Vui Buon Voi Trau Dien Truong - TQLC

TỔNG HỘI THỦY QUÂN LỤC CHIẾN VIỆT NAM

VUI BUỒN VỚI TRÂU ĐIÊN TRƯỞNG

Trâu Điên Tô Văn Cấp

Từ ngày thành lập 11/1955 đến 30/4/1975, Tiểu Đoàn 2/TQLC được chỉ huy bởi tất cả 12 vị Tiểu Đoàn Trưởng theo thứ tự là các Đại Úy Nguyễn Kiên Hùng (11/55), Hoàng A Sam (6/56), Lê Nguyên Khang (9/57), Nguyễn Hải Đăng (5/58), Nguyễn Thành Yên (7/58), Trung Úy Dương Hạnh Phước (6/60), Đ/Úy Nguyễn Thành Yên (61-63 lần thứ 2), Đ/Úy Cổ Tấn Tinh Châu (63), Đ/Úy Hoàng Tích Thông (64), Thiếu Tá Lê Hằng Minh (65), Đ/Úy Ngô Văn Định (66-69), Th/Tá Nguyễn Xuân Phúc (69-72), Th/Tá Trần Văn Hợp (72-75). (những cấp bậc trên là khi nhậm chức TĐT).

Kể từ Th/Tá Lê Hằng Minh thì TĐ2/TQLC được mang thêm tên “Trâu Điên”, chúng tôi thường thân mật gọi các tiểu đoàn trưởng là Trâu Đầu đàn, rồi các Tiểu Đoàn 1, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9 cùng lần lượt kèm theo một danh xưng khác như Quái Điểu, Sói Biển, Kình Ngư, Hắc Long v.v..Nhưng đã có một số không ít người ngoài binh chủng mỗi khi thấy lính TQLC thì gọi là Trâu Điên, nhiều khi còn đi quá xa là thấy bộ quân phục rằn ri thì .. đích thị là “Trâu Điên”. Điều này làm chúng tôi hãnh diện nhưng đôi lúc cũng bị .. đau khổ không kém.

Tuy đã phục vụ qua nhiều đơn vị trong Binh Chủng TLC nhưng tôi luôn hãnh diện với danh xưng “Trâu Điên” vì đây là đơn vị tác chiến tôi phục vụ lâu nhất, có nhiều kỷ niệm sống chết đói no với đồng đội và vui buồn với các Trâu Đầu Đàn, nay xin ôn lại một vài kỷ niệm để nhớ đến các ANH.

* * *

Trâu Điên LÊ HẰNG MINH

Sau 15 ngày bị trọng cấm, ăn cơm hẩm của chúa ngục quân cảnh Q.C.202 Trần Ngọc Toàn, tôi từ giã TĐ5/TQLC, nàng tiên suối Lồ-Ồ để theo toán bổ sung quân số về trình diện TĐ2/Trâu Điên hiện hành quân tại thành phố Đà Nẵng (5/66).

Đang vui cùng đồng đội, bị đổi sang đơn vị mới xa lạ khác, mệt mỏi chán chường, tôi dựa lưng vào tường, ngồi bệt dưới sân của Quân Trấn Đà-Nẵng, chợt thấy một ông thiếu tá nhỏ con, nón sắt áo giáp súng đạn đầy người đi tới đi lui, lại thêm bộ râu trông “hách” hơn râu của mình, tôi quay sang hỏi người hạ sĩ ngồi bên cạnh:

_ Ông nào trông ngầu quá vậy?

_ Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng TĐ2 của mình đó ông ơi.

Đây là lần đầu tiên tôi được đến gần vị tiểu đoàn trưởng TĐ Trâu Điên, vị tiểu đoàn trưởng tôi từng nghe danh từ lâu nhưng vẫn “kính nhi viễn chi”, nay trông thấy ông rồi và về với Trâu Điên, đơn vị đầu tiên tôi mong được phục vụ. Nhưng buồn thay, nay bị đổi về trong hoàn cảnh miễn cưỡng này thì tương lai chắc chẳng khá gì!

Được về chiến đấu dưới màu áo rằn ri sóng biển TQLC đã khó, mà cái áo rằn có hình Trâu Điên nghếch mũi cười nhe răng trên cánh vai phải lại càng khó hơn.

Nhớ lại chuyện xưa, khoảng tháng 11/1964, trước ngày mãn khóa, gần 400 SVSQ/K19/VB chúng tôi được tập họp ở hội trường để ban tuyển mộ của 2 binh chủng Nón Đỏ Nón Xanh lựa chọn. Đại úy TQLC Phạm Văn Chung và Đỗ Kỳ tuyên bố

_ SVSQ nào tình nguyện về binh chủng TQLC thì đưa tay lên.

Ông Đỗ Kỳ vừa dứt lời thì một rừng cánh tay đưa cao cương quyết tình nguyện, tương tự như cảnh dơ tay tình nguyện về Nhẩy Dù, các ông tuyển mộ TQLC bị bất ngờ, không biết chọn ai nên họ đành cho bốc thăm hên xui để lấy 60 tên, sau đó theo tiêu chuẩn riêng các ông sẽ chọn và lựa để lấy 30 tên.

Bốc được lá thăm lọt vào vòng 60/400 SVSQ là mừng rồi, nhưng khi nghe ban tuyển mộ TQLC chọn theo tiêu chuẩn “cao thấp” làm tôi thất vọng, phải làm cách nào cao thêm lên mới được, nghĩ là làm..

Toán 60 SVSQ chúng tôi đã bốc trúng thăm bị đứng dựa lưng vào tường để 2 ông quan rằn ri Chung-Kỳ sắp xếp theo thứ tự cao thấp rồi chonï ra từng người khiến lòng tôi hồi hộp vô cùng. Các ổng đã lựa được 29 thiếu úy rồi, chỉ còn một xuất cuối cùng cho 2 tên cao bằng nhau, cùng Đại Đội H là Nguyễn Chí và Tô văn Cấp.

Đã gần nửa thế kỷ trôi qua (64-2008) tôi không quên đôi mắt “soi mói” của 2 ông quan TQLC, tôi vẫn cảm thấy những giọt mồ hôi thấm ướt áo, đôi gót chân tê đi vì cố kềm giữ ở độ cao giả tạo, cuối cùng 2 ông “Trời con” đã chiều lòng người ..gian, Nguyễn Chí, người số 30, bị đẩy ra ngoài và tôi, số 31, trúng tuyển về TQLC.

Được chọn về TQLC, tôi vội vàng đội ngay cái mũ nồi xanh đã chôm của ông anh rể để tập lễ mãn khóa khiến Trung Úy cán bộ Lê Quang M.. ghét, ông gọi tôi ra khỏi hàng và dọa sẽ cho ra trung sĩ! Sao thế nhỉ? Lần đầu tiên tôi được đội cái mũ xanh hằng mơ ước lại bị điềm gở như vậy chắc tương lai mờ mịt lắm đây!

Sau hơn 4 thập niên, gặïp lại nhau trong đại hội khóa năm 2003 tại WA, Nguyễn Chí còn nhớ kỷ niệm không được chọn về TQLC năm xưa bèn nhìn tôi cười ha hả

_ “Nội quy cấm SVSQ ăn gian nói dối, nhưng mi ăn gian, tau biết mi độn giấy vào gót giầy cho cao thêm khiến tao thực sự cao hơn mi thì bị loại!”

_ Đừng buồn nghe Chí-Trắng, nay tuy sức không được khỏe nhưng bạn vẫn sống và vẫn nhớ chuyện xưa, chuyện nửa thế kỷ trước là mừng rồi. Chí có biết không, trong số 30 thằng bạn tranh nhau và hãnh diện được về TQLC thì cuối cùng chỉ có 1 tên là leo lên được chức “tiểu đoàn trưởng” nhưng lại bị tử trong trại tù CS! Còn tất cả những người khác thì sứt tay gẫy gọng, tử thương và trọng thương trên khắp mọi chiến trường, mở màn là Kháng và Hùng!

Mãn khóa ngày 28/11/1964, hết 15 ngày phép, trình diện đơn vị tại hành quân, lần đầu tiên ra trận, thủ khoa Võ Thành Kháng và Nguyễn Văn Hùng đã hy sinh ngày 31/12/64 tại mặt trận Bình Giả. Cũng tại mặt trận này, một K.19 khác tử trận trước Kháng và Hùng một vài ngày, đó là Nguyễn Thái Quan, thuộc TĐ 30BĐQ (hay38)! Có lẽ đây là những thiếu úy thuộc K.19/VB hy sinh sớm nhất tại mặt trận!

