Wonder Woman: Nữ Thần Chiến Binh – Wikipedia Tiếng Việt

Wonder Woman:Nữ thần chiến binh
Áp phích chính thức của phim tại Việt Nam.
Đạo diễnPatty Jenkins
Kịch bảnAllan Heinberg
Cốt truyện
  • Zack Snyder
  • Allan Heinberg
  • Jason Fuchs
Dựa trênWonder Womancủa William Moulton Marston
Sản xuất
  • Charles Roven
  • Deborah Snyder
  • Zack Snyder
  • Richard Suckle
Diễn viên
  • Gal Gadot
  • Chris Pine
  • Robin Wright
  • Danny Huston
  • David Thewlis
  • Connie Nielsen
  • Elena Anaya
Quay phimMatthew Jensen
Dựng phimMartin Walsh
Âm nhạcRupert Gregson-Williams[1]
Hãng sản xuất
  • DC Films
  • Atlas Entertainment
  • Cruel and Unusual Films
  • Tencent Pictures
  • Wanda Pictures
Phát hànhWarner Bros. Pictures
Công chiếu
  • 2 tháng 6 năm 2017 (2017-06-02) (Mỹ, Việt Nam)
Thời lượng141 phút[2][3]
Quốc gia Hoa Kỳ
Ngôn ngữTiếng Anh
Kinh phí149 triệu USD[4]
Doanh thu821,9 triệu USD[4]

Wonder Woman: Nữ thần chiến binh (tên gốc tiếng Anh: Wonder Woman) là một bộ phim siêu anh hùng của Mỹ dựa trên nhân vật cùng tên của DC Comics. Phim được phân phối bởi hãng Warner Bros. Pictures và là phim điện ảnh thứ tư trong vũ trụ DC mở rộng. Phim do Patty Jenkins đạo diễn, với phần kịch bản được Allan Heinberg và Geoff Johns thực hiện dựa trên cốt truyện gốc của Heinberg, Zack Snyder và Jason Fuchs. Gal Gadot đảm nhiệm vai chính trong phim, cùng với Chris Pine, Robin Wright, Danny Huston, David Thewlis, Connie Nielsen và Elena Anaya vào các vai phụ. Wonder Woman: Nữ thần chiến binh là phim điện ảnh người đóng thứ hai có sự xuất hiện của nhân vật Wonder Woman, sau sự góp mặt của cô trong Batman đại chiến Superman: Ánh sáng công lý. Vai trò đạo diễn của Jenkins giúp cô trở thành nữ đạo diễn đầu tiên của dòng phim siêu anh hùng này.[5]

Lấy bối cảnh năm 1918, nội dung phim xoay quanh câu chuyện về Công chúa Diana, lớn lên tại đảo Amazon xứ Themyscira. Sau khi phi công người Mỹ Steve Trevor rơi xuống hòn đảo của cô, cô đã cứu anh và anh đã kể cho cô về một cuộc Thế Chiến đang diễn ra. Diana sau đó rời bỏ quê nhà, cố gắng ngăn cản cuộc chiến và trở thành Wonder Woman. Việc phát triển phim được bắt đầu từ năm 1996, với Jenkins ký hợp đồng đạo diễn vào năm 2015. Công tác quay phim chính bắt đầu vào ngày 21 tháng 11 năm 2015, với các cảnh quay được thực hiện tại Vương quốc Anh, Pháp và Ý. Phim được đóng máy vào ngày 9 tháng 5 năm 2016, các cảnh quay thêm được thực hiện vào tháng 11 năm 2016.

Wonder Woman: Nữ thần chiến binh được ra mắt tại Thượng Hải, và được chính thức công chiếu tại Mỹ, Việt Nam và nhiều quốc gia khác vào ngày 2 tháng 6 năm 2017 dưới định dạng 2D, 3D và IMAX 3D. Phim nhận được nhiều ý kiến tích cực từ giới phê bình, đề cao khả năng diễn xuất của Gadot và Pine. Wonder Woman: Nữ thần chiến binh xác lập kỷ lục cho phim điện ảnh có doanh thu ra mắt nội địa cao nhất thực hiện bởi một nữ đạo diễn (103,3 triệu USD) và phim chuyển thể từ truyện tranh có nhân vật nữ chính đạt doanh thu mở màn cao nhất.

