Ví Dụ Thực Tế Về Cung Cầu - Luật Hoàng Phi

Mục lục bài viết

Toggle
  • Khái niệm cung cầu
  • Mối quan hệ giữa cung, cầu và giá cả thị trường
  • Ví dụ thực tế về cung cầu

Trong kinh tế vĩ mô thì cân bằng thị trường là một trạng thái ở đó sản lượng giao dịch và giá cả có khả năng tự ổn định, không phải chịu những áp lực thay đổi, từ đó tạo ra trạng thái được sự hài lòng giữa người mua và người bán. Ví dụ thực tế về cung cầu.

Khái niệm cung cầu

Nguyên lý cung – cầu hay quy luật cung cầu phát biểu rằng thông qua sự điều chỉnh của thị trường, một mức giá cân bằng (còn gọi là mức giá thị trường) và một lượng giao dịch hàng cân bằng (lượng cung cấp bằng lượng nhu cầu) sẽ được xác định.

Cung là biểu thị những lượng hàng hóa hay dịch vụ mà người bán có khả năng sẵn sàng bán ở các mức giá khác nhau trong một khoảng thời gian nhất định (với các yếu tố khác không đổi).

Quy luật cung: Khi giá cả của các hàng hóa tăng lên thì lượng cung cũng tăng (trong điều kiện các yếu tố khác là không đổi). Cung bao gồm cung thị trường và cung cá nhân, cung thị trường là cung của toàn bộ thị trường và bằng tổng cung cá nhân.

Cầu của một hàng hóa dịch vụ là số lượng của hàng hóa và dịch vụ đó mà người tiêu dùng sẵn lòng mua tương ứng với các mức giá khác nhau trong một khoảng thời gian xác định.

Quy luật cầu: Khi giá hàng hóa tăng lên (trong điều kiện các yếu tố khác không đổi) thì lượng cầu mặt hàng đó sẽ giảm xuống. Cầu bao gồm cầu cá nhân và cầu thị trường. Cầu thị trường là cầu của tất cả mọi người trong thị trường và bằng tổng các cầu cá nhân (theo từng mức giá).

Cân bằng thị trường là một trạng thái trong đó giá cả và sản lượng giao dịch trên thị trường có khả năng tự ổn định, không chịu những áp lực buộc phải thay đổi. Đó cũng là trạng thái được tạo ra được sự hài lòng chung giữa người mua và người bán. 

Mối quan hệ giữa cung, cầu và giá cả thị trường

Giá cả của hàng hoá và dịch vụ trên thị trường là yếu tố trực tiếp ảnh hưởng tới lượng cung về hàng hoá và dịch vụ đó. Cung tỉ lệ thuận với giá cả.

Khi giá cả cao thì lượng cung sẽ lớn và ngược lại, giá thấp thì cung cũng giảm. Giá cả của hàng hoá là nhân tố tác động trực tiếp và tỉ lệ nghịch với lượng cầu. Giá cả hàng hoá cao thì lượng cầu về hàng hoá đó thấp và ngược lại, giá cả hàng hoá thấp thì lượng cầu sẽ cao.

Sở dĩ có hiện tượng giá cả tỉ lệ thuận với cung và tỉ lệ nghịch với cầu là do các nhà sản xuất chạy đua theo lợi nhuận siêu ngạch, còn một số không ít người tiêu dùng thi luôn có xu thế mua những mặt hàng mới lạ, hiện đại, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của mình.

Khi một mặt hàng nào đó mới được tung ra trên thị trường với những tính năng ưu việt, độc đáo thì sẽ kích thích được người mua và họ chấp nhận mua với giá cao.

Khi thấy có lời, các nhà sản xuất đồng loạt tung ra thị trường mặt hàng đó với số lượng lớn. Sau một thời gian, do giá của mặt hàng đó quá cao so với thu nhập của đại bộ phận người tiêu dùng nên mặt hàng đó trở nên ế ẩm, làm cho giá của chúng giảm xuống.

Lúc này, các nhà sản xuất lại chuyển sang sản xuất mặt hàng khác và sau một thời gian hàng hoá bị ế ẩm kia lại trở nên khan hiếm và giá của chúng lại bắt đầu tăng lên. Cứ như vậy, giá cả của hàng hoá và mối quan hệ cung- cầu luôn tác động qua lại lẫn nhau.

Ví dụ thực tế về cung cầu

Ví dụ 1: Tại thời điểm X, cam có giá 30.000 đồng 1 kg, cô A có nhu cầu và đủ khả năng để mua cho gia đình mình sử dụng 2 kg mỗi ngày vào những tháng mùa hè oi ả.

Tuy vậy, do nhu cầu vào những mùa nóng này gia tăng nên giá cam khi ấy đã tăng lên tới 60.000 đồng 1 kg. Khi này nhu cầu của gia đình cô A chi giảm xuống do lúc này cô chỉ đủ khả năng để mua 1 kg cam mà thôi.

Ví dụ 2: Lúc cam còn ở mức giá cũ là 30.000 đồng 1 kg, mỗi ngày người dân có sức mua và tiêu thụ đến 10 tấn cam một ngày.

Tuy nhiên vào các tháng nóng mùa hè, giá cam tăng lên tới 60.000 đồng 1 kg thì sức mua và tiêu thụ của cả thành phố về mặt hàng nông sản này giảm xuống chỉ còn lại 4 tấn một ngày.

Qua hai ví dụ trên ta có thể thấy được rằng khi một mặt hàng có những mức giá khác nhau thì sẽ ảnh hưởng tác động tới nhu cầu và sức mua của người tiêu dùng cũng sẽ thay đổi theo các mức khác nhau.

Sức mua của thành phố là 10 tấn cam một ngày và mỗi gia đình là 2 kg cam một ngày khi mặt hàng này có giá 30.000 đồng 1kg.

Ngược lại khi giá tăng lên gấp đôi là 60.000 đồng 1kg thì sức mua của cả thành phố đã giảm hơn 1 nửa chỉ còn 4 tấn một ngày và nhu cầu của mỗi gia đình cũng giảm đi một nửa chỉ còn 1 kg một ngày.

Từ khóa » Ví Dụ Cung Cầu Kinh Tế Vi Mô