng Y trong qu: quy, quý, quỳ, quỷ, quỹ, quỵ thì lại là một bước lùi. Sự thoái lui này là do hai nguyên cớ: thứ nhất, người ta không tìm đến “hiến chương” của sự hình thành chữ quốc ngữ, chúng tôi muốn nói Khái niệm về tiếng Việt của De Rhodes (1651) và thứ hai người ta không am tường cách đọc chữ qui trong La ngữ, như chúng tôi đã nói. Chúng ta không cần phải dùng Y mà dùng I là đủ: qui, quì, quí, quỉ, quĩ, quị.
Rồi muốn tiến hơn lên một bước nữa và bãi bỏ cả thông tục, thì có thể viết i, í, i (áo), i (thuốc), v.v… chứ không cần viết với y.
Chúng ta có thể vượt hẳn cả chính De Rhodes nữa, nếu chúng ta bỏ Y trong những chữ mà De Rhodes thấy cần phải viết Y để tránh sự lẫn lộn, đọc nhầm. Vả chúng ta cũng đã viết ỉa chứ không yả. Do đó chúng ta sẽ có thể viết: iêm, iểm, iên, iết, iêu, iểu… thay vì yêm, yểm, yên, yết, yêu, yểu…
Khi De Rhodes dùng chữ Y ở đây là vì lúc đó người ta có một kí hiệu I để vừa chỉ I nguyên âm và I phụ âm như chúng tôi đã nói. Nhưng ngày nay, trong bản văn La ngữ, người ta đã thiết lập lại và dùng I cho I nguyên âm, và dùng J cho I phụ âm. Người ta không còn viết iustitia, ieiunium mà viết justitia, jejunium. Hơn nữa, chúng ta không phải là người Latinh hay người tinh thông văn chương Latinh, cho nên không thể có sự lầm lẫn được.
Được như vậy thì một là chúng ta đã trở về nguồn, trở về hiến chương sự hình thành chữ quốc ngữ kể từ khi phát hành Từ điển Việt Bồ La (1651) và Khái luận về tiếng Việt (1651), và hai là chúng ta tìm cách tiến hơn cả hiến chương đó nữa, bởi vì cái bức tường cản trở không còn, I là I và J là J, chứ không còn lẫn lộn. Tại sao chúng ta viết iả (yả) được mà lại không viết iêu (yêu) được, phải chăng vì phân biệt xấu tốt, không đẹp với đẹp. Cho nên, nếu chúng ta làm được việc này một cách toàn diện, thì chúng ta trở về nguồn không những theo chữ đen, theo vật chất mà còn theo ý hướng, theo tinh thần của Khái luận mà chúng tôi coi như một thứ hiến chương, ít ra về vấn đề chúng tôi bàn giải ở đây.
Thế nhưng nghĩ đi thì cũng phải nghĩ lại, vì thế còn có thể để cho thông tục có một chỗ đứng, mà theo chúng tôi viết qui với Y thì không phải là theo thông tục nhưng là một thoái lui.
./.