Nội dung

[sửa | sửa mã nguồn]

Tại Paris, Diana Prince nhận được bức ảnh của chính cô và bốn người đàn ông vào thời Thế chiến thứ nhất do Bruce Wayne gửi đến, cô bắt đầu hồi tưởng lại quá khứ của mình. Tại hòn đảo Themyscira xa xôi, vùng đất của người Amazon, Công chúa Diana bé nhỏ ước mơ trở thành một chiến binh hùng mạnh. Mẹ cô là Nữ hoàng Hippolyta đã kể cho cô nghe câu chuyện năm xưa thần chiến tranh Ares tìm cách hủy hoại nhân loại và giết những vị thần khác. Còn về thần Zeus, với một chút sức mạnh còn sót lại, ông đã làm Ares bị thương và để lại cho những người Amazon một thứ vũ khí có khả năng tiêu diệt Ares nếu ông ta quay lại, đó là thanh kiếm "Diệt quỷ". Diana rất tin câu chuyện mẹ kể và được dì Antiope huấn luyện kỹ lưỡng.

Năm 1918, Diana cứu mạng anh chàng phi công Steve Trevor - một điệp viên Mỹ được cài vào Đế quốc Đức - sau khi máy bay của anh bị rơi xuống vùng biển Themyscira. Người Amazon tiêu diệt hết quân lính Đức đang đuổi theo Steve. Dì Antiope bị chết vì đứng ra đỡ đạn để bảo vệ cô cháu Diana. Trả lời cuộc thẩm vấn của những người Amazon khi bị trói bằng Dây thừng của Hestia, Steve tiết lộ rằng anh là điệp viên phe Đồng minh trong Thế chiến thứ nhất và đã ăn cắp cuốn sổ ghi chép công trình chế tạo khí độc giết người của Tiến sĩ Isabel Maru thuộc phe Đức. Tại một phòng thí nghiệm ở Đế quốc Ottoman, Đại tướng Erich Ludendorff và Tiến sĩ Maru đang chế tạo một loại khí độc mới dựa trên khí lưu huỳnh mù tạt để chống lại quân Đồng minh. Tin rằng Ares đã tạo ra cuộc chiến tranh này, Diana trang bị cho cuộc hành trình rời khỏi Themyscira, gồm Dây thừng, bộ giáp và thanh kiếm "Diệt quỷ".

Về đến Luân Đôn, Steve vào tòa nhà quốc hội để đưa cuốn sổ của Maru cho các cấp trên của mình, bao gồm Ngài Patrick Morgan, người đang cố thương lượng việc đình chiến với nước Đức. Steve tin rằng Ludendorff sẽ hoàn thành nghiên cứu và sử dụng khí độc giết người hàng loạt bất chấp lệnh ngừng bắn. Diana kết luận Ludendorff chính là Ares và nếu giết chết hắn sẽ chấm dứt chiến tranh. Steve và Diana quyết định ra mặt trận để ngăn chặn Ludendorff. Steve rủ thêm ba người bạn thân đi cùng là gián điệp Sameer, xạ thủ bắn tỉa Charlie, và Tù trưởng Napi (người da đỏ châu Mỹ). Đến Mặt trận phía Tây ở Bỉ, nhóm bạn bị ngăn chặn bởi tuyến phòng thủ dày đặc súng máy của quân Đức, cho đến khi Diana dùng sức mạnh phi thường của mình vượt qua tuyến phòng thủ này, giúp đỡ lực lượng Đồng minh giải phóng một thị trấn khỏi sự chiếm đóng của quân Đức. Diana và nhóm bạn ăn mừng sự tự do của người dân thị trấn, và Diana nảy sinh tình yêu với Steve.

