Vị Thuốc Quế | BvNTP - Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương

1. Mô tả

  • Cây to, cao 10 – 20m. Cành hình trụ, nhẵn, màu nâu.
  • Lá mọc so le, dày cứng và dai, hình mác, dài 12 – 25cm, rộng 4-8cm, gốc thuôn, đầu nhọn, mặt trên nhẵn, màu lục sẫm bóng, mặt dưới màu xám tro, hơi có lông lúc còn non; gân 3, hình cung, nổi rõ ở mặt dưới, gân bên kéo dài đến đầu lá, gân phụ nhiều, song song; cuống lá to, dài 1,5-2cm, có rãnh ở mặt trên.
  • Cụm hoa mọc ở kẽ lá gần đầu cành thành chùy dài 7-15cm; bao hoa gồm 6 phiến gần bằng nhau, màu trăng, dài 3mm, mặt ngoài có lông nhỏ.
  • Quả hạch, hình trứng hoặc hình bầu dục, có cạnh dài 1,2 – 1,3cm, nằm trong đài tồn tại nguyên hoặc chia thùy. Vỏ và lá vò ra có mùi thơm.
  • Mùa hoa: tháng 4-7; mùa quả: tháng 10-12.

Một số loài quế thường gặp trong tự nhiên:

Quế quan (Cinnamomum zeylanicum Blume)

  • Tên khác: quế ống, quế Srilanca, quế khâu. Cây có kích thước trung bình.
  • Cành non có 4 cạnh, hơi dẹt có lông nhỏ rải rác. Lá mọc đối hoặc gần đối (ít khi so le), hình bầu dục, gân lá 3 – 5, gồ lên ở cả hai mặt. Cụm hoa dài hơn lá; bao hoa dài 5-6 mm, màu vàng. Quả dài 1,3 – 1,7 cm, có đài tồn tại to. Mùa hoa quả: tháng 5-9.

Quế Thanh (Cinnamomum loureirii Nees)

  • Tên khác: quế quỳ, de bầu, quế tử, quế lá tù, ngọc quế.
  • Cây to, cành non có cạnh, có lông, sau nhẵn. Lá thuôn đến mác thuôn, có mũi nhọn mềm, mặt dưới phủ vảy nhỏ, gân bên không kéo dài đến đầu lá, gân phụ mờ. Hoa trắng, bao hoa đài 3 mm. Quả dài 8 – 10mm, đài tồn tại nhỏ.

Quế rành (Citinamomum burmannii (Nees) Blume)

  • Tên khác: quế bì, quế xanh, trèn trèn, quế lợn, âm hương.
  • Cây có dạng đẹp, vỏ nhẵn, màu xám. Lá thuôn, màu lục sẫm ở cả hai mặt. Cụm hoa ngắn, mảnh. Quả gần hình cầu, có mũi nhọn. Mùa hoa: tháng 7.

2. Phân bố, sinh thái

Cinnamomum Blume là một chi lớn gồm khoảng 270 loài, hầu hết là cây gỗ; phân bố tập trung ở vùng nhiệt đới châu Á. Ở Ấn Độ có 20 loài; Trung Quốc 12 loài và Việt Nam 40 loài. Ở Việt Nam, nhiều loài mang tên quế, trong đó, có 3 loài là cây trồng, còn lại là mọc hoang dại.

Quế có nguồn gốc ở Việt Nam, cách đây khoảng hơn 2000 năm, các triều đại phong kiến đã coi “quế Giao Chỉ” (Giao Chỉ là tên nước Việt cổ) như là sản vật quý để trao đổi và triều cống (Lê Trần Đức, 1990). Nhiều vùng quế đã được hình thành từ lâu đời ở Yên Bái; Quảng Ninh; Thanh Hoá (Thường Xuân); Quảng Nam (Trà My, Phước Sơn) và Quảng Ngãi (Trà Bồng)…

  • Quế là cây gỗ ưa sáng và chịu bóng, nhất là thời kỳ cây còn nhỏ (1-5 năm).
  • Cây ưa khí hậu nhiệt đới nóng và ẩm, nhiệt độ trung bình năm cho cây sinh trưởng phát triển mạnh là 22 – 23°C; độ ẩm không thí trung bình khoảng 80%; lượng mưa hàng năm khoảng 1.600 mm hoặc hơn.
  • Cây mọc được trên nhiều loại đất ẩm, nhiều mùn và tơi xốp, pH : 4,5 – 5,5. Quế có bộ rễ cọc khoẻ, cắm sâu xuống đất nên ít bị đổ khi có gió bão.

