VÙNG ĐẤT CON NGƯỜI VÀ TRUYỀN THỐNG - Tuổi Trẻ Bình Dương
Có thể bạn quan tâm
Là một tỉnh thuộc miền Đông Nam bộ, tỉnh Bình Dương có diện tích tự nhiên: 2.683,47 km2. Phía Bắc Bình Dương giáp tỉnh Bình Phước, phía đông giáp tỉnh Đồng Nai, phía Tây giáp thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Tây Ninh, phía Nam giáp thành phố Hồ Chí Minh. Khi mới thành lập, tỉnh Bình Dương có 3 huyện: Tân Uyên, Bến Cát, Thuận An và Thị xã Thủ Dầu Một, với 77 xã, phường, thị trấn. Cuối tháng 8-1999, thực hiện quyết định của Thủ tướng Chính phủ, tỉnh thành lập thêm 3 huyện Dĩ An, Dầu Tiếng, Phú Giáo và lập thêm xã Định Thành thuộc huyện Dầu Tiếng, xã Bình An thuộc huyện Dĩ An. Như vậy, hiện nay toàn tỉnh có 1 thị xã, 6 huyện, với 66 xã, 5 phường, 8 thị trấn. Trung tâm của tỉnh Bình Dương đặt tại Thị xã Thủ Dầu Một, cách thành phố Hồ Chí Minh 30km đường bộ về hướng Nam. Dân số toàn tỉnh: 810,2 ngàn người (1). Ngoài người Kinh, Bình Dương có khoảng 2000 người dân tộc ít người và gần 20.000 người Việt gốc Hoa.
Bình Dương là một tỉnh nằm ở vị trí chuyển tiếp giữa sườn phía nam của dãy Trường Sơn, nối nam Trường Sơn với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long; là tỉnh bình nguyên có địa hình lượn sóng yếu từ cao xuống thấp dần từ 10m đến 15m so với mặt biển. Vị trí trung tâm của tỉnh ở vào tọa độ địa dư từ 10o-50’-27’’ đến 11o-24’-32’’ vĩ độ bắc và từ 106o-20’ đến 106o25’ kinh độ đông.
Vùng đất Bình Dương tương đối bằng phẳng, thấp dần từ bắc xuống nam. Nhìn tổng quát, Bình Dương có nhiều vùng địa hình khác nhau: vùng địa hình núi thấp có lượn sóng yếu, vùng có địa hình bằng phẳng, vùng thung lũng bãi bồi ... Có một số núi thấp, như núi Châu Thới (huyện Dĩ An), núi Cậu (còn gọi là núi Lấp Vò) ở huyện Dầu Tiếng… và một số đồi thấp.
Các quy luật tự nhiên tác động lên vùng đất này tạo nên nhiều dạng địa mạo khác nhau: có vùng bị bào mòn, có vùng tích tụ (do có sự lắng đọng của các vật liệu xâm thực theo dòng chảy), có vùng vừa bị bào mòn, vừa tích tụ và lắng đọng. Nguyên nhân chủ yếu là do nước mưa và dòng chảy tác động trên mặt đất, cộng với sự tác động của sức gió, nhiệt độ, khí hậu, sự sạt lở và sụp trượt vì trọng lực của nền địa chất. Các sự tác động này diễn ra lâu dài hàng triệu năm.
Đất đai Bình Dương rất đa dạng và phong phú về chủng loại: đất xám trên phù sa cổ, có diện tích 200.000 ha phân bố trên các huyện Dầu Tiếng, Bến Cát, Thuận An, thị xã Thủ Dầu Một. Loại đất này phù hợp với nhiều loại cây trồng, nhất là cây công nghiệp, cây ăn trái; đất nâu vàng trên phù sa cổ, có khoảng 35.206 ha nằm trên các vùng đồi thấp thoải xuống, thuộc các huyện Tân Uyên, Phú Giáo, khu vực thị xã Thủ Dầu Một, Thuận An và một ít chạy dọc quốc lộ 13. Đất này có thể trồng rau màu, các loại cây ăn trái chịu được hạn như mít, điều; đất phù sa Glây (đất dốc tụ), chủ yếu là đất dốc tụ trên phù sa cổ, nằm ở phía bắc huyện Tân Uyên, Phú Giáo, Bến Cát, Dầu Tiếng, Thuận An, Dĩ An; đất thấp mùn Glây có khoảng 7.900 ha nằm rải rác tại những vùng trũng ven sông rạch, suối. Đất này có chua phèn, tính axít vì chất sunphát sắt và alumin của chúng. Loại đất này sau khi được cải tạo có thể trồng lúa, rau và cây ăn trái, v.v...