Nhóm bạn biết được Ludendorff sẽ tham dự một bữa tiệc tại một lâu đài gần đó, Steve và Diana thâm nhập vào bên trong lâu đài. Diana định giết Ludendorff nhưng Steve ngăn cản cô vì anh chưa tìm ra phòng thí nghiệm của Maru. Ludendorff sau đó ra lệnh bắn khí độc vào thị trấn gần đó khiến người dân bị giết hại. Diana đã nổi giận vì Steve can thiệp không cho cô giết Ludendorff. Trong cơn thịnh nộ, Diana đuổi theo Ludendorff đến căn cứ quân Đức, nơi khí độc được đưa lên máy bay ném bom để chuẩn bị tấn công Luân Đôn. Diana chiến đấu và giết chết Ludendorff, nhưng hoang mang khi thấy cái chết của hắn vẫn chưa chấm dứt chiến tranh. Ngài Patrick Morgan xuất hiện tiết lộ rằng ông ta chính là Ares thật sự. Ông ta nói rằng mặc dù ông ta đã đưa ra những ý tưởng và cảm hứng cho loài người, nhưng cuối cùng họ quyết định dùng đến bạo lực vì họ vốn đã tham nhũng. Diana và Ares lao vào đánh nhau, Ares cố gắng thuyết phục Diana rằng loài người không xứng đáng được cô cứu giúp khỏi chiến tranh, và tiết lộ rằng cô - người con gái của thần Zeus và Hippolyta - chính là một thứ vũ khí. Khi Diana giao chiến với Ares, nhóm bạn của Steve đã phá hủy phòng thí nghiệm của Maru. Steve cũng cướp chiếc máy bay ném bom có chứa khí độc và hi sinh thân mình cho nổ tung máy bay ở độ cao an toàn cách xa khu dân cư. Cảm động trước sự hi sinh của Steve và những lời tình cảm cuối cùng anh dành cho cô trước đó, Diana đã thu gom sấm sét để kết liễu Ares và giúp loài người thoát khỏi cuộc chiến tranh. Trở về Luân Đôn, nhóm bạn tổ chức lễ kỷ niệm ngày kết thúc chiến tranh.

Thời điểm hiện tại, Diana gửi email cảm ơn Bruce Wayne vì đã gửi bức ảnh của cô và Steve. Cô khẳng định sứ mệnh của mình là tiếp tục làm siêu anh hùng bảo vệ nhân loại và bay lên không trung.[6]