Trung úy Trần Ngọc Toàn K.16, một đại đội trưởng TĐ4/TQLC, trong bài viết về trận Bình Giả anh đã ghi lại trong Tuyển Tập 2/TQLC như sau:

Giữa rừng cao su, tôi thấy xác của Th/Úy Kháng và Hùng, khóa 19 Đà Lạt, vừa mới nhận trung đội ngày hôm trước. Kế đó là xác chiếc trực thăng bị bắn rơi và xác 4 quân nhân Mỹ. Lúc ấy vào khoảng 2 giờ ngày 31/12/1964”.

Tháng 12/1964, 30 tân thiếu úy về trình diện LĐ/TQLC, Thiếu Tá Tham Mưu Trưởng Bùi Thế Lân, sau vài lời nhắn nhủ và răn đe, ông hỏi ai tình nguyện về TĐ1, TĐ 2/TQLC v.v..thì lại tái diễn cảnh cũ như lúc chọn binh chủng khi còn ở quân trường, nhiều cánh tay đưa lên. Ông “Mắt Kiếng” nhìn mặt đăït tên, tôi không còn dịp ăn gian độn giấy vào gót giầy nữa. Bốn tên cao to đẹp zai được về Trâu Điên là Trần Văn Hợp, Trần Văn Thuật, Trần Phú Tỉnh và Vũ Đoàn Dzoan.

Tôi được về TĐ5, sau một thời gian chiến đấu từ Pleiku, Kontum, Dakto, Đức Cơ v.v..anh em đã sống chết có nhau nay bị đổi đi đơn vị khác thì buồn biết chừng nào, dù cho đó là Trâu Điên với Tiểu Đoàn Trưởng Lê Hằng Minh, người tôi ngưỡng mộ.

Tháng 5/1966, Chiến đoàn B/TQLC gồm TĐ1 và 2 tham dự “Biến Động Miền Trung”, dẹp biểu tình tại Đà Nẵng, khiêng bàn thờ Phật bị thầy trò Thích Trí Quang đem bày xuống đường làm vật cản lưu thông ở Huế. Vừa ổn định nội thành là TQLC hành quân diệt địch còn bao quanh thành phố, đuổi chúng từ bờ biển Phù Liêu Gia Đặng tới ngã ba sông Vĩnh Định, Bích La thôn, biết bao xác VC đã nổi lên tại khúc sông này khiến ông quận trưởng Triệu Phong than phiền: “làm sao vớt cho hết đây!”

Sau khi dẹp thù trong, giết giặc ngoài xong, Chiến Đoàn B/TQLC trở lại Huế để tham dự lễ mừng chiến thắng được tổ chức tại Phú Văn Lâu, trong dịp này một số quân nhân TQLC được gắn huy chương và thăng cấp, trong đó có Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng TĐ2/TQLC Lê Hằng Minh được thăng cấp trung tá.

TĐ2/TQLC đang nghỉ dưỡng quân ở một xóm phía ngoài đầu cầu An Hòa (Huế) thì Đại Đội Trưởng ĐĐ4 Nguyễn Xuân Phúc đi họp về ra lệnh cho đại đội chuẩn bị hành quân. Ông cho biết tiểu đoàn di chuyển ra Quảng Trị bằng xe theo thứ tự ĐĐ1 của Tr/Úy Trần Kim Hoàng, tiếp theo ĐĐ2 của Tr/ Úy Trần Văn Thuật, BCH/TĐ và ĐĐCH của Tr/Úy Trần Kim Đệ, tiếp đến ĐĐ3 của Tr/Úy Đinh Xuân Lãm, Trung Úy Nguyễn Xuân Phúc chỉ vào tôi nói:

_ “Đại Đội 4 đi sau cùng nhưng Trung Đội 43 của ông đi đầu nên phải theo dõi, khi hết ĐĐ 3 là di chuyển theo ngay, ông mà lớ quớ không theo kịp là tôi .. cắt.”

Mới đổi về đại đội với cái tội vô kỷ luật nên bị xếp lưu ý thử lửa, ông đưa 2 ngón tay theo hình cái kéo nhịp nhịp khiến tôi phát rét. Để chắc ăn biết khi nào tới phiên mình nên tôi ra đứng sát ngay lề đường để theo dõi các đơn vị đi chuyển, nhờ đó mới có dịp nhìn rõ thần tượng của tôi, Đại Bàng Lê Hằng Minh.

Ông ngồi trên xe Jeep mui trần với nhiều cần câu (antena), trên kính chắn gió phía tay phải còn khoác một vòng hoa chiến thắng, có lẽ vòng hoa này do các em gái hậu phương quàng cho ông trong buổi lễ mấy hôm trước. Ông mặc áo jacket bên ngoài, trên cầu vai áo jacket là cặp lon trung tá TQLC bằng kim tuyến trắng tinh.

( Xin mở dấu ngoặc ở đây, lon TQLC giống như lon Hải Quân, chỉ khác nhau là HQ thì màu vàng, TQLC màu trắng, nhưng khi đi hành quân, lon TQLC được thêu bằng chỉ đen trên cổ áo tác chiến. Sáng sớm ngồi xe jeep bỏ mui bị lạnh nên TĐT mặc jacket có lon mới là chuyện thường, bất cứ quân nhân nào cũng thích làm như vậy)

Kể từ ngày về tiểu đoàn, tôi chưa được phép trình diện TĐT, lần đầu thấy ông tại Quân Trấn Đà Nẳng với cấp bậc thiếu tá, lần này đứng bên lề đường đưa tay chào trung tá khi xe jeep của ông từ từ đi qua. Dĩ nhiên ông không bận tâm chào lại và cũng chẳng biết tên thiếu úy kia là ai, không ngờ đó là lần đầu tiên và cũng là lần sau cùng tôi đứng nghiêm đưa tay chào vị tiểu đoàn trưởng thần tượng của tôi, đó là ngày..

... Đó là ngày 29/6/1966, đoàn xe TĐ2 di chuyển trên QL1 từ đầu cầu An Hòa hướng ra Quảng Trị, vừa qua khỏi cầu Phò Trạch, cột mốc cây số 17 thì bị phục kích, lúc đó vào khoảng 9 giờ sáng, Trung Tá Tiểu Đoàn Trưởng Lê Hằng Minh cùng 42 chiến sĩ bị tử thương, gần 100 quân nhân bị thương, trong số đó có anh Xuân Phúc bị bắn từ ngực xuyên ra sau lưng, Trần Văn Hợp bị bắn vào bắp chân và tôi, đạn xuyên cánh tay. Đổi lại thì 233 VC phơi xác, 9 cháu ba-ác “được” bắt sống.

Tư Lệnh SĐ1/BB Đại Tá Ngô Quang Trưởng nhận xét về trận này:

Trong cuộc đời binh nghiệp, kể cả hồi Pháp, tôi chưa hề thấy trận phục kích nào lại biến thành trận phản phục kích tuyệt vời như trận Phò Trạch này

(MX Tôn Thất Soạn, Tuyển Tập 2/TQLC)

Trung Tá Lê Hằng Minh vừa được thăng cấp trại mặt trận là đã đền nợ nước, “xanh cỏ” ngay sau khi vừa “đỏ ngực”! Đỏ ngực vì chiến thương bội tinh. Ông tử trận nhanh đến nỗi nhiều quân nhân trong tiểu đoàn chưa biết tiểu đoàn trưởng của mình mang lon mới, tôi cũng thế nếu như không được trông thấy tận mắt. Sau này có nhiều bài viết đã ghi không đúng, hoặc nghi ngờ về cấp bậc của Ông trước khi tử trận.

