Vũng Tàu – Wikipedia Tiếng Việt

Đối với các định nghĩa khác, xem Vũng Tàu (định hướng).

Vũng Tàu là một địa danh tại miền Nam Việt Nam. Trong lịch sử, địa danh này được sử dụng cho nhiều đơn vị hành chính khác nhau. Hiện tại, địa danh này được dùng chính thức để chỉ đến phường Vũng Tàu, một đơn vị hành chính cấp xã thuộc Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.

Nguồn gốc

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong bộ Phủ biên tạp lục (chữ Hán: 撫邊雜錄) năm 1776 của Lê Quý Đôn có nhắc đến bán đảo Vũng Tàu: "Đầu địa giới Gia Định là xứ Vũng Tàu, nơi hải đảo có dân cư."[1] Tác phẩm Đại Nam nhất thống chí (chữ Hán: 大南一統志) thời nhà Nguyễn có ghi chép lại: "... trong có vũng lớn gọi là Vũng Tàu, ngày để che chở cho tàu thuyền đỗ nghỉ. Trên núi có suối nước ngọt, chân núi tụ họp dân chài, thật là chỗ cửa quan xung yếu."[1]

Những thay đổi trong lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Thời phong kiến

[sửa | sửa mã nguồn]
Chân Lạp Phong Thổ Ký

Lịch sử Vũng Tàu gắn liền với quá trình di dân của người Việt vào miền Nam.

Con người đã sinh sống trên Vũng Tàu từ khoảng thế kỷ thứ 1 TCN. Trên đảo Long Sơn và sườn núi Bãi Dứa ở Vũng Tàu ngày nay, các nhà khảo cổ học đã khai quật được nhiều di chỉ mộ táng chứa di cốt người, xương răng động vật cùng nhiều đồ trang sức tuỳ táng có niên đại thuộc nền văn hóa Óc Eo-Phù Nam cổ đại.[2][3]

Từ thế kỷ 1 đến đầu thế kỷ 7, khu vực này thuộc Vương quốc cổ Phù Nam, rồi bị sáp nhập vào lãnh thổ Chân Lạp.

Từ thế kỷ 13, vùng đất của Chân Lạp này được gọi là trấn Chân Bồ (chữ Hán: 真蒲). Năm 1295, sứ thần nhà Nguyên tên Chu Đạt Quan (tiếng Trung: 周達觀; Wade–Giles: Tcheou Ta-kouan, còn gọi là Châu Đạt Quan) theo sứ đoàn Trung Hoa đi thăm kinh đô Angkor của Chân Lạp (nay thuộc Campuchia) ngang qua vùng đất này. Lúc về ông đã kể lại trong cuốn Chân Lạp Phong Thổ Ký (chữ Hán: 真臘風土記) rằng:

Đình Thắng Tam

自溫州開洋,行丁未針。歷閩、廣海外諸州港口,過七洲洋,經交趾洋到占城。又自占城順風可半月到真蒲,乃其境也。

Dịch nghĩa:

Rời bến Ôn Châu ở Chiết Giang... đi ngang Giao Chỉ Dương và đến xứ Chiêm Thành. Ở đấy, nhờ thuận gió, trong vòng 15 ngày ta có thể đến Chân Bồ, đó là biên giới xứ Chân Lạp.[4]

Trong các thế kỷ 16-17, sự suy vong của triều đình Chân Lạp đã tạo điều kiện cho các Chúa Nguyễn ở Đàng Trong gia tăng tầm ảnh hưởng đến Vũng Tàu.

Từ các thế kỷ 16, 17, vì chiến tranh, nội loạn liên miên, người Việt từ các vùng Thuận-Quảng đã bỏ xứ phiêu bạt vào miền Nam sinh sống, trong đó có vùng Mô Xoài (Bà Rịa) .[5] Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh đi kinh lý ở phía nam, lập ra phủ Gia Định. Khi đó, Vũng Tàu thuộc tổng Phước An, huyện Phước Long của phủ này. Sau đó, lại chuyển về dinh Trấn Biên.

Để bảo vệ cửa biển Vũng Tàu, vào năm 1788, chúa Nguyễn đã cho lập phong hỏa đài ở hòn Ngọa Ngưu gần Bạch Dinh ngày nay.[6]

Đầu thế kỷ 16, vùng đất nay là Vũng Tàu đã được nhiều nhà du hành châu Âu để chân tới trên con đường tìm kiếm thị trường cũng như khai thác các nguồn hàng mới ở châu Á.[7]

Thương nhân Bồ Đào Nha đã gọi vùng đất này là Oporto Cinco Chagas Verdareiras với ý nghĩa là "vịnh năm vết thương của Chúa" để chỉ cảnh tượng năm đỉnh núi khi nhìn từ xa bờ.[7]

Nơi đây có thể cung cấp nước ngọt, củi đốt và cả gỗ tốt để làm cột buồm cho những chuyến hải trình tiếp theo.[8]