3. Cách trồng

Quế được trồng từ lâu ở một số tỉnh miền Trung và miền Bắc Việt Nam. Cây có thể nhân giống được bằng hạt, chiết cành hoặc tách mầm.

Quế ưa đất rừng có lớp đất mặt dày, tơi xốp, nhiều mùn, thoát nước, độ pH 4 – 5, độ dốc không quá 35%, độ cao trên 400 m, nhiều ánh sáng và khuất gió. Khi trồng, đào hố 30 x 30 x 30 cm. Nếu có điều kiện nên bón lót 5 – 7 kg phân chuồng, phân xanh ủ mục. Quế thường được trồng xen với mía, sắn hoặc chè vối khoảng cách 2 x 5 m hoặc tùy theo yêu cầu của cây trồng xen.

Nhân giống:

Hiện nay, phương pháp nhân giống bằng hạt qua vườn ươm là chủ yếu.

  • Hạt giống quế cần lấy ở cây 15-20 năm tuổi, mọc tốt tán lá đều, quả.mập và sai. Khi quả chín được 1/3, vỏ quả chuyển từ màu xanh sang màu tím thì thu hái.
  • Nên lấy quả ở những cành cách ngọn cây 1m trở xuống. Quả lấy về cần ủ 2 – 3 ngày cho chín đều, sau đó đem xát bỏ thịt quả, đãi lấy hạt.
  • Hạt quế mất sức nảy mầm rất nhanh, không chịu được điều kiện bảo quản khô. Vì vậy, cần gieo ngay khi mới thu hái.

Làm bầu:

Trước khi gieo, hạt cần được xử lý trong nước 40 – 45°C trong 6 giờ, loại bỏ hạt nổi, rửa sạch, để ráo nước, ủ trong cát ẩm cho nứt nanh rồi đem gieo vào bầu.

Bầu cao 12 – 13 cm, đường kính 6-7 cm, thành phần giá thể gồm 85 – 89% đất, 10 -14% phân chuồng mục và 1% supe lân. Bầu được xếp thành luống, trên làm giàn che với độ che phủ khoảng 50%.

  • Cũng có thể gieo hạt trên luống ở vườn ươm. Hạt gieo sâu 2 cm, cách nhau 20 cm, phủ một lớp đất mỏng và làm giàn che như trên.

Phân bón:

Sau khi gieo 15 ngày, hạt nảy mầm. Khi cây được 3-5 tháng tuổi, tiến hành bón thúc bằng phân vô cơ. Có thể bón theo tỷ lệ 2:2:1 (30g amoni sulfat + 40g supe lân + 10g kali clorur) hoặc 3:3:1 (45g amoni sulfat + 60g supe lân + 10g kali clorur), hoà phân với nước tưới cho 1m2. Chú ý giữ ẩm và làm cỏ thường xuyên.

Vườn ươm:

Cây đã cao 25 – 30 cm, có thể dỡ dần giàn che. Cây quế con nuôi trong vườn ươm 1 năm, được bưng đi trồng vào mùa xuân năm sau.

  • Trường hợp cây con không gieo trong bầu mà gieo ờ luống, nếu không bứng được cả đất, có thể nhổ cây lên, cắt bớt rễ cọc, nhúng vào dung dịch phân bón một đêm, rồi đem trồng cũng đạt tỷ lệ sống cao (90%).

Thu hái:

Cây quế nhân giống bằng phương pháp vô tính sau 6-7 năm cho thu hoạch, nhưng trồng bằng hạt phải sau 20 năm.

Trong quá trình nuôi dưỡng, cần tỉa thưa 2 lần. Đối với cây trồng từ hạt, tỉa thưa lần thứ nhất vào tuổi 8-10, lần thứ hai vào tuổi 15.

  • Trung bình mỗi hecta cho 5 tấn quế vỏ và 7 tấn quế chi.

4. Bộ phận dùng

Vỏ thân, vỏ cành non được phơi hoặc sấy khô (Quế chi). Vỏ thân được phơi khô trong bóng râm (Quế nhục). Tinh dầu từ cành hoặc lá.