Diễn viên

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Gal Gadot vai Diana Prince / Wonder Woman:
Công chúa của người Amazon và một chiến binh bất tử. Gadot miêu tả nhân vật của cô "có rất nhiều sức mạnh và thực lực, nhưng ở cuối ngày cô là một người phụ nữ với rất nhiều Trí tuệ xúc cảm.[7] Cách xuất hiện của cô sẽ khác so với trong Batman đại chiến Superman: Ánh sáng công lý, Gadot nói: "Chúng tôi sẽ bắt đầu vào thời điểm cách đây 100 năm, khi cô ấy còn là một đứa trẻ", giải thích thêm: "Độ tuổi này thật là lí tưởng, rất khác với người phụ nữ có kinh nghiệm, tự tin, mà khi lớn lên mà bạn đã từng gặp ".[8] Gadot đã trải qua một chế độ ăn kiêng, tập luyện, học nhiều loại võ thuật khác nhau và phải giảm tới 7 kg cho vai diễn.[9][10] Élodie Yung và Olga Kurylenko cũng tham gia thử vai với vai diễn này.[11] Trước đây, Gadot đã từng được mời diễn một vai trong Người đàn ông thép, nhưng cô đã từ chối vì khi đó cô đang mang thai. Chính nhờ vậy mà cô đã có cơ hội để đảm nhận vai diễn Wonder Woman hiện tại.[12] Gadot đã kí hợp đồng ba bộ phim với vai Wonder Woman. Emily Carey trong vai Diana lúc nhỏ.[13][14]
  • Chris Pine vai Steve Trevor:
Phi công chiến đấu của quân đội Mỹ và là người yêu của Diana.[15] Anh là người đã thấy được sự khủng khiếp, tàn bạo của nền văn minh hiện đại và bày tỏ với Diana rằng anh là "một chàng trai thế gian, một chàng trai quyến rũ".[16]
  • Connie Nielsen vai Nữ hoàng Hippolyta:
Nữ hoàng của Amazon và mẹ của công chúa Diana.[17] Trước đây, Nicole Kidman đã từng đàm phán với vai diễn này nhưng bị buộc phải từ bỏ do kế hoạch mâu thuẫn với Big Little Life. Trước đây, Nielsen đã từng được cân nhắc cho vai diễn của mẹ của Superman, Lara Lor-Van, trong Man of Steel.[18]
  • Robin Wright vai Antiope:
Em gái của Nữ hoàng và là dì của Diana.[19]
  • Lucy Davis vai Etta Candy:
Thư ký của Steve Trevor và trở thành bạn của Diana.[20]
  • Lisa Loven Kongsli vai Menalippe:
Chiến binh của Antiope.[19]
  • Danny Huston vai Đại tướng Erich Ludendorff:
Một tướng đầy tham vọng và tàn bạo của Quân đội Đức trong Thế Chiến I.
  • David Thewlis vai Ngài Patrick Morgan / Ares:
Con trai của Zeus và là anh cùng cha khác mẹ của Diana.[21][22][23]
  • Elena Anaya vai Tiến sĩ Isabel Maru / Dr. Poison:
Một nhà khoa học điên cuồng, có liên quan đến Ludendorff và chuyên về hóa học điều chế chất độc.[24]
  • Saïd Taghmaoui vai Sameer:
​Một điệp viên bí mật là một bậc thầy của ngụy trang, đồng minh của Steve Trevor.[25]
  • Ewen Bremner vai Charlie:
Một tay súng bắn tỉa nặng ký người Scotland, bị chứng rối loạn căng thẳng sau chấn thương, đồng minh của Steve Trevor.[26]
  • Eugene Brave Rock vai Tù trưởng Napi:
Một người da đỏ châu Mỹ, đồng minh của Steve Trevor.

Sản xuất

[sửa | sửa mã nguồn] "Sẽ có biết bao nhiêu điều tồi tệ trong cuộc sống? [...] Đối với tôi, người Amazones và Wonder Woman không nên mặc áo giáp như nam giới [...] Họ phải khác biệt, phải thật xác thực và chân thật và thật hấp dẫn [...] Đó là ước muốn hoàn thành [...] Tôi, với tư cách là một người phụ nữ, tôi muốn Wonder Woman vùng lên như quỷ thần, chống lại sự yếu đuối, và trông thật tuyệt vời - cũng giống như đàn ông muốn có một cơ thể như Superman để họ có thể cảm nhận được, họ là một anh hùng. Và anh hùng của tôi, trong đầu của tôi, có đôi chân thật dài. "

— Đạo diễn Patty Jenkins [27]

Bối cảnh

[sửa | sửa mã nguồn]

Bộ phim Wonder Woman: Nữ thần chiến binh bắt đầu được phát triển vào năm 1966, với Ivan Reitman được mặc định giữ vai trò đạo diễn kiêm nhà sản xuất.[28] Những nữ diễn viên nổi tiếng tăm như Angelina Jolie, Beyonce Knowles, Bullock, Rachel Bilson, Nadia Bjorlin, Megan Fox, Eliza Dushku và Catherine Zeta-Jones đều đã từng thử vai Wonder Woman.[29] Leonard Goldberg, trong một cuộc phỏng vấn vào tháng 5 năm 2001, đã tiết lộ Bullock là một ứng cử viên sáng giá cho vai diễn.[30] Bullock tuyên bố rằng cô đã đạt được vai diễn. Sau đó, kịch bản đã qua nhiều dự thảo khác nhau của Alcott, Cohen, Becky Johnston và Philip Levens[31] và tới tháng 8 năm 2003, Levens đã được thay thế bởi nhà biên kịch Laeta Kalogridis.[32]