Từ năm 1775, tàu thuyền của Bồ Đào Nha và Pháp ra vào vùng biển Vũng Tàu để buôn bán, trao đổi hàng hóa, và từ đấy người Pháp gọi Vũng Tàu với tên Cap Saint-Jacques (nghĩa là "Mũi đất của Thánh Giacôbê").[9]

Triều Nguyễn

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi thống nhất nước nhà và lập ra triều Nguyễn, hoàng đế Gia Long đã cử ba đội quân đến đây xây dựng đồn lũy, chống hải tặc, trấn giữ cửa biển.[1][10]

Sau khi nạn cướp biển được dẹp yên, vua Minh Mạng cho ba lớp lính trên giải ngũ và lập ra ba làng Thắng Nhất, Thắng Nhì, Thắng Tam.[10] Mỗi làng có ba ông đội. Ba làng này được gọi chung là Tam Thắng, sau đổi tên thành Phước Thắng thuộc phủ Phước Tuy. Dân các làng khai khẩn đất đai, khai hoang làm rẫy và làm nghề đánh cáo, tạo nên các Xóm Rẫy, xóm Vườn, Xóm Lưới.[6]

Pháp thuộc (1859–1945)

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 10 tháng 2 năm 1859 tức mồng 8 Tết Kỷ Mùi, quan quân nhà Nguyễn đã khai hỏa lần đầu tiên những khẩu súng thần công đặt ở pháo đài Phước Thắng, cao 30 m và cách bờ biển Bãi Trước gần 100 m, bắn vào đoàn chiến thuyền của liên quân Pháp-Tây Ban Nha do tướng Rigault de Genouilly chỉ huy trên đường vào xâm lược Nam Kỳ, Ở Nam Kỳ, cuộc kháng chiến chống Pháp bắt đầu. Nguyên soái Trần Đồng, tổng chỉ huy thủy quân của nhà Nguyễn, đã hi sinh trong trận giao chiến này.[11]

Chợ cũ Vũng Tàu (1909)
Bài viết trên tạp chí Le Monde illustré số ra ngày 18/7/1836 nói về ngọn hải đăng và vịnh Hàng Dừa ở Cap Saint-Jacques
Bản đồ hạt Bà Rịa thời Pháp cho thấy Vũng Tàu là một đại lý thuộc hạt này

Với vị trí chiến lược, người Pháp đã định hình đô thị Cap thành một đô thị nghỉ dưỡng kết hợp phòng thủ quân sự chiến lược.

Féré (1863) đã mô tả về Vịnh Hàng Dừa như sau:

... một vịnh xanh nhỏ quyến rũ, tất cả đều được bao quanh bởi những rặng dừa cao và những cây ăn quả lớn, tạo ra một loại dầu quý, mà ngành công nghiệp của chúng tôi sẽ không ngừng sử dụng một cách có lợi, ngay khi chúng tôi lắp đặt theo cách hoàn thiện hơn.[12]

Vào năm 1862, một ngọn hải đăng được xây dựng trên đỉnh núi phía đông nam cũa Dãy núi Hải Đăng (Núi Nhỏ), ở cao độ 139m.[13] Chiều cao của hải đăng 8m, và tầm chiếu xa 30 đặm.[13] Năm 1876 Vũng Tàu được xếp vào hạt tham biện Bà Rịa, nằm trong khu vực hành chánh (circonscription administrative) Sài Gòn, theo nghị định phân chia hành chính của thực dân Pháp.

Vịnh Hàng Dừa, tức Bãi Trước Vũng Tàu trên một tấm bưu thiếp đầu thế kỷ 20

Ngày 1 tháng 5 năm 1895 Thống đốc Nam Kỳ ra nghị định tách thị xã Cap Saint Jacques ra khỏi tiểu khu Bà Rịa để lập thành phố tự trị (commune autonome) Cap Saint Jacques. Đứng đầu đô thị này là đốc lý (résident maire). Đến ngày 20 tháng 1 năm 1898, Cap Saint Jacques hợp nhất trở lại với tiểu khu Bà Rịa, đến năm 1899 lại tách ra thành hai đơn vị hành chính độc lập. Ngày 14 tháng 1 năm 1899 thành phố tự trị Cap Saint Jacques thành lập tổng Vũng Tàu gồm 7 xã.

Chính quyền bảo hộ gấp rút quy hoạch trung tâm hành chính ở Vũng Tàu dọc theo Bãi Trước. Các công sở đua nhau mọc lên như Nhà dây thép, Phòng hoa tiêu, Nhà Đoan, Trạm kiểm dịch, Hải đăng, Sở Cò, Sở Tràng Tiền. Tòa Bố (l'Inspection) đặt tại đường Boulevard des Landes (nay là đường Quang Trung).[14]

Người Pháp cũng chú ý mở mang thị xã Cap thành nơi tắm biển, dưỡng bệnh cho quan chức thực dân như Viện điều dưỡng hoa tiêu Anduzer (1870), khách sạn Grand (1897), và Bạch Dinh Villa Blanche (1896). Tính đến năm 1934 Vũng Tàu có tới 48 biệt thự tư nhân, 11 biệt thự của địa ốc ngân hàng Nam Kỳ, 22 biệt thự dành riêng cho sĩ quan và hàng chục khách sạn.[15]