Nhân dịp đại hội TQLC 2004 tại Houston TX, tôi đã trả lời một “nghé con” đi điều tra cái lon của Trâu Đầu Đàn, nhưng bạn này vẫn chưa vừa ý bèn cầm máy ghi âm đi hỏi cựu cố vấn Thomas E. Campbell, cố vấn trưởng TĐ2, người đã thoát chết trong trận phục kích kể trên, thì cố vấn này trả lời vào máy ghi âm rằng:

_ “Chuyện lâu quá rồi tôi không nhớ rõ lắm, nhưng theo tôi, trước khi tử trận, ông Minh mang cấp bậc trung tá”

Cố vấn Campbell lịch sự với người hỏi nên trả lời như vậy, nhưng trong một bài viết về trận phục kích này, Đ/úy Thomas E. Campbell đã viết là “Col Minh”.( Sau này ông Campbell là đại tá giảng viên về lãnh đạo chỉ huy tại trường đại học Austin Dallas TX và ông mới qua đời đầu năm 2008)

Ai gắn? Gắn ở đâu? Vì lý do gì? Tại sao sau khi tử trận Ông lại không được vinh thăng cố đại tá? Tại sao không có nghị định thăng cấp gửi về v.v..Chúng tôi không phải là giới chức có thẩm quyền để trả lời các câu hỏi này. Những chuyện thăng cấp tại mặt trận thường do con rùa hành chánh điều chỉnh giấy tờ nên cũng thường gây nên lắm chuyện buồn vui, gắn rồi lại thôi! Dù cho hiện tại Anh Lê Hằng Minh đang mang trên cổ áo ngàn vạn “ngôi sao” thì chúng tôi vẫn phải xác định lại sự thật:

“Chúng tôi”, những nhân chứng sống, đang sống là các ĐĐT/ĐĐ1 Trần Kim Hoàng, ĐĐ3 Đinh Xuân Lãm (San José) ĐĐCH Trần Kim Đệ (NamCA), ĐĐ2 Trần Văn Thuật (Houston) và tôi, một trung đội trưởng của ĐĐ4, xin xác định Tiểu Đoàn Trưởng Lê Hằng Minh đã mang cấp bậc Trung Tá trước khi tử trận (lá thư xác nhận của ĐĐT Đinh Xuân Lãm viết ngày Nov/7/05 tôi còn giữ).

Cũng nhân dịp dự đại hội TQLC tại Houston, tôi hỏi anh Nguyễn Văn Phán, nguyên là một ĐĐT/TĐ1, trước cửa nhà hàng Ocean trong khu Hông-Kông:

_ “Anh cho biết ông Lê Hằng Minh mang cấp bậc gì trước khi tử trận?”

_ “Tau cọ mặt trọng buổi lệ ợ Phụ Văn Lâu, ông được lên trung tạ, tau đòi ổng khao lon thì ổng nọi chợ xong chuyện hành quân này đã.

Trả lại sự thật cho lịch sử, những “nghé con” đừng vuốt sừng “Trâu Già”.

Là một trung đội trưởng chưa có dịp trình diện tiểu đoàn trưởng, chỉ mới nghe danh mà chưa được nghe “tiếng” nên tôi không có nhiều kỷ niệm vui buồn với Ông, chỉ xin ghi lại cảm tưởng của cựu Th/tá Tá Lâm Tài Thạnh, TĐT/TĐ9/TQLC, khi Thạnh còn là Ch/úy trung đội trưởng của TĐ2, nói về vị tiểu đoàn trưởng của mình:

Vào một sáng Chủ Nhật, không có tiền đi phố, tôi và Quang (khóa.18/VK) tự cấm trạị, đang lau chùi vũ khí thì TĐT Minh đi ngang, thấy vậy ổng lấy xe jeep chở chúng tôi ra hồ tắm Ngọc Thủy (Thủ Đức) giải khát, ổng lái và cho tôi ngồi bên cạnh. Lần đầu tiên trong đời và có lẽ cũng rất hiếm hoi trong đời lính, một tiểu đoàn trưởng lái xe chở một chuẩn úy trung đội trưởng ngồi ghế trưởng xa đi uống nước..”

Thạnh còn nói nhiều về sự ân cần săn sóc và thăm hỏi của TĐT Lê Hằng Minh đối với cuộc sống bình thường của thuộc cấp và gia đình khiến những trung đội trưởng hết sức cảm động, nguyện với lòng sẽ chiến đấu tới cùng cho xứng đáng với lòng thương của thượng cấp. Đúng như thế, Tr/úy Nguyễn Văn Quang đã tử trận năm 1969, còn Th/Tá Lâm Tài Thạnh đã chiến đấu tới ngày cuối cùng 30/4/1975.

Phong cách cư xử của Thiếu Tá Lê Hằng Minh đối với thuộc cấp tôi thấy có tài “lãnh đạo” trong đó. Chỉ huy thì dễ, chỉ việc .. chỉ tay ra lệnh, la hét và chửi thề khiến thuộc cấp sợ mà phải tuân theo. Nhưng lãnh đạo lại là một nghệ thuật khiến kẻ dưới vui vẻ tình nguyện chấp nhận hy sinh để hoàn thành nhiệm vu.

Trong giờ học về “Lãnh Đạo và Chỉ Huy” Ông thầy Trần Ngọc Huyến dạy các học trò rằng mỗi trung đội trưởng phải có một cuốn sổ tay, trong đó ghi đầy đủ gia cảnh binh sĩ của trung đội mình. Họ có mấy con, tên gì, bao nhiêu tuổi, học hành tới đâu v.v.. để thỉnh thoảng hỏi thăm gia đình thuộc cấp, đó cũng là “lãnh đạo”. Lãnh đạo chẳng phải là cái gì to lớn ghê gớm khó khăn lắm đâu, khi một thuộc cấp gặp trường hợp vợ ốm con đau thì mau mau thăm hỏi và cho họ đi phép ngay, đó cũng là một cử chỉ lãnh đạo. Đừng vin cớ “vì nhu cầu công vụ” mà từ chối quyền lợi của thuộc cấp, dùng quyền chỉ huy không cho họ đi phép là không đúng, nói thẳng ra là “ép nhau”.

Tiểu Đoàn Trưởng TĐ2 Trâu Điên Lê Hằng Minh không chỉ là một cấp chỉ huy giỏi mà còn là một sĩ quan tuy còn trẻ nhưng đã có tài lãnh đạo cao. Sự hy sinh của Ông là một mất mát lớn lao cho Binh Chủng TQLC nói riêng và QLVNCH nói chung.

Sau khi Trung Tá Lê Hằng Minh tử trận, Đ/Úy TĐP Nguyễn Văn Hay về phòng Thanh Tra SĐ, tân TĐT/TĐ2 Trâu Điên là Đồ Sơn Ngô Văn Định.

* * *

Trâu Điên NGÔ VĂN ĐỊNH

Phải nói ngay mà không sợ mang tiếng là nịnh thượng cấp, theo tôi, Đồ Sơn Ngô Văn Định là một trong những TQLC đẹp giai, có nhiều huy chương Anh Dũng Bội Tinh với 21 ngành Dương Liễu, Đệ Ngũ Đẳng, Đệ Tứ Đẳng và Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc Huân Chương. Đồ Sơn là một người cha, một người chồng khó ai sánh kịp.

Mai Văn Tấn kết luận về “Người Lính Mũ Xanh” Ngô Văn Định như sau:

Sau hơn ba thập niên thăng trầm của cuộc sống, nay ngồi viết lại cuộc đời có thật điển hình của Người Lính Mũ Xanh từ khi bắt đầu vào đời đến gần cuối cuộc đời để trân trọng một cấp chỉ huy gương mẫu, có khả năng trong binh chủng, một người anh đáng kính, một người cha mẫu mực, một người chồng thủy chung. Đó là một hành trang quý báu đáng trân trọng cho các con của anh nói riêng, cho giới trẻ nói chung ..” (MX Mai Văn Tấn, ĐSST 2008)

Những chiến công mà Đồ Sơn tạo thêm danh cho TQLC, mang dây biểu chương BQHC về cho TĐ2 Trâu Điên làm sao kể hết. Đồ Sơn cũng là một trong 2 Lữ Đoàn Trưởng TQLC tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị, vị kia là Đại Tá Nguyễn Năng Bảo, một cựu đại đội trưởng của Trâu Điên. Tôi không đủ khả năng và không thể nói nhiều về những chiến công này mà chỉ xin ôn lại những kỷ niệm “vui buồn” của một đại đội trưởng với Tiểu Đoàn Trưởng Đồ Sơn quanh cuộc chiến.

Tôi phục vụ dưới quyền chỉ huy của Đồ Sơn Ngô Văn Định từ 1966-1969, tính tròn 3 năm, đây là vị tiểu đoàn trưởng lâu đời và liên tục nhất của tôi từ cấp trung đội đến đại đội trưởng. Tôi theo ông trong mọi cuộc hành quân khắp 4 vùng chiến thuật, không hề gián đoạn công vụ, qua nhiều trận lớn nhỏ, tôi nhận thấy, ngoài tài chỉ huy, Đồ Sơn còn là người cầm quân “mát tay”, ít ra là đối với riêng cá nhân tôi, ông đã giúp tôi thoát chết nhiều lần trong gang tấc, xin kể một vài thí dụ điển hình:

1/Trong trận Mậu Thân 1968, đơn vị tôi tấn công dọc theo đường Hậu Giang từ trong Chợ Lớn hướng về Mũi Tàu Phú Lâm, tôi đang đứng sau cây cột xi-măng đá mài trên sân thượng để quan sát toán VC cố thủ phía lầu đối diện đã gây nhiều trở ngại cho đường tiến quân, thì nghe Hạ Sĩ Nguyễn Văn Thà gọi từ phía sau:

_ “Đồ Sơn cần gặp ông thầy gấp”.