Tháng 3 năm 2005, Warner Bros và Silver Pictures thông báo rằng Joss Whedon (Buffy the Vampire Slayer) sẽ viết và đạo diễn bộ phim chuyển thể của Wonder Woman[33], với mức lương được công bố là 2-3 triệu đô.[34] Whedon đã chỉ đạo Serenity trước đó, và ông cần thời gian để nghiên cứu kĩ về Wonder Woman, ông đã không viết kịch bản cho đến cuối năm 2005.[35][36][37] Trong khi Whedon tuyên bố tháng 5 năm 2005 rằng ông sẽ không tuyển diễn viên cho vai Wonder Woman đến khi kịch bản hoàn thành.[38] Charisma Carpenter,[39] Charisma Carpenter[39], Morena Baccarin[40] và Priyanka Chopra[41] đều có tin đồn rằng sẽ được xem xét cho vai diễn này. Tuy nhiên, sau gần hai năm, Whedon vẫn không viết xong một bản thảo hoàn chỉnh[42], và đến năm 2007, ông đã rời dự án.

Một ngày trước khi Whedon rời dự án Wonder Wan, Warner Bros. và Silver Pictures đã mua một kịch bản được viết bởi Matthew Jennison và Brent Strickland. Lấy bối cảnh trong Thế Chiến II, kịch bản này gây ấn tượng với các nhà điều hành tại Silver Pictures[43]. Silver thừa nhận kịch bản có ý tưởng tốt, nhưng ông không muốn bộ phim về Wonder Woman mang tính thời kỳ.[44] Đến tháng 4 năm 2008, Silver đã thuê Jennison và Strickland viết kịch bản mới trong thời hiện đại, không mô tả nguồn gốc của Wonder Woman, nhưng khám phá lịch sử đảo Paradise.[45]

Trong năm 2010, Warner Bros phát biểu rằng bộ phim đã được phát triển, cùng với các bộ phim khác dựa trên các siêu anh hùng của DC Comics gồm The Flash, Aquaman, Batman và Cyborg.[46] Cả Wonder Woman và Aquaman vẫn đang được xem xét cho bộ phim riêng vào tháng 6 năm 2013.[47] Vào ngày 5 tháng 10 năm 2013, Chủ tịch WB, Kevin Tsujihara nói rằng ông mong muốn Wonder Woman sẽ xuất hiện trong một bộ phim hoặc trên TV.[48] Ngay sau đó, Paul Feig nói anh đã đặt Wonder Woman: Nữ thần chiến binh làm một bộ phim hài hành động.[49][50] Sau đó studio đã bắt đầu tìm kiếm các đạo diễn nữ để chỉ đạo bộ phim.[51] Mặc dù Michelle MacLaren là sự lựa chọn ban đầu của studio để chỉ đạo bộ phim, và ban đầu cô tỏ ý quan tâm,[52][53][54] nhưng cuối cùng cô đã rời dự án do sự khác biệt về ý tưởng.[55]

Phát triển

[sửa | sửa mã nguồn]
Đạo diễn Patty Jenkins và diễn viên (Trái - Phải): Gal Gadot, Chris Pine, Connie Nielsen tại San Diego Comic-Con International năm 2016.