Trong vòng 10 năm, chính quyền thuộc địa đã xây dựng xong toàn bộ hệ thống hỏa lực trọng pháo với 3 trận địa pháo với 4 khẩu pháo lớn cùng nhiều hầm, hào vững chắc nằm rải rác trên đỉnh và sườn Núi Lớn, Núi Nhỏ.[15] Từ năm 1889 đến 1895, hai trại lính lớn được xây dựng xong, bảo đảm cho gần 2.000 lính đồn trú thuộc binh đoàn thuộc địa số 11 (11è R.I.C) tại Bến Đình và sau lưng Nhà thờ Vũng Tàu ngày nay.[16]

Mạng lưới giao thông được triển khai đồng bộ tạo sự thuận tiện cho du khách và binh lính đồn trú Vũng Tàu, như Đường thuộc địa số 15 (sau là Quốc lộ 51, khánh thành 1896), đường vòng Núi Lớn Núi Nhỏ (1912), cầu Tàu Bãi Trước và cầu Tàu Bến Đình.[16]

Vũng Tàu thu hút hàng ngàn thợ xây dựng từ ba làng Thắng Nhất, Thắng Nhì, Thắng Tam, từ Bà Rịa, Long Sơn, từ Cần Thơ và nhiều địa phương khác.[16]

Xem thêm

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Lịch sử hành chính Thành phố Hồ Chí Minh

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c "Thành phố Vũng Tàu thời gian và những chặng đường". Ủy ban Nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. ngày 2 tháng 1 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2015.
  2. ^ Trương Đắc Chiến (ngày 8 tháng 12 năm 2017). "Về ba ngôi mộ đặc biệt ở di tích Giồng Lớn (Bà Rịa - Vũng Tàu)". Bảo tàng lịch sử quốc gia.
  3. ^ "Những dấu tích văn hóa các quốc gia cổ trên đất Đồng Nai - Phần I".
  4. ^ Châu, Đạt Quan (1973). Chân Lạp phong thổ ký. Lê, Hương biên dịch. Sài Gòn: Kỷ Nguyên Mới. tr. 21–22. {{Chú thích sách}}: Đã bỏ qua tham số không rõ |năm xuất bản= (trợ giúp)
  5. ^ "Lịch sử vùng đất Nam Bộ giai đoạn từ đầu thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XVIII". Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bình Phước. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2021.
  6. ^ a b "Bà Rịa - Vũng Tàu, đất và người truyền thống đại đoàn kết các tầng lớp dân cư". Mặt trận Tổ quốc tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. ngày 27 tháng 4 năm 2017.
  7. ^ a b "Địa danh Vũng Tàu". VUSTA. ngày 24 tháng 12 năm 2013.
  8. ^ Lữ, Huy Nguyên; Giang, Tấn (1987). Đất Thắng cảnh Vũng Tàu. TP.HCM: NXB Văn Hóa. tr. 24–25.
  9. ^ Linh Hương (ngày 8 tháng 3 năm 2020). "Địa danh Vũng Tàu qua các thời kỳ". Báo Bà Rịa - Vũng Tàu. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2021.
  10. ^ a b Nguyễn Duyên Tâm (ngày 22 tháng 6 năm 2020). "TAM THẮNG - XƯA VÀ NAY: Nơi tam thuyền trấn giữ biên ải". Báo Bà Rịa - Vũng Tàu. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2021.
  11. ^ "1.1. Âm mưu xâm lược Việt Nam và tiến trình xâm lược của thực dân Pháp từ Đà Nẵng đến Gia Định". VNC Garden.
  12. ^ Féré, Octavo (1863). "L'anse des Cocotiers et le phare de Cap Saint-Jacques". Le Monde Illustré (bằng tiếng Pháp). tr. 36–37.
  13. ^ a b Annuaire de le Cochinchine Francaise (bằng tiếng Pháp). Imprimerie nationale. 1871. tr. 206, 219.
  14. ^ État de la Cochinchine française en 1896 (tiếng Pháp). Imprimerie commerciale REY, xuất bản tại Saigon năm 1899. Traveaux Publics, trang 167. Có đề cập đến việc Construction d'une inspection de Cap Saint-Jacques
  15. ^ a b Nguyễn Văn Tâm (ngày 23 tháng 2 năm 2020). "Trận địa pháo cổ Cầu Đá". Báo Bà Rịa - Vũng Tàu.
  16. ^ a b c Lịch sử Phong trào Công nhân, Viên chức, Lao động và Hoạt động công đoàn Bà Rịa Vũng Tàu giai đoạn 1930-2006 (PDF). 2022. tr. 10.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Bài viết về Thành phố Hồ Chí Minh này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn.

  • x
  • t
  • s

Từ khóa » Họ Dừa ở Vũng Tàu