Bộ phận dùng

5. Tác dụng dược lý

Tinh dầu quế chứa cinnamaldehyd là thành phần chủ yếu có tác dụng diệt khuẩn in vitro đối với một số vi khuẩn ở độ pha loãng cao.

  • Tác dụng kháng khuẩn đối với các giống vi khuẩn khác nhau, theo thứ tự hoạt tính giảm dần : Salmonella typhi, tụ cầu vàng, Bacillus mycoides, Bacillus subtilis, Candida albicans, Shigella ßexneri, liên cầu khuẩn tan máu, trực khuẩn lao, Sh. dysenteriae, phế cầu khuẩn.
  • Tác dụng mạnh đối với phẩy khuẩn tả, nồng độ ức chế tối thiểu đối với các giống phẩy khuẩn tả Eltor, Inaba và Ogawa là 2/10.000.
  • Tác dụng diệt Entamoeba moshkowskii với nồng độ ức chế tối thiểu 1/2.560. Còn có tác dụng ức chế cả đối với siêu vi khuẩn.
  • Tác dụng ức chế tương đối yếu hơn đối với các giống vi khuẩn : Sh. shigae, Sh. sonnei, trực khuẩn coli, trực khuẩn mủ xanh.
  • Tinh dầu quế có tác dụng diệt nấm với Trichophyton mentagrophytes. Hoạt chất cinnamaldehyd có tác dụng với Microsporum audouini, Aspergillus nidurans, Cryptococcus neoformans, Penicillium rugulosum, Sporothrix schenckii, Trichophyton rubrum, T.mentagrophytes T.violaceum, Microsporum gypseum, Histoplasma capsulation và Blastomyces dermatitidis; tác dụng ức chế chủ yếu do phản ứng của aldehyd với các nhóm thiol tham gia vào sự sinh trưởng của nấm.
  • Tác dụng ức chế và kích thích trung tâm của cinnamaldehyd có thể do tương tác với các nơron đáp ứng với monoamin ở hệ thần kinh trung ương, và có vai trò quan trọng trong tác dụng điều trị của vỏ thân hoặc cành quế.

Ở chó và chuột lang gây mê, cinnamaldehyd có tác dụng hạ áp, có thể chủ yếu do giãn mạch ngoại biên. Sự giãn mạch này vẫn tồn tại ở chó sau khi huyết áp đã phục hồi. Trên hồi tràng chuột lang cô lập, có tác dụng chống co thắt cơ trơn gây bởi acetylcholin và histamin, và cũng có tác dụng trực tiếp trên cơ trơn và gây giãn kiểu papaverin.

Trên tim chuột lang cô lập, cinnamaldehyd làm tăng lực co cơ và nhịp tim, tuy vậy việc dùng nhắc lại dẫn đến giảm dần những tác dụng này và ức chế tim. Cinnamaldehyd gây giải phóng catecholamin từ tuyến thượng thận của chó, tác dụng tăng lực co cơ và nhịp tim trên tim chuột lang cô lập được truyền dịch có lẽ do giải phóng catecholamin nội sinh.

Cao nước quế cho chuột cống trắng bị viêm thận uống có tác dụng dự phòng sự tăng nồng độ protein trong nước tiểu, nhưng không ảnh hưởng trên sự phục hồi của thiếu máu gây bởi mất máu cấp tính, và trên số lượng bạch cầu và tế bào lympho.

  • Tiêm phúc mạc cao nước quế cho chuột cống trắng với liều 100 mg/kg có tác dụng dự phòng loét do stress khi để chuột trong bầu không khí lạnh (3 – 5°C), hoặc ngâm trong nước.
  • Cao này cũng ức chế mạnh loét dạ đày do tiêm dưới da serotonin cho chuột cống trắng, và làm tăng lưu lượng máu ở niêm mạc dạ dày, cho thấy tác dụng chống loét của quế là do ức chế những yếu tố tấn công và tăng cường những yếu tố bảo vệ.