Vì vướng bức tường cao, Thà mang máy không leo qua được nên tôi phải quay lại đi tới chỗ Thà, tay chưa kịp cầm ống liên hợp máy PRC25 thì một tiếng nổ kinh hồn đẩy tôi ngã sấp xuống, vài giây sau quay lại nhìn, cây cột xi măng biến mất chỉ con trơ cốt sắt cong queo. Cởi áo giáp xem sao, lưng áo giáp lỗ chỗ như một tổ ong. Tiếng gọi của Đồ Sơn đúng lúc khiến tôi tránh được “tiếng gọi” của tử thần.

2/ Ngày 14/9/1968, Đại Đội1 (-) của tôi vừa nhảy “diều hâu” xuống rừng vùng Cầu Khởi, phía Bắc quân Khiêm Hanh, (Tây Ninh) liền bị Tiểu Đoàn 14D/VC bao vây tấn công, chúng tôi trong tình trạng thập tử nhất sinh, Đồ Sơn đã kịp thời đổ quân TĐ2 (-) xuống ngay sau lưng địch khiến chúng hốt hoảng phải nới vòng vây ĐĐ1 để quay ra chống cự với Tiểu Đoàn Trâu Điên bao vây chúng phía ngoài. Đang ở thế thượng phong thì VC lâm vào thế bị động, bị TĐ2 trong đánh ra ngoài đánh vào khiến chúng tan tác. Nhanh chóng và chính xác, Đồ Sơn đã kịp thời cứu mạng anh em ĐĐ1.

3/ Sau trận Cầu Khởi, TĐ2 lại đổ bộ trực thăng ngay vào mật khu Hố Bò (TN), nhưng mới thả xuống được 2 đại đội thì bị đụng nặng, súng phòng không quá mạnh và địa thế không cho phép tiểu đoàn đổ quân tiếp tục nên ĐĐ1 và ĐĐ3 của Trần Văn Thương (K12/VK) cầm cự tơí ngày hôm sau tiểu đoàn mới xuống đầy đủ.

Suốt đêm đó, TĐT Đồ Sơn và Ban 3 Đinh Xuân Lãm luân phiên bay C&C đề chỉ huy và hướng dẫn “Hoả Long” yểm trợ. Tiếng nói của các anh và Hỏa Long đã giúp chúng tôi giữ vững vị trí trước những đợt tấn công dồn dập trong đêm.

Hôm sau, trong khi đang lục soát, thu dọn chiến trường và chuẩn bị đóng quân đêm thì tiểu đoàn được lệnh di chuyển ngay để B52 “trải thảm” vùng này. Khi đại đội của Vũ Đoàn Doan đi sau cùng chưa rời khỏi vị trí thì 2 đại đội đi đầu đụng nặng, tiếng B.40 và RPD nổ ròn, quân ta đã bị thương và tử thương, trời đang tối dần, tối dần!!!

Trong đêm giữa rừng sâu, lệnh thượng cấp bắt di chuyển gấp, trả mục tiêu lại cho B.52 nhưng địch lại cầm chân! Đây là lúc khó khăn nhất của cấp chỉ huy, TĐT Ngô Văn Định đã quyết định:“ở lại chiến đấu, không nhường B52” và ông đã thông báo quyết định này cho 2 cố vấn Mỹ biết.

Thực tế chiến trường đang xẩy ra trước mắt buộc 2 cố vấn của tiểu đoàn phải làm việc khẩn cấp với hệ thống cố vấn cao hơn để xin hủy bỏ hay chuyển hướng các phi vụ B.52 đang từ Thái Lan hướng về mục tiêu mà TĐ2/TQLC còn đang kẹt tại chỗ. Đây là một việc làm vô cùng khó khăn, thời hạn ấn định TĐ2 rời khỏi mục tiêu đang cạn dần, đêm lạnh mà các cố vấn lau mồ hôi trán liên tục.

Cuối cùng, cố vấn tiểu đoàn thở phào nhẹ nhõm báo cho Đồ Sơn biết B52 đã phải “nhường” mục tiêu lại cho TĐ2. Tin loan ra khiến chúng tôi an tâm diệt cộng mà không còn lo hỏa lực khủng khiếp của bạn từ trời rơi xuống. Trong chiến trận, chuyện KQ bạn đánh lầm quân ta cũng không hiếm, nhưng B52 thì chưa bao giờ xẩy ra.

Bốn mươi năm sau, khi ôn lại chiến trường xưa, Đồ Sơn tâm sự:

Khi quyết định ở lại chiến đấu mà không di chuyển theo lệnh trên, tôi biết sẽ gặp khó khăn lắm nhưng không thể hy sinh thêm đồng đội vì bất cứ lý do gì. Vả lại kinh nghiệm cho tôi biết B52 sẽ không bao giờ dám trải thảm một khi còn có người Mỹ trong vùng mục tiêu. Lúc đó trong tay mình (TĐ2) còn có 2 cố vấn Mỹ mà”.

Cũng cần nói thêm về sự quan tâm của Trung Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn Nhẩy Dù đối với Trâu Điên và Đồ Sơn nói tiếp:

TĐ2 tăng phái cho SĐND dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Trung Tướng Dư Quốc Đống. Sáng sớm hôm sau, ngay sau khi TQLC mình đánh tan Tiểu Đoàn 14D Chủ Lực Tây Ninh và Trung Đoàn 33 chính quy BV, thì Trung Tướng TL/SĐ Dù đã dáp trực thăng xuống ngay vùng giao tranh, trước tuyến phòng thủ của ĐĐ1, để quan sát trận địa và ân cần thăm hỏi khiến anh em TQLC vô cùng cảm động. Anh em bên ND gặp nhiều thuận lợi trong đời quân ngũ hơn chúng tôi

Thưa Đồ Sơn, sau gần 2 ngày mệt mỏi, chưa thu dọn chiến trường xong lại phải di chuyển ngay để B52 làm việc thì quả thực bực quá tôi đã chửi thề. Rồi khi vừa ra khỏi vị trí lại dụng ngay, một số bị thương, chưa lấy được xác B1 Hải! Đêm tối trong rừng sâu biết điều động hướng nào cho an toàn? Nằm lại “nhất chín nhì bù” là khoái nhất nên khi Đồ Sơn cho lệnh tiếp tục chiến đấu, không lo B52 nữa làm anh em chúng tôi, Lâm Tài Thạnh., Huỳnh Vinh Quang, Nguyễn Văn Quang, Trần Thành Nghĩa đã thở phào khoan khoái, chuyện AK, B40, RPD xung quanh đây chỉ là chuyện nhỏ.

Sau 3 năm theo chân Đồ Sơn khắp bốn vùng chiến thuật, bị thương lai rai thì có nhưng đến khi Đồ Sơn bị trọng thương (4/69), thì tôi bị trọng thương theo sau đó (19/6/1969), bị loại khỏi vòng chiến và rời TĐ2/TQLC từ đấy.

Xin gửi lời cám ơn muộn màng đến Đồ Sơn, là đại đội trưởng, đôi khi thường có “khắc khẩu” với tiểu đoàn trưởng, nhưng nhờ hợp “mạng” nên Đồ Sơn đã nhiều lần giúp tôi thoát hiểm trong đường tơ.

* * *

Trâu Điên NGUYỄN XUÂN PHÚC

Với hai Tiểu Đoàn Trưởng Lê Hằng Minh và Ngô Văn Định thì đây là lần đầu tôi kể lại những kỷ niệm vui buồn, nhưng còn anh Nguyễn Xuân Phúc thì hầu như bài nào nói về lính là tôi phải nhắc đến tên anh, “tôi khắc tên Anh trên đá trên hoa”.

Nếu đọc giả nào đọc bài này mà gặp phải những chi tiết tôi đã kể về anh Phúc thì xin tha lỗi, bởi vì mỗi khi nhắc đến tên “PHÚC” là một điều hạnh phúc và hãnh diện không chỉ riêng tôi mà còn là của một số đông đàn em khác, điển hình như những tên cứng cổ Lê Quang Liễn 20, Trần Quang Duật 21, Nguyễn Kim Thân 21 v.v..

