Vong Thân :: Suy Ngẫm & Tự Vấn :: Chú

  • Trang chủ
  • >
  • Tư liệu nguồn & tra cứu
Đưa vào triết học (Phần 5)

Vong thân

Nguyễn Văn Trung11:25 SA @ Thứ Hai - 19 tháng 1, 2009

Xem »

  • Đưa vào triết học (phần 1)
  • Đưa vào triết học (phần 2)
  • Đưa vào triết học (phần 3)
  • Đưa vào triết học (phần 4)
  • Đưa vào triết học (phần 5)
  • Đưa vào triết học (phần 6)
  • Đưa vào triết học (phần 7)

Vong thân bày tỏ tình cảm con người đánh mất hay bị mất bản thân, bản ngã của mình. Mất ở đây không phải là không còn nữa, vì bị tan vỡ, trở thành không có nhưng là bị biến thể. Bản thân vẫn còn có, nhưng bị tách khỏi mình, trở thành khác mình và hơn nữa trở thành xa lạ, đối lập với chính mình.

Vong thân là khái niệm căn bản trong triết học Hegel một triết gia duy tâm nổi tiếng người Đức vào cuối thế kỷ thứ XIX.

Vấn đề quan trọng, đề tài then chốt làm bận tâm các nhà triết học, những thế kỷ XVII, XVIII, XIX vẫn là vấn đề nhận thức: làm sao lý trí tinh thần có thể biết được sự vật, thế giới bên ngoài là một thực tại khác với tinh thần, lý trí? Những triết gia duy lý nhấn mạnh vào vai trò quyết định của tinh thần, lý trí, còn những triết gia duy nghiệm nhấn mạnh vào tính cách tích cực chủ động của sự vật, thế giới bên ngoài. Kant cố gắng dung hòa hai quan điểm đối lập. Đến Hegel, Hegel cho rằng không bao giờ giải quyết được vấn đề bao lâu cứ đứng ở bình diện phân biệt tinh thần là một thực tại khác với sự vật, thế giới bên ngoài. Và đứng ở bình diện tách biệt trên theo Hegel phải nhìn nhận không thể có quan điểm nào hoàn hảo hơn quan điểm của Kant.

Hegel không xóa bỏ vấn đề nhận thức, nhưng thay đổi hẳn quan niệm nhận thức. Trước hết Hegel nhìn nhận chỉ có một thực tại và thực tại duy nhất đó là tinh thần. Nhưng ở khởi điểm, tinh thần chưa biết mình là tinh thần, chưa tự giác là tinh thần, vì tinh thần chỉ biết mình là tinh thần ở tận cùng lịch sử, một diễn biến lâu dài gồm nhiều giai đoạn. Nói cách khác, tinh thần không ở trạng thái im lìm và hoàn tất ngay từ khởi điểm và phải trải qua một lịch trình diễn tiến trong lịch sử để đạt tới tự giác.

Vậy tất cả mọi sự của thực tại: thế giới vật chất, nhà nước, văn minh, tôn giáo, nghệ thuật, triết lý… chẳng qua chỉ là những biểu lộ của tinh thần trong lịch sử diễn tiến hướng về tự giác. Do đó khi tinh thần tìm hiểu thế giới bên ngoài, lịch sử, không phải là tìm hiểu một thực tại khác mình vì không bao giờ hai thực tại khác nhau về bản chất, có thể hiểu nhau mà chỉ là tinh thần tự tìm hiểu mình qua những biểu lộ của chính mình.

Trong viễn tượng đó, nhận thức triết lý không còn phải là giải thích tại sao và bằng cách nào lý trí, tinh thần biết được thế giới bên ngoài hoặc xác định những điều kiện có thể nhận thức như Kant đã làm mà là mô tả những biểu lộ xuất hiện của tinh thần trong lịch trình diễn tiến của nó. Những biểu lộ này cũng từ tinh thần mà ra, tách khỏi tinh thần, trở thành khách quan.

Quan niệm trên đưa đến nhận xét căn bản sau đây: tinh thần không thể tự giác nếu không trở thành khác mình bằng những biểu lộ bên ngoài. Cũng như con người chỉ biết mình là một vật sáng tạo khi đứng trước một tác phẩm, công trình sáng tạo của mình. Tác phẩm là kết quả sinh hoạt sáng tạo của ta, tuy do ta mà ra nhưng đã tách khỏi ta và trở thành khác ta.

Hiện tượng tách khỏi mình, trở thành khác mình Hegel gọi là vong thân. Nhưng vong thân cũng là một điều kiện cần thiết và chỉ có đánh mất mình trong những biểu lộ của mình, tinh thần mới biết được những khả năng, giá trị của mình, mới biết mình. Thực ra việc đánh mất mình ở đây chỉ tạm thời, vì tinh thần sẽ phục hồi tất cả những biểu lộ, sản phẩm của vận chuyển trong lịch sử quá trình diễn tiến ở tận cùng lịch sử, và nhất là không có nghĩa như từ ngữ muốn chỉ thị, vì việc đánh mất mình, chính là một cách phong phú hóa mình. Do đó, vong thân là cần thiết để tinh thần có thể tự giác và chỉ là một giai đoạn trong lịch trình diễn tiến, vì vong thân sẽ chấm dứt khi tinh thần đạt đến giai đoạn chót thu hồi được thực ngã và hoàn toàn tự giác là tinh thần tuyệt đối.