Tinh dầu quế và cao quế còn có tác dụng chống chứng huyết khối, chống viêm, chống dị ứng, làm tăng lượng protein toàn phần và gamma – globulin trong máu và làm giảm tỷ lệ vỡ dưỡng bào do nhỏ dung dich noc rắn mang bạnh lên mạc treo ruột hoặc do tiêm tĩnh mạch nọc rắn cho chuột lang. Cinnamaldehyd với nồng độ 4,8 ug/ml ức chế sự phát triển của tế bào bệnh bạch cầu L1210 trong nuôi cấy 50%. Tác dụng ức chế này được quy cho nhóm aldehyd của cinnamaldehyd. Chất này ức chế sự phát triển của khối u VV2K-11 gây bởi SV40 ở chuột nhắt trắng và cũng được thử nghiệm về hoạt tính chống đột biến đối vối các chất hóa học gây đột biến hoặc chiếu tia tử ngoại. Liều chết LD50 của cinnamaldehyd trên chuột nhắt trắng bằng đường tiêm tĩnh mạch là 132 mg/kg; tiêm phúc mạc : 610 mg/kg; đường uống : 2.225 mg/kg. Nồng độ tinh dầu quế tiêu diệt 100% trong thử nghiệm in vitro trên 2 chủng Trichomonas vaginalis nuôi cấy trong môi trường là 50 ng/ml.

  • Đã điều trị 58 trường hợp viêm khớp dạng thấp bằng bài thuốc trong có quế chi và một số dược liệu khác. Kết quả điều trị cho thấy thuốc có tác dụng làm ổn định giảm viêm, tác dụng chậm nhưng bền vững. Kết quả tốt nhất trong trường hợp chức năng khớp còn tổn thương ít. Một chế phẩm thuốc cổ truyền Nhật Bản có quế và 7 dược liệu khác được coi là có tác dụng chống xơ cứng động mạch, đã được trộn với cholesterol và cho động vật uống. Thuốc đã có tác dụng ngăn chặn sự tăng cholesterol toàn phần, phospholipid và colagen trong máu và phòng ngừa sự phát triển xơ vữa động mạch do tăng lipid máu ở động vật thí nghiệm.

Một thuốc cổ truyền Nhật Bản khác gồm 10 dược liệu trong đó có quế, có nhiều hoạt tính kích thích miễn dịch. Cao chiết với nước nóng của vỏ quế có tác dụng hoạt hóa bổ thể mạnh. Quế bì có trong thành phần một bài thuốc cổ truyền Trung Quốc được đùng để điều trị các bệnh viêm mạn tính và các bệnh tự miễn dịch. Trên thực nghiệm, bài thuốc này tăng cường tính kích thích miễn dịch của một số hóa dược kích thích miễn dịch như phorbol myristat acetat phytohemagglutinin.

Một bài thuốc bổ dương Trung Quốc gồm quế và phụ tử có tác dụng làm tăng lượng adenosin cyclic monophosphoric acid (có vai trò trong điều hòa sự vận chuyển điện giải và nước trong cơ thể) trong huyết tương chuột đã gây thiểu năng thực nghiệm tuyến giáp hoặc vỏ thượng thận. Một bài thuốc cổ truyền Trung Quốc khác được dùng chữa bệnh phụ khoa trong đó có quế và một số dược liệu khác, đã có tác dụng đối kháng với Iuteotrophin và kháng oestrogen yếu trong thực nghiệm trên động vật.

6. Tính vị, công năng

Quế có vị ngọt, cay, mùi thơm, tính rất nóng, có tác dụng bổ hỏa, hồi dương, ấm thận tỳ, thông huyết mạch, trừ hàn tích.

Tính vị, công năng

7. Công dụng

Quế được dùng làm thuốc cấp cứu bệnh do hàn như chân tay lạnh, mạch chậm nhỏ, hôn mê, đau bụng trúng thực, phong tê bại, chữa tiêu hóa kém, tả lỵ, thũng do tiểu tiện bất lợi, kinh bế, rắn cắn, ung thư. Ngày dùng 1- 4g dưới dạng thuốc hãm, hoàn tán hoặc mài vối nước mà uống. Kiêng kỵ : Những người âm hư, dương thịnh và phụ nữ thai nghén không nên dùng.