Sau khi xích mích với ĐĐT Dương Bửu Long TĐ5 và ngồi tù 15 ngày rồi bị đổi về TĐ2 tôi buồn lắm, nhưng “kỷ luật là sức mạnh” nên tôi bước tới trước mặt Trung Úy ĐĐT/ĐĐ4 Nguyễn xuân Phúc, đứng nghiêm đưa tay chào và xưng danh đúng quân cách nhưng “ông ta” vẫn ngồi, 2 chân gác trên bàn, tay cầm điếu Ruby Queen gõ gõ lên hộp quẹt Zippo rồi nhếch mép cười ruồi:

_ “Ông đánh lộn bên TĐ 5 rồi về đây kiếm tôi nữa phải không?”

Đã từng nghe danh ông niên trưởng này từ lâu, nay đụng mặt trong hoàn cảnh bất đắc dĩ khiến tôi đành phải cắn môi đến rớm máu để nuốt cục buồn, muốn trả lời ông câu: “chưa biết”. Nhưng thôi, đành im lặng! Sau giây phút căng thẳng, ông đứng dậy quẹt lửa, châm điếu thuốc, nhả khói rồi chậm rãi chân bước đi miệng nói:

_ “Đi tìm đại đội phó mà trình diện”!

Đại đội phó là Trung úy Trần Văn Hợp, người bạn cùng khóa, hắn mới đón tôi từ quân trấn về đây thì còn trình diện gì nữa nên tôi xách ba lô đi tìm chỗ khuất trong một khách sạn xây cất dở dang bỏ hoang, là nơi đại đội đang đóng quân, để tránh mặt mọi người, giăng võng nằm trong một góc tối.

Trung đội 3 chưa có trung đội trưởng nhưng xếp Phúc không thèm giao cho tôi nên tôi càng có cớ xa lánh đám đông. Trần Văn Hợp và Nguyễn Quốc Chính (K20/VB) đến rủ đi phố nhưng “người buồn cảnh có vui đâu” nên tôi cũng từ chối.

Đúng thời gian này (6/66), TĐ5/TQLC, bị đụng nặng tại Quảng Ngãi, Tiểu Đoàn Trưởng Dương Hạnh Phước và Bác Sĩ Lê Hữu Sanh tử trận! Một tin như sét đánh. Đại Đội 4 mà tôi vừa rời xa thì bị thiệt hại nhiều, Chuẩn Úy Trần Tử Phương và Thảo tử trận, Thiếu Úy Lê Đình Quỳ (K20VB) bị bắt (1972 mới được tha), Ch/Úy Nguyễn Văn Lộc (K17/VK) và Trung Úy ĐĐT Dương Bửu Long bị thương!

Buồn về đơn vị mới, nhớ thương đồng đội cũ, tôi tới thăm anh em khi họ dừng quân ở Đà Nẵng. Bạn bè và đệ tử của tôi đâu hết rồi! ĐĐT Dương Bửu Long và tôi ôm nhau khóc vùi! Hối hận đã xích mích với Long khiến tôi ngồi tù trong khi anh và đại đội đi hành quân rồi đụng nặng! Tôi ước ao được ở lại TĐ5 để cùng Long chia xẻ niềm đau và trách nhiệm, nhưng biết làm sao trình nguyện vọng lên thượng cấp đây?

THỬ THÁCH LÚC BAN ĐẦU

Không vui nghĩ mình đã may mắn thoát hiểm khi vừa rời khỏi TĐ5 mà tôi buồn vì về đơn vị mới mà vẫn phải ngồi chơi, hút thuốc lá vặt, thở dài chờ hoạn nạn kế tiếp. Và rồi cũng đến lúc “xếp” Phúc gọi tôi ra lệnh:

_ “Ông xuống nhận Trung Đội 3 để sáng sớm mai đi hành quân”.

Không hỏi thêm bất cứ điều gì để cho xếp biết tôi “bất cần”, và rồi tôi gọi trung đội phó Trung Sĩ 1 Tuyết truyền lệnh vắn tắt “chuẩn bị sáng mai đi hành quân”.

TĐ2/TQLC tiến quân dọc theo những xóm làng ven biển, đụng tại mục tiêu Phù Liêu Gia Đặng, quân ta truy kích địch về tới ngã ba sông Vĩnh Định, thôn Bích La (QT). Địch hết đường thoát nên tử thủ tại đây nhưng rồi cũng bị TĐ1 và TĐ2 đánh tan. Suốt cuộc hành quân này Đại Đội Trưởng Nguyễn Xuân Phúc luôn để trung đội tôi lẽo đẽo theo sau và không hề ra lệnh hay nói năng gì cả.

Tại Phù Liêu, khi cánh quân đi đầu nổ súng, Thiếu Úy Kiệt (K20/VB) tử thương thì ở phía sau, VC từ dưới cát chui lên “chặt khúc đuôi”, tấn công ào ạt vào trung đội 3 của tôi nhưng anh em đã nhanh chóng phản ứng cấp thời, không hề hấn gì mà VC còn bỏ lại vài cây AK và xác chết. Tôi báo cáo lên đại đội nhưng chỉ nhận lệnh qua hiệu thính viên tiếp tục truy kích địch về Bích La, xếp vẫn không lên tiếng khen chê

Tại thôn Bích La, VC bị kẹt vào giữa gọng kìm của 2 tiểu đoàn TQLC (1&2) và ngã ba sông nên nửa đêm chúng liều chết tìm cách thoát thân, chui đầu vào tuyến TĐ2! Hẳn không cần diễn tả thì đọc giả cũng biết chuyện gì xẩy ra khi quân ta bắn “bia di động”. Riêng trung đội 3, tôi cho đặt máy chụp hình claymore trước tuyến nên khó có tên VC nào thoát. Sáng sớm hôm sau, trong khi tôi đang cho trung đội thu lượm vũ khí và đếm xác địch thì “xếp” Phúc đến, tay cầm ca nhôm café, vỗ vai tôi:

_ “Làm một hớp cho ấm bụng, chú mày làm ăn được”.

_ “Cám ơn trung úy, tôi là đồ bỏ nhưng nhờ lính của “xếp” đánh giặc giỏi”.

Thực ra thì tôi biết ông ta đến nhưng lờ đi như không hay, khi phải chào thì theo đúng cấp bậc chứ không có “niên trưởng” gì cả. Với tôi, hai chữ “niên trưởng” có cái gì ấm cúng thân tình, còn “xếp” chỉ là tiếng gọi xách mé, thiếu tôn trọng. “Xếp” cũng biết điều đó nên mỉm cười, điệu cười trịch thượng dễ ghét, im lặng móc thuốc hút và “mời” một tôi điếu, dặn dò vài câu huề vốn rồi đi đến chỗ trung đội của Chính..

Sau một đêm vất vả với súng đạn nhưng được bình an, sáng sớm trời lạnh mà được rít một hơi thuốc, ngửa mặt lên trời nhả khói là niềm hạnh phúc nhất của lính đánh giặc. Điếu thuốc đầu ngày làm tôi sảng khoái, nhất là điếu thuốc từ tay “xếp”, một người mà tôi ghét cay ghét đắng từ khi về trình diện.

Hình như tôi say, nhìn qua khói thuốc, tôi thấy dáng Anh đi đầy vẻ tự tin, thái độ “kẻ cả”, tôi chợt nhận ra cử chỉ của mình vừa rồi đầy mặc cảm tự ti! Còn Anh, tuy kích thước thấp hơn tôi nhưng anh lại cao hơn tôi một “cái đầu”. Tay mân mê điếu thuốc hút dở dang, điếu thuốc in dấu tay của Trung úy Nguyễn Xuân Phúc, có lẽ điếu thuốc đó đã làm thay đổi thái độ bất cần của tôi, 42 năm sau (66-08), tôi còn nhớ đó là điếu Ruby Queen đựng trong bao màu tím nhạt.

Phong cách “người lớn”, rộng lượng của cấp chỉ huy hay hành động “tiểu nhân” ích kỷ của kẻ lớn lon có thể làm thay đổi hẳn thái độ của thuộc cấp theo hướng kính trọng hoặc khinh bỉ, tôi đã gặp cả hai trường hợp như thế. Chỉ một điếu thuốc giữa không khí đặïc quánh vì khói súng mà tôi bỏ “xếp Phúc”, thay bằng một tiếng ANH.

Trong những cuộc hành quân kế tiếp, từ Huế ra Quảng Trị, Đại Đội Trưởng Nguyễn Xuân Phúc đã giao nhiệm vụ đi đầu cho Trung Đội Trưởng Tô Văn Cấp, Anh ân cần chỉ tôi những điều cần thiết, nhưng không ngờ đó là lần sau cùng Anh là đại đội trưởng trực tiếp của tôi.