Đến Marx khái niệm vong thân mang một nội dung cụ thể không còn phải tinh thần trừu tượng vong thân như Hegel hiểu, nhưng là con người bằng xương bằng thịt, sống trong những hoàn cảnh lịch sử, chế độ xã hội nhất định bị mất bản thân, giá trị làm người. Tình trạng vong thân cũng không phải là hình thức “khách thể hóa cần thiết để tiến tới chỗ hoàn thiện, trái lại bày tỏ một sa đọa suy đồi thật sự”.

Vong thân xuất hiện dưới nhiều hình thức: tôn giáo, chính trị, pháp lý, triết lý, nhưng tất cả những vong thân, tôn giáo, chính trị, triết lý… đều bắt nguồn từ vong thân căn bản là vong thân kinh tế của con người lao động, sản xuất. Cũng như Hegel, Marx coi con người là một vật lao động và cần lao là yếu tính của con người. Sự làm việc bao hàm dự định và mục đích. Dự định làm việc nhằm thực hiện mục đích, thỏa mãn những nhu cầu sinh sống đồng thời nhằm phát triển con người, nhân hóa con người, phong phú hóa con người. Nói cách khác những sản phẩm con người lao động làm ra thuộc về con người sản xuất và nhằm thực hiện những mục tiêu mà hắn dự định.

Con người lao động vong thân khi những sản phẩm mình làm ra không thuộc về mình, không nhằm thực hiện những mục tiêu, những dự định, trái lại bị người khác tước đoạt nhằm thực hiện những mục tiêu của họ.

Do đó, người làm việc bị tách khỏi những kết quả sự làm việc của mình, bị tách khỏi chính sự làm việc của mình vì nó không còn nhằm thực hiện những dự định của mình và sau cùng bị tách khỏi cả những người khác, trở thành thù địch với mình vì người khác đã chiếm đoạt công lao sự làm việc của mình. Đáng lẽ lao động sản xuất là một sinh hoạt để con người nhận biết mình là người, như vật sáng tạo, một giá trị làm người trước sản phẩm do mình làm ra thì lại một dịp đánh mất bản ngã, giá trị làm người và ném con người vào tình cảnh vong thân trở thành xa lạ, thù địch với người khác, với thiên nhiên, với chính mình.

Nhìn một cách cụ thể, người lao động bị vong thân trong những chế độ nô lệ, phong kiến và nhất là trong chế độ tư bản. Những chế độ này là nguồn gốc sự mất mát, thua thiệt của người làm việc. Thay vì nhằm phát triển những giá trị nhân loại, thăng tiến con người bằng những sinh hoạt kinh tế, những chế độ trên, nhất là tư bản đã lấy tư lợi làm tiêu chuẩn cho mọi sinh hoạt lao động, do đó đã biến con người sản xuất thành một dụng cụ sản xuất như cái máy, cái cày và biến sức lao động thành hàng hóa đổi chác theo luật thị trường.

Marx đã viết những đoạn rất nghiêm khắc để mô tả và kết án sự bóc lột lao động trong những chế độ trên, nguyên nhân tình cảnh vong thân của người làm việc.

Trước hết, người lao động bị tách rời khỏi những kết quả sự làm việc. “Người thợ càng nghèo khi càng sản xuất nhiều và hơn nữa, sản phẩm sự làm việc càng văn minh, người thợ càng trơ trẽn, mọi rợ. Lao động càng mạnh, người thợ càng yếu, lao động càng thông minh người thợ càng không được sử dụng trí khôn và trở thành nô lệ thiên nhiên. Lao động làm ra sự đẹp đẽ nhưng đối với người thợ nó chỉ đem lại sự đui què. Lao động làm ra tinh thần nhưng đối với người thợ nó chỉ đưa đến sự sa đọa thành con vật”. Nói tóm lại. “sản phẩm lao động thế nào thì chắc chắn người thợ không được như thế. Người thợ trở thành một món hàng rẻ nếu nó càng sản xuất được nhiều hàng hóa”.

Sau là sự phân ly giữa con người với chính hoạt động làm ăn của mình. Lao động ở ngoài người thợ, nghĩa là không còn thuộc bản chất người thợ, vậy người thợ không phải là mình khi làm việc, người thợ như tự phủ nhận trong khi làm việc, không phát triển năng lực thể xác hay tinh thần nhưng là kìm hãm thể xác và phá hủy tinh thần trong sự làm việc. Cho nên người thợ cảm thấy thoải mái như ở nhà mình ngoài giờ làm việc, còn trong lúc làm việc, người thợ cảm thấy ngoài mình. Sự làm việc của người thợ không phả là tự ý nhưng là bị bó buộc. Do đó sự làm việc không có nghĩa là làm thỏa mãn những nhu cầu. Tính cách xa lạ của sự làm việc xuất hiện trong sự kiện sau đây: nếu không bị bó buộc người ta trốn tránh làm việc như trốn dịch. Cho nên, hoạt động của người thợ là sự tiêu diệt chính mình.

Từ khóa » Nghĩa Vong Thân