Theo tài liệu nước ngoài, vỏ quế bì được dùng trong y học Trung Quốc để chữa những chứng bệnh sau :

  • Cảm lạnh, phối hợp với nhân sâm, hoàng kỳ, thục địa.
  • Tiêu chảy, phối hợp với mộc hương, phục linh, nhục đậu khấu.
  • Đau vùng hông, phối hợp vói phụ tử, địa hoàng.
  • Đau dạ dày, đau bụng, đau kinh, phối hợp với đương quy, hương phụ.
  • Mụn nhọt lâu lành, phối hợp với ma hoàng, cao nhung, bạch giới tử. Liều dùng mỗi ngày : 2 – 7,5g, sắc nước uống. Hoặc tán bột, mỗi lần uống 0,5 – 2g, ngày uống 1-2 lần.

Vỏ cành quế trị:

  • Cảm mạo, sốt, ra mồ hôi, sợ lạnh, phối hợp với bạch thược, cam thảo, sinh khương, hồng táo.
  • Phong hàn thấp, đau khớp, phối hợp với phụ tử, sinh khương, cam thảo.
  • Tim hồi hộp, tức ngực, ho có đờm loãng, phối hợp với phục linh, bạch truật, cam thảo.
  • Bế kinh đau bụng, thống kinh, phối hợp với xuyên khung, đương quy, ngô thù du, xích thược.
  • Sốt rét, phối hợp với xuyên khung, bạch chỉ, thương truật. Liều lượng : ngày 2 -1 lg, dạng thuốc sắc.

Quế rành trị:

  • Đau dạ đày do lạnh, tiêu chảy.
  • Đau phong thấp.
  • Vết thương phần mềm (dùng bột rắc vết thương). Liều dùng: mỗi ngày 2-11g, sắc nước uống. Còn dùng dạng bột, mỗi lần 1- 3g.

Quế Thanh chủ trị:

  • Đau dạ dày, đau bụng do lạnh, uống dạng bột 1 – 2g.
  • Loét dạ dày, hành tá tràng.
  • Vết thương chảy máu, dùng bột rắc.
  • Gãy xương, dùng bột làm thành hồ, bôi bên ngoài. Liều dùng: mỗi ngày 2 – 11g, dạng thuốc sắc. Hoặc dạng bột, mỗi ngày 1 – 2g.

Ở Ấn Độ, quế được dùng như sau :

  • Quế Thanh được dùng làm gia vị. Lá có tác dụng gây trung tiện; chữa đau bụng và tiêu chảy, vỏ, đặc biệt là vỏ rễ, chữa khó tiêu và các bệnh về gan.
  • Quế quan: vỏ được dùng rộng rãi làm gia vị. Nó là chất làm săn, kích thích, gây trung tiện, chữa buồn nôn, nôn mửa và được dùng làm chất bổ trợ trong những thuốc làm dễ tiêu. Nó có tác dụng kích thích cục bộ mạnh nên đôi khi được dùng trong đau dạ dày, đau bụng, đầy hơi và suy yếu cơ năng dạ dày.

Ở Nepal, quế được dùng với tác dụng long đờm trong một bài thuốc gồm 6 dược liệu để chữa viêm phế quản, khó thở. Ở Indonesia, người ta dùng quế rành cho thêm vào các thuốc uống để chữa ho có kèm theo nôn, bệnh phong, viêm nhiễm đường hô hấp, lao, nhức đầu, đau vùng thượng vị.

8. Bài thuốc có quế

1. Chữa cảm mạo (Quế chi thang): Quế chi 8g, cam thảo 6g, thược dược 6g, sinh khương 6g, táo đen 4 quả, nước 600 ml, sắc còn 200 ml. Chia 3 lần uống nóng trong ngày.

2. Chữa đau bụng: Bột vỏ cành quế 4g, ngâm rượu uống.

3. Chữa tiêu chảy: Vỏ thân quế 4g – 8g, gạo nếp rang vàng 10g, hạt cau già 4g, gừng nướng 2 lát. sắc uống.

4. Chữa sai khớp, bong gân, chấn thương: Cao dán gồm hỗn hợp tinh dầu quế, hồi, menthol camphor, cao ngải cứu, cao cúc tần, được trộn đều vào hỗn hợp keo cao su.