Vào năm 2015, Patty Jenkins chấp nhận đề nghị đưa ra một phiên bản khác của Wonder Woman: Nữ thần chiến binh[56] dựa trên kịch bản của Allan Heinberg và câu chuyện được viết bởi Heinberg, Zack Snyder, Geoff Johns và Jason Fuchs.[57][58] Câu chuyện của họ đặt Wonder Woman vào những năm 1910 và Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, khác với nguồn gốc truyện tranh của cô là một người ủng hộ cho Đồng minh trong Thế Chiến II.[59] Nó cũng theo sau sự thay đổi nguồn gốc của DC Comics trong The New 52, nơi Diana là con gái của Zeus, chứ không phải là tượng đất sét được các vị thần ban sự sống.[60] Bộ phim Wonder Woman: Nữ thần chiến binh năm 2017 là phim điện ảnh người đóng đầu tiên của Wonder Woman sau Batman đại chiến Superman: Ánh sáng công lý.[61]

Tuyển diễn viên

[sửa | sửa mã nguồn]

Gal Gadot đã vượt qua Élodie Yung và Olga Kurylenko giành được vai diễn Wonder Woman trong Batman đại chiến Superman: Ánh sáng công lý.[11][62][63][64] Chris Pine được chỉ định là Steve Trevor[65], Sean Bean và Eva Green đã được xem xét cho những nhân vật phản diện Ares và Circe.[66] Tháng 11 năm 2015, Saïd Taghmaoui đã nhận một vai diễn không xác định.[67] Trong khi Nicole Kidman đang đàm phán về một vai diễn [68] nhưng cuối cùng cô đã rút khỏi dự án.[69][70][71]

Quay phim

[sửa | sửa mã nguồn]

Việc quay phim bắt đầu vào ngày 21 tháng 11 năm 2015,[72][73] dưới tên sản xuất là Nightingale.[74][75] Những nơi quay phim là Ga Kings Cross và Quảng trường Trafalgar ở Luân Đôn cùng nhiều địa điểm khác ở miền Nam nước Ý như Sassi di Matera, Castel del Monte, Palinuro và Camerota.[76][77] Matthew Jensen là giám đốc quay phim[78][79] ở Anh, Pháp và Ý. Quay phim ở Luân Đôn kết thúc vào ngày 13 tháng 3 năm 2016.[80] Vào ngày 20 tháng 3 năm 2016, việc quay phim đang được tiến hành ở Ý. Vào cuối tháng 4, bộ phim đã được quay tại The Louvre, nơi chiếc xe tải in chữ Wayne Enterprises được phát hiện cùng với Gadot.[81] Bộ phim đóng máy vào ngày 9 tháng 5 năm 2016.[82] Patty Jenkins và Matt Jensen tiết lộ rằng bộ phim được lấy cảm hứng từ họa sĩ John Singer Sargent.[83] Việc dựng phim diễn ra vào tháng 11 năm 2016, khi đó Gadot đang mang thai năm tháng.[84]

Hậu kỳ

[sửa | sửa mã nguồn]

Bill Westenhofer là giám sát hiệu ứng hình ảnh[85] và Martin Walsh là biên tập viên.

Âm nhạc

[sửa | sửa mã nguồn] Bài chi tiết: Wonder Woman (nhạc phim)

Vào ngày 3 tháng 11 năm 2016, Rupert Gregson-Williams được thuê viết và sáng tác nhạc của bộ phim.[86] Ông tham gia cùng Tom Howe[87], Paul Mounsey[88] và Andrew Kawczynski[89] cung cấp nhạc bổ sung. Nhạc phim được phát hành cùng ngày với bộ phim trên đĩa CD, kỹ thuật số và vinyl.[90]

Ca sĩ người Úc Sia hát bài hát cho bộ phim "To Be Human" với nhạc sĩ người Anh Labrinth. Bài hát được viết bởi Florence Welch và Rick Nowels. Bài hát cũng nằm trong album nhạc phim của phim.[91]

Phát hành

[sửa | sửa mã nguồn]