Khí hậu ở Bình Dương cũng như chế độ khí hậu của khu vực miền Đông Nam Bộ: nắng nóng và mưa nhiều, độ ẩm khá cao. Đó là khí hậu nhiệt đới gió mùa ổn định, trong năm phân chia thành hai mùa rõ rệt: mùa khô và mùa mưa. Mùa mưa thường bắt đầu từ tháng 5 kéo dài đến cuối tháng 10 dương lịch. Vào những tháng đầu mùa mưa, thường xuất hiện những cơn mưa rào lớn, rồi sau đó dứt hẳn. Những tháng 7,8,9, thường là những tháng mưa dầm. Có những trận mưa dầm kéo dài 1-2 ngày đêm liên tục. Đặc biệt ở Bình Dương hầu như không có bão, mà chỉ bị ảnh hương những cơn bão gần. Nhiệt độ trung bình hàng năm ở Bình Dương từ 26oC-27oC. Nhiệt độ cao nhất có lúc lên tới 39,3oC và thấp nhất từ 16oC-17oC (ban đêm) và 18oC vào sáng sớm. Vào mùa nắng, độ ẩm trung bình hàng năm từ 76%-80%, cao nhất là 86% (vào tháng 9) và thấp nhất là 66% (vào tháng 2). Lượng nước mưa trung bình hàng năm từ 1.800-2.000mm. Tại ngã tư Sở Sao của Bình Dương đo được bình quân trong năm lên đến 2.113,3mm.
Chế độ thủy văn của các con sông chảy qua tỉnh và trong tỉnh Bình Dương thay đổi theo mùa: mùa mưa nước lớn từ tháng 5 đến tháng 11 (dương lịch) và mùa khô (mùa kiệt) từ tháng 11 đến tháng 5 năm sau, tương ứng với 2 mùa mưa nắng. Bình Dương có 3 con sông lớn, nhiều rạch ở các địa bàn ven sông và nhiều suối nhỏ khác.
Sông Đồng Nai là con sông lớn nhất ở miền Đông Nam Bộ, bắt nguồn từ cao nguyên Lâm Viên (Lâm Đồng) dài 635 km nhưng chỉ chảy qua địa phận Bình Dương ở Tân Uyên. Sông Đồng Nai có giá trị lớn về cung cấp nước tưới cho nền nông nghiệp, giao thông vận tải đường thủy và cung cấp thủy sản cho nhân dân.
Sông Sài Gòn dài 256 km, bắt nguồn từ vùng đồi cao huyện Lộc Ninh (tỉnh Bình Phước). Sông Sài Gòn có nhiều chi lưu, phụ lưu, rạch, ngòi và suối. Sông Sài Gòn chảy qua Bình Dương về phía Tây, đoạn từ Lái Thiêu lên tới Dầu Tiếng dài 143 km, độ dốc nhỏ nên thuận lợi về giao thông vận tải, về sản xuất nông nghiệp, cung cấp thủy sản. Ở thượng lưu, sông hẹp (20m) uốn khúc quanh co, từ Dầu Tiếng được mở rộng dần đến thị xã Thủ Dầu Một (200m). Sông Thị Tính là phụ lưu của sông Sài Gòn bắt nguồn tự đồi Cam xe huyện Bình Long (tỉnh Bình Phước) chảy qua Bến Cát, rồi lại đổ vào sông Sài Gòn ở đập Ông Cộ. Sông Sài Gòn, sông Thị Tính mang phù sa bồi đắp cho những cánh đồng ở Bến Cát, thị xã, Thuận An, cùng với những cánh đồng dọc sông Đồng Nai, tạo nên vùng lúa năng suất cao và những vườn cây ăn trái xanh tốt. Sông Sài Gòn có giá trị về kinh tế và về mặt quân sự. Trong hai cuộc kháng chiến ngoại xâm, sông Sài Gòn nổi tiếng về những chiến công của quân và dân ta đánh chìm nhiều tàu chiến của quân Pháp và quân Mỹ xâm lược.