5. Chữa thấp khớp mạn tính thể hàn (Trường hợp bênh đang tiến triển, có hoặc không sưng khớp và đau nhiều):

  • a) Quế chi 12g, rễ cỏ xước 40g, hy thiêm 28g thổ phục linh 20g, cỏ nhọ nồi 16g, ngải cứu 12g, thương nhĩ tử 12g, thiên niên kiện 12g. Sao vàng, sắc đăc ngày uống 1 thang, trong 7-10 ngày liền.
  • b) Quế tiêm 12g, bạch thược 12g, phòng phong 12g, thương truật 12g, ma hoàng 8 – 12g, cam thảo 8g hắc phụ 8g. Sắc và chia 3 lần uống trong ngày.
  • c) Quế chi 8g; độc hoạt, tang ký sinh, tần giao bạch linh, phòng phong, tục đoạn, ý dĩ, bạch thược, xuyên quy, ngưu tất, thục địa, đảng sâm, mỗi vị 12g; xuyên khung 8g; cam thảo, tế tân, mỗi vị 6g. sắc uống ngày một thang.
  • d) Quế chi 260g; thương truật 260g; hắc phụ chế, cam thảo, mỗi vị 160g; ma hoàng, tế tân, mỗi vị 80g. Thương truật ngâm nước gạo, thái mỏng sao vàng, các vị khác thái nhỏ phơi khô, tán lẫn, rây mịn. Ngày uống 20g chia 2 lần trước bữa ăn.

6. Chữa viêm khớp dạng thấp đang tiến triển: Quế chi, bạch thược, thương truật, phòng phong, tri mẫu, mỗi vị 12g; gừng tươi, ma hoàng, hắc phụ chế, mỗi vị 8g; cam thảo 6g. sắc uống ngày một thang.

7. Chữa suy nhược cơ thể do bệnh đường tiêu hóa : Nhục quế 4g; đảng sâm, bạch truật, hoàng kỳ, đại táo, mỗi vị 12g; trần bì, ngũ vị tử, mỗi vị 6g; cam thảo 4g; gừng 2g. sắc uống ngày một thang.

8. Chữa dương hư, khí lực suy nhược, di tinh, liệt dương, thai nghén khó khăn, sợ lạnh : Nhục quế 12g; thục địa 24 – 32g; sơn thù, hoài sơn, bạch linh, mỗi vị 16g; mẫu đơn, trạch tả, môi vị 8g. Tán bột làm viên, mỗi ngày uống 30 – 40g, hay sắc uống.

9. Chữa viêm phế quản mạn tính: Quế chi 12g, phục linh 16g, bạch truật 8g, cam thảo 4g. Sắc uống ngày một thang.

10. Chữa hen phế quản khi hết cơn hen :

  • a) Quế chi 8g; đại táo 12g; bạch thược, hoàng kỳ, mỗi vị 8g; gừng 4g. sắc uống ngày một thang.
  • b) Nhục quế 4g; đảng sâm, bạch truật, phụ tử chê, mỗi vị 12g; can khương 8g; cam thảo 6g. sắc uống ngày một thang.

11. Chữa viêm khớp cấp: Quế chi 8g; thạch cao, ngạnh mễ, mỗi vị 20g; tri mẫu hoàng bá, tang chi, mỗi vị 12g; thương truật 8g. Sắc uống ngày một thang.

12. Chữa nhồi máu cơ tim: Nhục quế 6g, đương quy, đan sâm, nhục thung dang ba kích, mỗi vị 12g; nhân sâm, phụ tử chế, mỗi vị 8g. Sắc uống ngày một thang.

13. Chữa thiếu máu: Quế tâm 6g, đảng sâm (thay nhân sâm) 16g; phục linh hoàng kỳ, thục địa, bạch thược, đại táo, mỗi vị 12g đương quy, ngũ vị tử, viễn chí, mỗi vị 10g; bạch truật 8g; cam thảo, trần bì, mỗi vị 6g; gừng 2g. sắc uống ngày một thang.

14. Chữa viêm loét dạ dày tá tràng: Quế chi 8g; hoàng kỳ 16g; đại táo 12g; hương phụ, bạch thược, mỗi vị 8g; sinh khương, cam thảo, cao lương khương, mỗi vị 6g. sắc uống ngày một thang.

15. Chữa viêm cầu thận cấp tính: Quế chi 8g; bạch truật, phục linh, trạch tả, mỗi vị 12g; trư linh 8g. sắc uống ngày một thang.

16. Chữa kinh nguyệt không đều, chậm kinh: Nhục quế 4g; bạch truật, đảng sâm, bạch thược, hoàng kỳ, mỗi vị 12g; phục linh, thục địa, xuyên khung, đương quy, mỗi vị 8g; cam thảo 4g. sắc uống ngày một thang.