TĐ2/TQLC bị phục kích tại QL1 (Phong Điền), trong trận này ĐĐT Phúc bị bắn từ ngực xuyên ra sau lưng, ĐĐP Hợp bị bắn vào bắp vế chân, tôi bị bắn vào khuỷu tay, chỉ còn Nguyễn Quốc Chính (K20/VB) là an toàn. Anh Phúc phải tải thương, chúng tôi ở lại tiếp tục công việc ngoài chiến trường, nhờ “máu tốt” nên vết thương mau lành. Tàn cuộc chiến, Hợp và tôi vào bệnh viện Nguyễn Tri Phương (Huế) thăm anh, vết đạn trổ ra sau lưng nhỏ hơn cái miệng tách café.

Phim chụp cho thấy viên đạn vào rồi ra rất điệu nghệ, không va chạm vào bất cứ bộ phận nào và bác sĩ xác nhận Anh không hề hấn gì. Kỳ lạ thay! Anh nằm sấp, tôi thấy rõ miếng băng trên vết thương lưng chỉ bằng 1/2 bàn tay, Anh ngóc đầu nhìn chúng tôi mỉm cười rồi nói .. phét: “C.., tụi VC bắn dở như c..”.

Tiểu Đoàn Trưởng Lê Hằng Minh tử trận, tân TĐT/TĐ2/TQLC là Đồ Sơn Ngô Văn Định, Anh Phúc lên làm tiểu đoàn phó, Trần Văn Hợp thay Anh làm ĐĐT/ĐĐ4 và dĩ nhiên tôi được “hưởng xái” cái chức đại đội phó của Hợp.

Kể từ đó (../1966) 4 anh em gồm Phúc, Hợp, Chính và tôi như cùng một nhà, chung điếu thuốc, ly bia, hành quân tiền tuyến khồ cùng chia, “hành quân hậu phương” sướng cùng hưởng. Bây giờ (2008) họ ở đâu ta?!

Sau một thời gian ngắn làm TĐP/TĐ2, anh được điều đi làm tiểu đoàn trưởng tiều đoàn khác, trước khi đi, anh xiết mạnh tay tôi và khẽ nói:

_ “Chú mày đã phạm một lỗi lầm rất đáng tiếc (đánh lộn) dễ gây ngộ nhận và ác cảm lúc ban đầu, đường binh nghiệp sẽ vất vả, phải thật cẩn thận”.

À thì ra thế, lúc đó tôi mới ngộ ra rằng thuở ban đầu Anh đã thử thách tôi. Điều đó dễ hiểu, cấp chỉ huy nào cũng bực khi phải nhận về một quân nhân “ba gai”, cái khó là làm sao trị được những “con ngựa chứng”. Tôi nói với anh:

_ “Bản tính tôi đâu phải thế, tôi rất hiền và luôn luôn biết kính trên nhường dưới mà. Nhưng không nhịn khi người lớn có hành động trẻ con, Anh yên tâm”.

Khoảng tháng 4/1969, Đồ Sơn Ngô Văn Định bị trọng thương, TĐP là Thiếu Tá Nguyễn Kim Đễ xử lý, sau thời gian ngắn thì Anh Phúc quay trở lại làm TĐT/TĐ2 với dàn đại đội trưởng gồm Đ/úy Trần Kim Đệ ĐĐCH, Đ/úy Trần Văn Hợp ĐĐ2, Đ/úy Vũ Đoàn Doan ĐĐ4 và Đ/úy Tô Văn Cấp ĐĐ1, Đ/úy Trần Văn Thương ĐĐ3 (tháng 6/1969 Thương về BTL/SĐ thì tôi thay Thương và Tr/úy Lâm Tài Thạnh lên ĐĐ1).

Đối với tôi, đây là thời gian TĐ2 tương đối vui và ổn định, “hành quân” ở hậu phương thì “ồn ào”, đụng trận ngoài tiền tuyến thì không khí nhẹ nhàng. Tôi nhớ mãi lần đụng nặng ở chiến khu Đ, 3 đại đội trưởng chúng tôi Hợp-Doan-Cấp liên lạc hàng ngang và “ra lệnh” cho nhau luân phiên công thủ còn ông TĐT thì yên lặng theo dõi.

Ngày 19/6/1969 TĐ2 đi hành quân ở Chương Thiện, vì TĐ Phó là anh Nguyễn Kim Đễ đi phép để chuẩn bị nhận tiểu đoàn mới nên anh Phúc giao cánh B cho tôi chịu trách nhiệm cùng ĐĐ3 và ĐĐ4 của Doan, còn cánh A của anh thì có ĐĐ1 của Thạnh và ĐĐ2 của Hợp. Tôi đã bị loại khỏi vòng chiến trong trận này! Phụ tá ban 3 Nguyễn Kim Thân nói khi báo tôi bị trọng thương thì anh Phúc dậm chân:

_ “C .., mưu sự tại nhân, thành sự tại VC”.

Tôi hiểu ý nghĩa câu chửi thề của Anh, nhưng không hiểu tại sao tôi lại đen đến thế, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng!. Vạn sự (rắc rối) khởi đầu (gian) nan chăng? Sau khi tôi bị thương thì TĐ2 tiếp tục hành quân sang Cao Miên. Như vậy là tôi lại mất một dịp “xuất ngoại” nữa, mất luôn dịp đi Hạ Lào! Đời lính của tôi không bao giờ được xuất ngoại, dù là Mỹ, Nhật, Đài Loan, Đại Hàn, Mã Lai, Miên, Lào v.v.. dù là du học, du hành, du hí hay quan sát và cả hành quân nữa. Người đen thì cái số (?) cũng đen theo!

Tuy không còn chiến đấu bên Anh ngoài chiến trường nhưng mỗi khi có dịp gặp nhau, kể cả khi anh làm lữ đoàn trưởng là anh kéo tôi đi theo để “phá mồi” hoặc đấu võ “mồm”. Lần đầu trình diện Trung úy Phúc tại ĐN thì lần sau cùng cũng lại gặp Trung Tá Phúc vào một buổi sáng không vui trên bãi biển Non Nước, ĐN.

GẶP ANH LẦN CUỐI!

Tôi đang phòng thủ căn cứ Sóng Thần (Thủ Đức) thì 19/3/75 được lệnh ra hành quân gấp, trình diện TTHQ/SĐ ngày 21/9 tại Non Nước, được TMT ưu ái tặng cho một ly cối café đen .. không đường và cho lệnh “phòng thủ căn.cứ NN” (!)

Sáng 29/3/1975, khoảng 6.30 giờ, anh Nguyễn Xuân Phúc LĐT/LĐ369, anh Đỗ Hữu Tùng LĐP, Trần Văn Hợp TĐT/TĐ2 cùng tôi đứng nói chuyện bên ngoài TTHQ, hai anh đang điều động TĐ9 của Th/Tá Lâm Tài Thạnh từ xa rút về. Khi 2 chiếc tàu HQ vào đón thì tôi chào từ giã 2 anh và Hợp rồi theo chân Đại Tá Nguyễn Thành Trí, TLP/SĐTQLC, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, TL/QĐ1 để bơi ra tàu.

Khi TQLC đổ quân lên Cam Ranh, tôi gặp Trần Văn Hợp và hỏi thăm về 2 anh Phúc Tùng thì được biết các anh “đi sau”! Về đến Vũng Tàu vẫn không thấy! Có nhiều tin đồn về các anh, một nhân viên truyền tin khoe đã dò được tần số của LĐ369 và khẳng định 2 anh đang “cố thủ” trên Núi Khỉ ở bán đảo Sơn Chà, ĐN (?).

Mới đây, 10/08, trong buổi café-đàm về bài viết “Biển Thuận An, Pháp Trường Cát” của Phạm Vũ Bằng và những ngày cuối tại Đà Nẵng, cựu Th/tá Quách Ngọc Lâm, trưởng ban 4/LĐ258/TQLC nói rằng khoảng 8 giờ sáng 29/3/75, Lâm và một số anh em thuộc BCH/LĐ258 ngồi chờ lệnh ngay tại bờ biển, gần chiếc tàu mà Tư Lệnh Phó và Tướng Trưởng vừa lên thì hai anh Phúc-Tùng đi ngang và hỏi Lâm:

_ “Đã tới phiên chưa? Sao không lên đi mà còn ngồi đó làm gì?”

Th/tá Quách Ngọc Lâm trả lời:

_ “ Chúng tôi đang chờ lệnh, còn đại bàng thì sao?”