Wonder Woman: Nữ thần chiến binh được ra mắt ngày 15 tháng 5 năm 2017 ở Thượng Hải.[92] Buổi chiếu ra mắt diễn ra tại Luân Đôn dự kiến vào ngày 31 tháng 5 năm 2017 tại Quảng trường Odeon Leicester, đã bị hủy bỏ do vụ đánh bom ở sân vận động Manchester Arena vào tháng 5 năm 2017.[93] Bộ phim dự kiến sẽ được phát hành ở Hoa Kỳ tại Los Angeles vào ngày 25 tháng 5, tại Thành phố México cho buổi ra mắt ở châu Mỹ Latinh vào ngày 27 tháng 5 và tại hầu hết các nước trên thế giới vào ngày 2 tháng 6 năm 2017.[94][95] Phim cũng sẽ được phát hành qua IMAX.[96] Bỉ, Singapore và Hàn Quốc là những quốc gia được công chiếu đầu tiên vào ngày 31 tháng 5 năm 2017. Vào ngày 2 tháng 6, phim phát hành ở Bắc Mỹ.[97][98][99][100]

Quảng bá

[sửa | sửa mã nguồn]

Wonder Woman: Nữ thần chiến binh được quảng bá thông qua sự thành công của loạt phim truyền hình Supergirl.[101] Theo giám đốc tiếp thị Time Warner, Kristen O'Hara, họ muốn tiếp cận chiến dịch tiếp thị của Wonder Woman: Nữ thần chiến binh một cách nhẹ nhàng giống như cách họ làm với Supergirl trên truyền hình. O'Hara giải thích rằng cách thức quảng bá của Supergirl đã giúp việc thành lập một lượng fan lớn trước khi phát hành bộ phim này. Theo một báo cáo, chiến dịch đã tạo ra 5 triệu fan hâm mộ Wonder Woman: Nữ thần chiến binh trong một tuần. Họ đã duy trì chiến lược lên đến 15 tháng trước khi phát hành Wonder Woman: Nữ thần chiến binh. Mặc dù bộ phim cũng không chỉ nhằm vào phụ nữ, nhưng chiến dịch của họ đã cho họ cơ hội đầu tiên để thu thập dữ liệu về các fan nữ. Sau đó, vào tháng 5 năm 2017, một quảng cáo cho Wonder Woman: Nữ thần chiến binh đã được phát hành trong tập cuối cùng của Supergirl, với bản remix của bài hát "Boots Of The Way" được sản xuất dành cho Walkin' và Supergirl (Melissa Benoist), cùng với đôi ủng và vòng tay của Wonder Woman.[102] Quảng cáo có sự xuất hiện của Lynda Carter, ngôi sao của Wonder Woman năm 1970.

Chi phí quảng bá truyền hình cho Wonder Woman: Nữ thần chiến binh cao hơn so với Biệt đội cảm tử. Warner Bros. đã chi hơn 3 triệu USD cho việc quảng bá Wonder Woman: Nữ thần chiến binh và 2,6 triệu USD cho quảng bá Biệt đội cảm tử.[103]

Theo một cuộc thăm dò trên 10.000 người, cuộc thăm dò ý kiến lớn nhất trong lịch sử công ty, cho thấy Wonder Woman: Nữ thần chiến binh đã làm tốt kế hoạch cuối cùng cho chiến dịch tiếp thị của mình, giúp bộ phim đoạt danh hiệu bộ phim bom tấn được mong chờ nhất của mùa hè 2017.[104] Theo Fandang, 92% số người được khảo sát cho biết họ đang mong chờ được xem một bộ phim có một siêu anh hùng nữ, và 87% ước muốn Hollywood sẽ tạo ra nhiều bộ phim siêu anh hùng nữ hơn.

Tháng 5 năm 2017, tay đua NASCAR, Danica Patrick, đã lái chiếc xe số 10 của cô được sơn hình Wonder Woman tại Go Bowling 400 ở Kansas và tại Monster Energy Open ở Charlotte.