____________________________________ LM. NGUYỄN KHẮC XUYÊN
Tên thật: Giacôbê Nguyễn Khắc Xuyên, bút hiệu Hồng Nhuệ Sinh nhật: 29/11/1923 Quê quán: Giáo xứ Kẻ Rùa (Từ Châu), nay là giáo xứ Đàn Giản, xã Thanh Trung , huyện Thanh Oai, Hà Tây (Hà Nội). 1935 – 1954: Nội trú trường thử, chủng viện Hoàng Nguyên, trường Puginier, Hà Nội. 31/05/1954: Thụ phong linh mục, gia nhập hội dòng Xuân Bích, du học Pháp. 1956: Cử nhân Thần học tại Đại học Công Giáo Paris. 1958: Tiến sĩ Thần học tại đại học Grégoriana, Roma với luận án về Đắc Lộ “Le Catéchisme Du Père Alexandre De Rhodes, 1651” – Phép giảng Tám Ngày của giáo sĩ Đắc Lộ, 1651. 1960 – 1963: Về nước, dạy học tại chủng viện Xuân Bích (Sài Gòn); Giáo sư Đại chủng viện Xuân Bích (Huế), Đại học Đà Lạt (1962). 1968: Hoàn tục, lập gia đình được Tòa thánh chuẩn nhận. Từ năm 1993, về sống tại Hà Nội, Nha Trang, chuyên chăm việc sắp xếp thư viện và kho lưu trữ sách báo của giáo phận Hà Nội. Năm 2003, tham gia cuộc tọa đàm về Văn hóa Công giáo tại Tòa Tổng Giám Mục Huế. Qua đời: 01/02/2005 tại Nha Trang. Sự nghiệp văn hóa của Nguyễn Khắc Xuyên rất lớn, dễ đến hàng trăm đầu sách và bài viết chuyên đề về lịch sử, tôn giáo, từ điển. Chúng tôi kể tên một vài tác phẩm có liên quan ít nhiều đến ngôn ngữm thi ca và âm nhạc của ông: – Tìm hiểu Giáo nhạc, Hà Nội 1952 – Lược khảo về cuốn từ điển Việt – Bồ – La, 1960 – Sưu tầm tài liệu cổ tiếng Việt tại Châu Âu. – Nguồn gốc các dấu trong vần Quốc Âm, 1961 – Vấn đề hình thành chữ Quốc ngữ, 1961 – Từ ngữ trong Phép Giảng 8 Ngày, 1984 – Hát Thánh Vịnh, 1990 – Tiến trình Thánh ca Việt Nam qua Nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh, Houston, Hoa Kỳ 1990 – Hành Trình và Truyền Giáo, nxb tp.hcm 1994 – Lịch sử Vương Quốc Đàng Ngoài (nxb tp.hcm, 1994) – Trống Cơm qua các Từ điển cổ. – Hồ Dzếnh, Con thiên nga hát trước khi nhắm mắt. Riêng Thánh ca, có khoảng 30 bài, torng đó phổ biến là các bài: Lạy Mẹ Xin Yên Ủi, Sống Gần Mẹ, Trên Con Đường Về Quê, Một Ngày Hân Hoan, Này Dân Sion, Từ Vực Sâu, Bên Sông Babylon, v.v… đều in trong các tập Cung Thánh của nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh.
…
Cao Cung Lên
Nhạc: Hoài Đức Lời: Nguyễn Khắc Xuyên Ca sĩ: Khánh Ly
.
http://www.youtube.com/watch?v=Xg8azboc03w
Chia sẻ:
- X
Có liên quan
Từ khóa » Cách Sử Dụng Y Và I Trong Tiếng Việt
-
Hệ Lụy Từ Nhiều Thập Niên Tranh Cãi Y, I - Báo Tuổi Trẻ
-
Quy Tắc Chính Tả I Và Y - Cách Viết "y" Dài, "i" Ngắn Trong Tiếng Việt
-
Vấn đề Phân Biệt Viết I (ngắn) Và Y (dài)
-
Khi Nào Thì Viết I Ngắn, Khi Nào Thì Viết Y Dài?
-
Tiếng Việt: Khi Nào Dùng I, Khi Nào Dùng Y?
-
Quy Tắc Viết "i" Ngắn, "y" Dài - Facebook
-
QUY TẮC Y DÀI Và I NGẮN TRONG TIẾNG VIỆT - Goc Nho San Truong
-
Bàn Tiếp Về Chuyện I Ngắn Y Dài - Khoa Ngữ Văn
-
Viết I Hay Viết Y? - Ngôn Ngữ Việt Nam
-
Quy Tắc Trong Y (Dài) Và I (Ngắn) Trong Tiếng Việt - Song Nhị
-
[PDF] Cách Sử Dụng "I" Và "Y" Và Nguyên Tắc Đánh Dấu Trong Tiếng Việt
-
Cách Viết Y Và I Trong Tiếng Việt - HOA VIÊN
-
Chính Tả Tiếng Việt - Chuyện I Ngắn Y Dài - Ô-Hay.Vn
-
Hướng Dẫn Bé Cách Phát âm Chữ Y Trong Tiếng Việt Dễ Học Nhất