Sông Bé dài 360 km, bắt nguồn từ các sông Đắc Rơ Láp, Đắc Giun, Đắc Huýt thuộc vùng núi tỉnh Đắc Lắc hợp thành từ độ cao 1000 mét. Ở phần hạ lưu, đoạn chảy vào đất Bình Dương dài 80 km. Sông Bé không thuận tiện cho việc giao thông đường thủy do có bờ dốc đứng, lòng sông nhiều đoạn có đá ngầm, lại có nhiều thác ghềnh, tàu thuyền không thể đi lại. Về mặt quân sự, Sông Bé vừa có mặt thuận lợi vừa có mặt khó khăn. Mùa khô, bộ đội hành quân cơ động qua sông tương đối thuận lợi, nhưng mùa mưa rất khó vượt sông, nhất là bộ đội chủ lực có mang vũ khí nặng. Tuy vậy, trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, dòng Sông Bé đã trở thành chiến hào thiên nhiên góp phần ngăn chặn bớt đi mức độ càn quét, đánh phá của kẻ thù vào các căn cứ địa của ta.
Bình Dương là một tỉnh có hệ thống giao thông đường bộ và đường thủy rất quan trọng nối liền giữa các vùng trong và ngoài tỉnh. Trong hệ thống đường bộ, nổi lên đường quốc lộ 13 – con đường chiến lược cực kỳ quan trọng xuất phát từ thành phố Hồ Chí Minh, chạy suốt chiều dài của tỉnh từ phía nam lên phía bắc, qua tỉnh Bình Phước và nối Vương quốc Campuchia đến biên giới Thái Lan. Đây là con đường có ý nghĩa chiến lược cả về quân sự và kinh tế. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Mỹ-ngụy làm lại, mở rộng con đường này để phục vụ cho việc hành quân cơ động, sử dụng lực lượng, binh khí kỹ thuật hòng đàn áp phong trào cách mạng. Chúng đã dồn sức nhằm bảo vệ bằng được con đường này. Nhưng với cuộc chiến tranh thần kỳ của quân dân ta, đường 13 trở thành con đường đầy máu và nước mắt đối với quân Mỹ-ngụy.
Đường quốc lộ 14, từ Tây Ninh qua Dầu Tiếng đi Chơn Thành, Đồng Xoài, Bù Đăng (tỉnh Bình Phước) xuyên suốt vùng Tây Nguyên bao la, là con đường chiến lược quan trọng cả trong chiến tranh cũng như trong thời kỳ hòa bình xây dựng đất nước. Ngoài ra còn có liên tỉnh lộ 1A từ Thủ Dầu Một đi Phước Long (Bình Phước); Liên tỉnh lộ 13 từ Chơn Thành đi Đồng Phú, Dầu Tiếng; liên tỉnh lộ 16 từ Tân Uyên đi Phước Vĩnh; lộ 14 từ Bến Cát đi Dầu Tiếng ... và hệ thống đường nối thị xã với các thị trấn và điểm dân cư trong tỉnh.
Trong thời kỳ xâm lược nước ta, thực dân Pháp xây dựng tuyến đường sắt Sài Gòn – Lộc Ninh dài 141 km phục vụ cho công cuộc khai thác, vơ vét tài nguyên rừng và cao su. Con đường này đã bị ta phá trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
Về hệ thống giao thông đường thủy, Bình Dương nằm giữa 3 con sông lớn, nhất là sông Sài Gòn. Bình Dương có thể nối với các cảng lớn ở phía nam và giao lưu hàng hóa với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.
Do đặc điểm khí hậu nhiệt đới ẩm và đất đai màu mỡ, nên rừng ở Bình Dương xưa rất đa dạng và phong phú về nhiều chủng loài. Có những khu rừng liền khoảnh, bạt ngàn. Rừng trong tỉnh có nhiều loại gỗ quý như: căm xe, sao, trắc, gõ đỏ, cẩm lai, giáng hương ... Rừng Bình Dương còn cung cấp nhiều loại dược liệu làm thuốc chữa bệnh, cây thực phẩm và nhiều loài động vật, trong đó có những loài động vật quý hiếm.