_ “Tụi tao chờ thằng 9”

Nói rồi hai anh đi ra chỗ khác và một lúc sau thì toán của Quách Ngọc Lâm vội vã tìm cách lên tàu khi VC bắt đầu pháo kích vào khu vực này.

Lúc đó anh Phạm Văn Sắt, Phan Công Tôn và tôi đã lên tàu rồi, chúng tôi quăng dây cho những người đang bơi nắm để kéo họ lên tàu, trong đó có Đ/úy Nguyễn Văn Hưởng K17/VK, nhưng Hưởng tuột tay, rớt trở lại biển và mất hút vào đáy tàu! VC pháo kích, pháo rơi trên cát, trên mặt nước, tàu phải rút ra và chuyện gì đã xẩy ra trên bờ, trên biển! Có bao nhiêu Mũ Xanh ở lại với cát với đại dương?! Không ai biết.

“Thằng 9” mà 2 anh Phúc-Tùng chờ là TĐ9/TQLC thuộc Lữ Đoàn 369 đang ở xa và các anh đang điều động họ rút về căn cứ Non Nước. Trong bài viết về cuộc rút quân này, trưởng ban 3 TĐ9 là Tân-An Đoàn Văn Tịnh (K22/VB) đã ghi lại phần đối thoại giữa anh và anh Tùng. Âm thanh bên kia vọng vào máy khiến Tân-An hỏi đó là tiếng trực thăng hay tiếng sóng vỗ? Anh Tùng cho biết đang ngồi chờ trên bãi biển. Ngay lúc đó thì Tịnh nghe tiếng nổ thật lớn dội vào tai làm đứt liên lạc ngay với 2 anh Phúc-Tùng từ đó!

Những nhân chứng sống còn đây (USA) đã mắt thấy tai nghe những gì diễn ra trên bãi biển Non Nước sáng ngày 29/3/1975 nên có thể khẳng định rằng: “Nếu muốn, hai anh Phúc và Tùng đã có mặt trên tàu HQ rồi”. Nhưng 2 anh chờ 1 trong 3 đứa con (TĐ) còn đang di chuyển về và chuyện gì xẩy ra sau đó với 2 anh thì không ai biết.

Làm sao kể cho hết những chiến công anh Phúc đem về cho binh chủng, riêng TĐ2/TQLC được mang dây biểu chương màu Tam Hợp chính là do công của anh Phúc, sau trận Preyveng (Cam-Bốt), (anh mang về choTĐ2 Dương Liễu thứ 8, phải có 8 DL mới đủ điều kiện được dây biểu chương màu Tam Hợp, cái thứ 5,6,7 là do Đồ Sơn).

Hạm trưởng HQ Th.. chìm theo chiến hạm tại quần đảo Hoàng Sa, Trung Đoàn Trưởng BB Th.. đưa quân sang sông rồi quay trở lại với núi rừng nơi còn những thương binh đàn em khác. Lữ Đoàn Trưởng TQLC Phúc và LĐP Tùng không lên tàu mà ngồi chờ thuộc cấp bên bờ biển. Các anh là những con cháu Hoàng Diệu, là huynh đệ của “Ngũ Hổ Tướng Quân”, là những Anh Hùng vô danh của QLVNCH.

Anh Phúc không cho tôi huy chương và cấp bậc, tiền bạc thì lại càng không vì anh quá nghèo, tôi ghét cay ghét đắng, có thể nói là hận anh ngay từ khi mới trình diện. Nhưng “ở lâu mới biết lòng người có nhân”, phong cách chỉ huy và tài lãnh đạo, cung cách “sống đẹp” với người xung quanh đã khiến tôi kính và phục, nếu không muốn nói Anh là “thần tượng” của tôi.

Không chỉ riêng tôi, mà khi tiếp xúc với những người biết Anh, những ai từng làm việc với Anh thì hầu như tất cả đều dành cho anh cảm tình yêu mến, một sự “NGƯỠNG MỘ”. Nửa đường gẫy gánh, binh nghiệp Anh chưa thành công, nhưng anh đã thành danh, ở một nơi nào đó anh đang cười vui, đánh nhịp hát “Trấn Thủ Lưu Đồn”.

* * *

Trâu Điên TRẦN VĂN HỢP

Cùng được chọn về TQLC nhưng khác tiểu đoàn nên chúng tôi chỉ thỉnh thoảng gặp nhau. Ngày bị thuyên chuyển về TĐ2, thấy Hợp mang xe đến đón thì tôi mừng thầm, ít ra cũng có một người bạn cùng khóa ở đơn vị mới thì cũng đỡ bơ vơ. Nghĩ vậy nên tôi đến chào Trung Úy Hợp đúng theo quân kỷ, hắn đưa tay cho tôi bắt, nói cho chính xác là “nó” hững hờ đưa tay ra cho tôi cầm rồi chỉ tôi leo lên phía sau xe GMC trong khi “nó” ung dung lên “cabin” ngồi một mình!

Đắm tàu tưởng gặp phao hóa ra đụng bọt biển! Đó là lý do tôi không thèm trình diện Hợp theo lệnh của xếp Phúc. Có một cái gì đó gần giống nhau của 2 sĩ quan ĐĐ4/TĐ2 này đối xử lạnh nhạt với tôi. Không hiểu sao lúc đó tôi lại không đi uống rượu, chửi thề, xuống xóm giải sầu hoặc “chịu chơi” zoọc về Saigon chơi chịu cho bõ ghét. Sau vài lần thử lửa, nhất là sau trận Bích La thôn, cả hai đã cho tôi một nụ cười.

Khi Hợp lên làm đại đội trưởng ĐĐ4 thay anh Phúc thì tôi cũng được hưởng ké, làm đại đội phó cho Hợp, cùng nhau vui chơi và làm việc cho đơn vị mà không phân biệt trưởng phó, chính vì sự “lạm quyền” đó mà đã có lần Hợp chửi tôi “ngu”.

Bồng Sơn, Tam Quan (Bình Định) vào thời điểm 1967 du kích rất nhiều và ẩn hiện như ma, ngày thì lặn, đêm đêm chui ra vác loa kêu gọi “ Lính Thủy Đánh Bộ” đầu hàng! Nghe mãi nhức đầu sôi máu nên một đêm tôi lựa mấy tay “đen-đen” như tôi để đi bịt mõm mấy toán du kích này.

Rình mãi mới túm được 1 tổ tam-tam với 1 AK, 1 mã tấu và một chị thổi ..loa, hí hửng mang loa về khoe, xếp Hợp khen toán phục kích giỏi rồi ghé tai tôi nói nhỏ:

_ “Mày ngu bỏ mẹ, du kích vùng này đông như cỏ dại, nhiệm vụ này đâu phải của mày, lỡ xảy ra chuyện gì thì liệu có đáng không?”

Lần đầu gặp nhau tại Đà Nẵng, nó đưa tay cho tôi cầm khiến tôi ghét nó bao nhiêu thì lần tại Bồng Sơn nó chửi tôi “ngu” thì tôi lại phục nó bấy nhiêu. Tôi hiểu tấm lòng của cấp chỉ huy xen lẫn tình bạn bè trong lời sỉ vả: “mày ngu”.

Một thời gian ngắn sau đó thì tôi lên coi ĐĐ1 thay anh Nguyễn Kim Đễ khi anh lên TĐP/TĐ2. Tuy không còn chung đại đội, nhưng dù hành quân hay về hậu cứ thì 3 tên độc thân Hợp, Chính và tôi đều buồn vui có nhau như anh em một nhà. Rồi Chính tử trận bên kinh Cái Thia (31/12/1967) tôi bị thương ở Chương Thiện, Hợp tiếp tục cầm súng và sau Hạ Lào 719 thì thay thế anh Phúc để trở thành TĐT/TĐ2 Trâu Điên.

Không thể kể hết những trận đánh và chiến công của Hợp, vả lại nếu có thì đó là công trạng của cả một tiểu đoàn mà không của riêng ai. Vì thế trong bài “Vui Buồn” này, tôi sẽ ít đề cập tới “tiếng súng chiến trường” mà chỉ là tâm tình riêng.

Thời gian 1973, mỗi khi các tiểu đoàn trưởng về họp tại BTL/SĐ (Hương Điền) thì Hợp đều ghé Phòng Ba tìm tôi nhưng im lặng đưa tay cho tôi bắt, và tôi đã nắm trong đó được một ít tiền lẻ đủ vài chầu cơm hàng cháo chợ của quán mụ Luyến bên bờ Phá Tam Giang. Có lúc tôi giả bộ chê “sao mày rách thế?” Thì hắn chỉ mỉm cười.