17. Chữa bế kinh, chậm kinh đau bụng: Quế chi 12g; ích mẫu, củ gấu, mỗi vị 20g; ngải cứu 16g; gừng sao cháy 12g. sắc uống ngày một thang.

18. Chữa bế kinh, vô kinh: Quế chi 8g; ngưu tất, đảng sâm, mỗi vị 12g; đương quy, xuyên khung, bạch thược, nga truật, đan bì, mỗi vị 8g; cam thảo 4g. sắc uống ngày một thang.

19. Chữa nôn mửa khi có thai: Quế chi 8g, bạch thược 12g, đại táo 8g; cam thảo, sinh khương, mỗi vị 6g. sắc uống.

20. Chữa viêm mũi dị ứng: Quế chi 8g; hoàng kỳ 16g; bạch thược 12g; bạch truật 8g; phòng phong, đại táo, mỗi vị 6g, gừng 2g. Nếu viêm cấp tính chảy nước mũi nhiều, thêm ma hoàng 4g, tế tân 6g. Nếu mệt mỏi, ăn kém, đoạn hơi, thêm đảng sâm 16g, kha tử 6g. 27. Kẹo ngậm chống viêm họng mũi cho công nhân ăn : Kẹo có hỗn hợp các tinh dầu : bạc hà, hương nhu, gừng, quế và menthol, vitamin c, acid citric.

22. Trúng phong quyết lạnh, hôn mê: Quế tốt 12g, sắc, cho uống dần dần.

23. Thuốc ngâm rửa trị viêm tắc động mạch: Quế chi 8g; đào nhân, kê huyết đằng, tam lăng, mỗi vị 12g. Đun sôi kỹ lấy nước ấm ngâm ngày 2 lần.

24. Chữa viêm tắc động mạch: Quế chi 12g, đan sâm 20g, hoàng kỳ 20g, xuyên quy vỹ 16g, xích thược 12g, bạch chỉ 12g, nghệ 12g, nhũ hương 12g, một dược 12g, hồng hoa 12g, đào nhân 12g, tô mộc 12g. sắc uống ngày một thang.

Các bài thuốc được dùng ở Trung Quốc

  1. Chữa cao huyết áp có kèm bệnh về tim: Quế 6g, đỗ trọng 12g, hoàng bá 10g, sa nhân 6g, cam thảo 6g. Thêm 800 ml nước, đun sôi trong 15-20 phút, chia 3 lần uống trong ngày.

  2. Chữa suy tim, viêm cơ tim với các biểu hiện phù, khó thở, loạn nhịp tim: Quế 15g, gừng 15g, sinh địa 15g, gai mèo 15g, mạch môn 9g, keo da lừa 9g, táo ta 3 quả, cam thảo 6g. Sắc và chia 3 lần uống trong ngày.

  3. Chữa bệnh cuồng loạn (hysteria), loạn thần kinh tim, mất ngủ: Quế 6g, phục linh 9g, táo ta (quả) 6g, cam thảo 4g. Đun sôi trong 800 ml nước trong 45 phút. Chia 3 lần uống trong ngày.

  4. Chữa viêm thận: Quế chi 4g, cốc tinh thảo (hoa) 4g, táo ta (quả) 4g, bạch thược 4g, đương quy Nhật Bản 4g, cam thảo 3g, bạch mộc thông 3g. sắc và chia 3 lần uống trong ngày.

  5. Chữa thấp khớp: Quế chi 12g, phụ tử chế 15g, bạch truật 12g, cam thảo 6g. sắc và chia 3 lần uống trong ngày.

  6. Chữa đái tháo đường giai đoạn đầu: Quế 10g, phụ tử chế 15g, mai rùa nướng 15g, sa nhân 6g, cam thảo 6g. sắc và chia 3 lần uống trong ngày.

  7. Chữa đái tháo đường: Quế 3g, sơn dược 15,5g, phụ tử chế 12g, phục linh 12g, sơn thù 10g, trạch tả 10g, sinh địa 10g, mẫu đơn bì 6g. sắc uống làm 3 lần trong ngày.

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

facebook.com/BVNTP

youtube.com/bvntp

Từ khóa » Cây Thuốc Quế Khâu