Về Thăm Đền Thờ Cao Lỗ Vương - Người Chế Tạo “nỏ Thần”

Đền thờ Cao Lỗ Vương.

Theo sử liệu và văn vật của địa phương truyền lại: Cao Lỗ Vương họ Cao tên Lỗ, lại có tên là Thông, sinh tại thôn Sỹ Lộ, trang Đại Than, tổng Vạn Ty, huyện Gia Bình, phủ Thuận Thành, bộ Vũ Ninh (Bắc Ninh xưa).

Ngay từ nhỏ ông đã tỏ ra là người thông minh, hiếu học, khi trưởng thành văn võ đều hơn người và được người dân địa phương tôn làm Đô Lỗ. Sau theo phò vua An Dương Vương đánh giặc, nhờ lập được nhiều công trạng, ông được phong tước Hầu. Khi An Dương Vương xây thành Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội ngày nay), ông được giao việc thiết kế, xây dựng thành. Thành xây xong, ông lại chế tạo “nỏ thần” - một kỳ công về kỹ thuật quân sự thời cổ, góp phần quan trọng trong việc chống giặc ngoại xâm bảo vệ đất nước. Truyền rằng, nỏ thần do tướng quân Cao Lỗ chế tạo cực mạnh, có thể bắn một phát hàng trăm mũi tên, tiêu diệt được hàng trăm tên giặc, vì vậy được gọi là Linh Quang thần nỏ.

Do có công với dân với nước nên trải qua các đời Vua, triều đại sau này đều có sắc phong ban tặng cho ông là Thượng đẳng Thần. Nhân dân quanh vùng tại quê hương ông cũng đã lập Đền thờ để tưởng nhớ và ghi nhận công ơn của vị tướng quân trung nghĩa với nước, với dân.

Trải qua những thăng trầm của lịch sử, mặc dù đã qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo nhưng Đền thờ tướng quân Cao Lỗ Vương vẫn giữ được dấu ấn kiến trúc điêu khắc của hai thời Lê - Nguyễn. Đền hiện có quy mô khá lớn bao gồm: Đền Ngoài, Đền Trung và Đền Thượng với kết cấu kiến trúc kiểu “tiền Công, hậu Quốc”. Trong Đền có những bộ khung gỗ với những nét chạm khắc hoa văn tinh xảo và mái ngói ẩn hiện dưới những hàng cây cổ thụ thâm nghiêm hướng ra sông Đuống, bao quanh là trời mây, sông nước càng khiến cho cảnh quan nơi đây trở nên yên bình và thơ mộng.

Cùng với hệ thống tượng thờ, Đền thờ Cao Lỗ còn bảo lưu được 20 đạo sắc phong do các triều Vua ban tặng, trong đó, sắc phong cổ nhất còn lưu lại có niên đại Cảnh Hương 4 (1796), sắc phong cận đại nhất có niên đại Khải Định 9 (1924); hệ thống hoành phi, câu đối, ngai thờ, bài vị, siêu đao bát biểu; đôi sấu đá cùng nhiều đồ thờ tự cổ quý khác. Những tài liệu cổ vật này vừa là chứng tích lịch sử minh chứng cho sự tồn tại của ngôi đền, vừa là những tác phẩm nghệ thuật đặc sắc, tiêu biểu của hai thời Lê - Nguyễn.

Hàng năm, theo tục truyền để ghi công ơn và tưởng nhớ Tướng quân Cao Lỗ, cứ đến ngày mồng 10/3 (Âm lịch), nhân dân ở 8 thôn, làng vùng Đại Than là: Đại Trung, Đông Trung, Bình Than, Tiểu Than, Văn Than, Phù Than, Kênh Phố và Mỹ Lộc cùng thờ Cao Lỗ Vương lại nô nức chuẩn bị tổ chức lễ hội. Ngay từ sáng mùng 9, Đền thờ Cao Lỗ Vương đã được mở cửa để đại diện các làng đến làm lễ Mộc dục (lau chùi ngai thờ thay áo miều mới cho thánh vị). Đến sáng mồng 10, các làng đồng loạt tổ chức rước kiệu, long đình từ làng mình đến đền tế lễ Cao Lỗ Vương rồi xin rước bài vị của ngài về làng mình để tế lễ, mở hội. Đám rước kiệu thánh của tám làng rợp trời với cờ quạt, võng lọng, kiệu, siêu đao, bát bửu,... tưng bừng, náo nhiệt cùng đông đảo người dân tham dự.

Đền thờ Cao Lỗ Vương và lễ hội “Vùng Than” ngày 10/3 (Âm lịch) hàng năm là nơi nhân dân mãi mãi ghi công, tưởng nhớ tướng quân Cao Lỗ - Nhà kiến trúc và chỉ huy quân sự tài năng, người khởi đầu vẻ vang cho lịch sử quân giới Việt Nam. Đồng thời đây là sự thể hiện lòng biết ơn đối với những người có công với dân với nước như tướng quân Cao Lỗ và là dịp tốt để tuyên truyền giáo dục truyền thống “Dựng nước và giữ nước” của dân tộc ta đối với các thế hệ.

Với những giá trị đặc sắc về văn hóa, lịch sử, kiến trúc, Đền thờ Cao Lỗ Vương được UBND tỉnh Bắc Ninh (Hà Bắc cũ) xếp hạng từ năm 1988, đến năm 2005 được Bộ Văn hóa - Thông tin (cũ) xếp hạng là Di tích lịch sử cấp Quốc gia.

Từ khóa » Cao Lỗ Vương Bắc Ninh