Trong hai cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược, rừng Bình Dương có giá trị đặc biệt về mặt quân sự. Rừng là nơi xây dựng những căn cứ địa cách mạng, những chiến khu nổi tiếng như: chiến khu Đ, chiến khu Long Nguyên, chiến khu Thuận An Hòa ... và nhiều căn cứ nổi tiếng khác gắn liền với những chiến công bảo vệ và giải phóng quê hương. Trong suốt chiều dài lịch sử của cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, rừng Bình Dương đã che chở, bảo vệ, nuôi dưỡng các lực lượng cách mạng. Các lực lượng vũ trang đã sống và chiến đấu trong rừng, lớn lên với rừng và từ bàn đạp đó tiến công đánh bại cả quân Pháp và Mỹ-ngụy. Rừng Bình Dương còn là nơi đặt các công binh xưởng sản xuất vũ khí của tỉnh và khu. Rừng còn là nơi lý tưởng phát triển chiến tranh du kích, đồng thời cũng là địa bàn hoạt động tác chiến thuận lợi của bộ đội chủ lực trên những vùng địa hình trung bình. Điều đó đã được chứng minh rất rõ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Bình Dương vừa là địa bàn có phong trào chiến tranh du kích phát triển cao vừa là chiến trường rất thuận lợi cho tác chiến tập trung quy mô của các binh đoàn chủ lực cơ động chiến lược tiêu diệt lớn quân địch. Rừng Bình Dương ngoài những loại dây, củ lấy bột như củ nần, cù mài, củ chụp, nhiều loại rau rừng như rau tàu bay, lá bươm, lá bép và nhiều loại trái cây như trái ươi, trái dâu là nguồn lương thực quan trọng đã từng góp phần nuôi sống lực lượng cách mạng trong những năm tháng gian khổ ác liệt nhất. Những vườn cây trái đặc sản ở vùng Lái Thiêu, Thuận An với những kênh rạch chằng chịt cũng là một loại rừng quan trọng trong tác chiến du kích và che giấu lực lượng cách mạng.
Hiện nay, rừng Bình Dương đã bị thu hẹp khá nhiều do bị bom đạn, chất độc hóa học của giặc Mỹ tàn phá trong chiến tranh. Trong những năm tháng chiến tranh diễn ra ác liệt, Mỹ-ngụy đã ủi phá rừng, bứng hết cây cối nhằm tạo thành những “vùng trắng”, đẩy lực lượng cách mạng ra xa căn cứ càng làm cho rừng thêm cạn kiệt. Mặt khác, sau ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng, việc khai thác rừng bừa bãi cũng làm cho rừng bị thu hẹp.
Cùng với những giá trị quý giá về tài nguyên rừng, Bình Dương còn là một vùng đất được thiên nhiên ưu đãi chứa đựng nhiều loại khoáng sản phong phú tiềm ẩn dưới lòng đất. Đó chính là cái nôi để các ngành nghề truyền thống ở Bình Dương sớm hình thành như gốm sứ, điêu khắc, mộc, sơn mài ... Bình Dương có nhiều đất cao lanh, đất sét trắng, đất sét màu, sạn trắng, đá xanh, đá ong nằm rải rác ở nhiều nơi, nhưng tập trung nhất là ở các huyện: Tân Uyên, Thuận An, Dĩ An, thị xã Thủ Dầu Một. Các nhà chuyên môn đã phát hiện ở vùng Đất Cuốc (huyện Tân Uyên) có một mỏ cao lanh lớn phân bố trên một phạm vi hơn 1km2, với trữ lượng lớn. Đất cao lanh ở đây được đánh giá là loại đất tốt, có thể sử dụng trong nghề gốm và làm các chất phụ gia cho việc sản xuất một số sản phẩm công nghiệp... (còn tiếp kỳ sau…)
Lịch sử Đảng bộ Tỉnh Bình Dương, Phần 1 (1930-1945)
Từ khóa » Các đồi Núi ở Bình Dương Có đặc điểm Gì
-
Giới Thiệu - Điều Kiện Tự Nhiên - UBND Tỉnh Bình Dương
-
Khí Hậu Bình Dương, Vị Trí địa Lý, điều Kiện Tự Nhiên Của Tỉnh Bình ...
-
Bình Dương Là Một Tỉnh Thuộc Miền Đông Nam Bộ, Diện Tích Tự Nhiên ...
-
Tổng Quan Về Bình Dương
-
Bình Dương – Wikipedia Tiếng Việt
-
Đặc điểm Tự Nhiên Biểu Thị Qua Bản đồ Tỉnh Bình Dương - Diego-rivera
-
Đặc điểm Khí Hậu Bình Dương - Vị Trí - Điều Kiện Tự Nhiên
-
Bình Dương - Bách Khoa Địa Lý Việt Nam - Online - Home
-
Mê Mẩn Vẻ đẹp "sơn Thủy Hữu Tình" Của Núi Cậu ở Bình Dương - Vntrip
-
Chùa Châu Thới Bình Dương - Khám Phá Một Hành Trình Tâm Linh ...
-
Điều Kiện Tự Nhiên - UBND Tỉnh Bình Thuận
-
Ôn Tập Môn Địa Lý: Chuyên đề Địa Lý Tự Nhiên