Ít nói là bản tính của Hợp, kín tiếng ngậm miệng ngay cả khi “mở rộng bàn tay”, những đàn em như Lê Quang Liễn, Trần Quang Duật đều không hay biết gì về việc TĐT Hợp đã đề nghị thăng cấp thiếu tá cho họ. Liễn và Duật tâm sự:

_ “Tụi tôi không hay gì cả, chỉ khi anh ấy gọi lên BTL gắn lon mới biết”.

Sống chết với nhau nhưng chúng tôi không hề biết tôn giáo của nhau, chẳng chùa mà nhà Chúa cũng không, đời lính tráng chỉ biết theo đạo ào-ào, nhưng “cách cho” của Hợp có vẻ như làm theo lời khuyên của thánh kinh: “Khi tay phải làm việc thiện thì đừng cho tay trái biết”.

Sáng 29/3/75 Hợp và tôi gặp nhau tại bờ biển Non Nước, lênh đênh xuôi Nam, chia nhau gói mì tại vịnh Cam Ranh rồi về bãi biển Vũng Tàu những ngày giữa tháng 4/75, chỗ nào thì cũng chỉ nhìn nhau lắc đầu, mong sao không còn phải lui nữa

Những ngày cuối tháng 4/75, trong khi “hậu phương” SG tìm mọi phương tiện để ra biển thì tất cả quan lính TQLC lại từ biển lui về cố thủ tại căn cứ Sóng Thần (Thủ Đức) rồi theo lệnh tông-tông, cởi bỏ áo lính giầy sô để mặc áo tù đi chân đất! Cúi mặt!

Sáng 30/4/1975, sau khi Tổng Thống DVM ra lệnh đầu hàng, các Tiểu Đoàn Trưởng họp cùng Đại Tá TLP/SĐ tại BCH/CC Sóng Thần và nhận lệnh “giã từ vũ khí”! Trời bỗng đổ một cơn mưa rào, Hợp và tôi dựa lưng nhau chùi nước mắt, vất xe jeep, lội bộ từ Thủ Đức về Thị Nghè vì gia đình chúng tôi cùng ở trong trại gia binh Cửu Long. Khi đi ngang ngã ba Giồng Ông Tố, thấy 2 bên súng nổ, mấy tên BK vác AK chạy tới chạy lui trên xa lộ miệng chửi tục:

_ “Đi.. m.. tụi Trâu Điên còn ngoan cố chống cự”.

Đang khóc trong lòng mà tôi cũng phải mím môi cười thầm bên tai Hợp:

_ “ Bạn thua đàn em rồi”.!

Sau vài tuần ngơ ngáo, 14/6/75 chúng tôi cùng “rủ nhau” vào tù, gặp đủ mặt “anh hào” cùng chung một trại Long Giao gồm Trần Kim Hoàng, Đinh Xuân Lãm, Phan Công Tôn, Huỳnh Văn Phú, Quách Ngọc Lâm, Trần Văn Hợp, Trần Quang Duật, Doãn Thiện Niệm, xa xa là Lâm Tài Thạnh, Trần Xuân Bàng, Trần Kim Đệ, Lê Văn Huyền, Huỳnh Văn Lượm, Trần Ngọc Toàn, Nguyễn Đằng Tống, Nguyễn Văn Nhiều, Nguyễn Đức Ân, Đoàn Trọng Cảo...Thêm các đại bàng gẫy cánh Nguyễn Thành Trí, Tôn Thất Soạn, Nguyễn Năng Bảo v.v. Không sót một ai, cùng chia nhau trái đắng.

Trong buổi “lên lớp” đầu tiên tại trại tù Long Giao về đề tài “Ngụy Quân, Ngụy Quyền”, “giáo viên” giảng dạy đã dõng dạc và dứt khoát tuyên bố:

_ “Những cái gọi là Cọp Đầu Rằn, Trâu Điên sẽ bị trừng trị đích đáng”!

Tôi lại có dịp thúc cùi chỏ vào ba sườn Trâu Điên Hợp nói nhỏ:

_ “Nếu Trâu có muốn .. thì ỉa đùn chứ đừng té đái”.

Mặt Trâu vẫn tỉnh bơ, quả thật điếc không sợ súng, “mặt dầy” như da Trâu.

Rồi kẻ trước người sau lưu đày đất Bắc, tôi và Hợp bắt tay từ giã tại trại tù Suối Máu năm 1976 mà không biết đó là lần chia tay sau cùng! Năm 1977 từ trại 8 Hoàng Liên Sơn vác vầu (một loại tre lớn) đem nạp cho “Đoàn” tại xã Cẩm Nhân, khi đi ngang một đám tù trại khác ngồi bên vệ đường, tôi thoáng nghe tiếng ai nói nhỏ:

_ “Anh Hợp chết rồi”!

Liếc qua, nhận ngay ra Trâu Điên Trần Quang Duật, thân tiều tụy nhưng đôi mắt sáng nhấp nháy ra hiệu cho tôi. Cơn lạnh từ đầu xuống chân dọc theo xương sống khiến tôi rùng mình, mắt mờ đi, khựng lại toan hỏi thêm Duật đôi điều về hung tin thì tai loáng thoáng nghe tiếng quát của “tử thần”:

_ “Anh kia, ai cho phép anh quan hệ ninh tinh?”!

Thế đấy, đi “học tập” để trở thành con người mới của XHCN thì điều kiện tiên quyết phải tuân theo là gặp nhau, dù thân thiết, không được phép chào hỏi!

Từ lời cai tù hù dọa “Trâu Điên phải bị trừng trị đích đáng” tới việc Trâu Điên Trần Văn Hợp tử nạn là do “lòng khoan hồng nhân đạo” hay vô tình trùng hợp? Trâu Điên tung hoành trên khắp chiến trường rồi chìm mình trong vũng chân trâu!

Đời binh nghiệp của Hợp gắn liền với Tiểu Đoàn Trâu Điên, từ ngày đầu tiên là trung đội trưởng của Đại Đội Trưởng Phúc cho tới khi Hợp là tiểu đoàn trưởng, và những ngày cuối cùng cũng vẫn thuộc quyền LĐT Nguyễn Xuân Phúc nên những đức tính cần có và đủ của một cấp chỉ huy tác chiến lý tưởng thì Trần Văn Hợp là “bản sao” của anh Nguyễn Xuân Phúc. “Cấp chỉ huy giỏi thì không có thuộc cấp tồi”.

Trong số các Mũ Xanh K16/VB thì tôi được làm việc trực tiếp dưới quyền 5 ông: Đễ, Phúc, Toàn, Sắt và Hiển nên thấy các ông quả là “kẻ tám lạng, người nửa cân, mười phân vẹn mười”. Nhưng với tôi, anh Phúc vẫn là “1 cái đinh”, thực tế đã chứng minh, anh là một trong những tiểu đoàn trưởng và lữ đoàn trưởng đầu tiên của K16/TQLC. Hợp là “đệ tử” của anh Phúc nên cũng có được những “may mắn” đó.

Trần Văn Hợp và Trần Văn Thuật thuộc TĐ2 được đặc cách lên trung úy sớm nhất của K19/TQLC (chỉ sau cố Trung Úy Kháng và Hùng TĐ4, trận Bình giả 1/1965) và Hợp cũng là TĐT/TQLC đầu tiên và duy nhất trong số hơn 30 K19/TQLC. Còn Đinh Long Thành thì mới bị làm TĐT vào giờ thứ 25 tại mặt trận Huế QT 3/75!

Trần Văn Hợp là Tiểu Đoàn Trưởng Trâu Điên cuối cùng và không còn nữa nhưng vẫn còn mãi mãi sự mến mộ của bạn bè và lòng kính trọng của thuộc cấp, tôi là một trong số thuộc cấp của ANH.

Một thượng cấp trong Binh Chủng đã nói về Trần Văn Hợp như thế này:

_ “Có thể ghét, nhưng không ai có thể khinh thường Hợp được”

Dù đã về Thiên Quốc như Lê Hằng Minh, Nguyễn Xuân Phúc, Trần Văn Hợp hay còn nặng nợ trần gian như Ngô Văn Định, tôi xin nghiêng mình kính phục các TRÂU ĐIÊN TRƯỞNG, những cấp chỉ huy lý tưởng của Binh Chủng TQLC, những người con yêu quý của QLVNCH./-

Mọi tin tức, bài vở muốn đăng trên website TQLC/VN xin email: bixitrum@yahoo.com

Từ khóa » Dây Biểu Chương Qlvnch