Tranh cãi

[sửa | sửa mã nguồn]

Bị cấm chiếu ở Lebanon

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 31 tháng 5, Wonder Woman: Nữ thần chiến binh bị cấm ở Lebanon sau Chiến dịch Tẩy chay Những người ủng hộ Isarel. Yêu cầu Bộ Kinh tế và Thương mại của Chính phủ Lebanon cấm chiếu bộ phim vì ngôi sao Gal Gadot từng phục vụ trong quân đội Israel.[105]

Vào ngày 7 tháng 6, Variety báo cáo rằng một tòa án ở Tunisia đã đình chỉ việc phát hành Wonder Woman: Nữ thần chiến binh sau khi vụ kiện do đảng Al-Chaba và Hiệp hội Luật sư Trẻ của Tunisia đưa ra để chặn bộ phim này do Gadot là công dân Isarel, cô còn từng tham gia nghĩa vụ quân sự và ý kiến ​​công chúng ủng hộ quân đội Israel trong cuộc chiến năm 2014 ở Gaza.[106] Theo báo cáo, Jordan cũng đang xem xét lệnh cấm phim và treo rạp chờ quyết định,[107] nhưng vào ngày 11 tháng 6, Al Bawaba báo cáo rằng chính phủ đã quyết định không làm như vậy, vì không có tiền lệ pháp lý cho điều đó.[108]

Chỉ chiếu phim cho phụ nữ

[sửa | sửa mã nguồn]

Một số nam giới không hài lòng với những đợt chiếu phim chỉ dành cho phụ nữ được tổ chức tại rạp chiếu phim Alamo Drafthouse ở Austin, họ tuyên bố trên Facebook rằng các cuộc chiếu phim như vậy là hành vi chống lại đàn ông.[109][110][111]

Giáo sư trường Albany Law School đã khởi xướng đơn khiếu nại với Văn phòng Công bằng và Bình đẳng của Austin tuyên bố sự kỳ thị đối với nam giới.[112]

Rạp chiếu đã trả lời bằng một tuyên bố trực tuyến rằng sự kiện "có thể đã tạo ra nhầm lẫn - chúng tôi muốn mọi người xem bộ phim này" và thông báo rằng sẽ có một sự kiện tương tự tại Brooklyn. Vé đã bán hết trong vòng chưa đầy một giờ đồng hồ, khiến cho họ phải lên lịch chiếu bổ sung.[109]

Tiếp nhận

[sửa | sửa mã nguồn]

Doanh thu phòng vé

[sửa | sửa mã nguồn]

Tính đến ngày 4 tháng 10 năm 2017, Wonder Woman: Nữ thần chiến binh đã thu về $412.3 triệu đô tại Mỹ và Canada và $408.8 triệu đô ở các thị trường khác với tổng số trên toàn thế giới là $821.1 triệu USD, so với kinh phí sản xuất là 149 triệu USD.[4][113]

Vào tháng 5 năm 2017, đợt chiếu sớm đã mang về cho Wonder Woman: Nữ thần chiến binh 65-75 triệu USD và có thể lên đến 105 triệu USD.[114][115][116][117][118] Bộ phim mở chiếu vào thứ Sáu, 2 tháng 6 năm 2017, trên 4.165 rạp và thu về 38.7 triệu USD trong ngày đầu công chiếu, bao gồm 3,7 triệu USD Mỹ của IMAX. Đây là bộ phim có doanh thu lớn nhất của một đạo diễn nữ, vượt qua doanh thu 35,6 triệu USD trong ngày chiếu đầu của bộ phim Chạng vạng của Catherine Hardwicke (khoảng 44 triệu USD điều chỉnh lạm phát) năm 2008 và là màn mở chiếu lớn nhất cho một bộ phim siêu anh hùng có nhân vật chính là nữ, trước Vỏ bọc ma (7 triệu USD).[119] Điều này bao gồm 11 triệu USD thu được từ những đợt chiếu sớm vào thứ Năm, cũng là sự khởi đầu tốt nhất cho một bộ phim của một nữ đạo diễn, vượt qua Năm mươi sắc thái đen (8,6 triệu USD) của đạo diễn Sam Taylor-Johnson, và là bộ phim có doanh thu lớn thứ ba trong năm, sau Người đẹp và quái vậtVệ binh dải Ngân Hà 2. Trong đó có 1,5 triệu USD từ phòng chiếu IMAX.[120][121]

Bộ phim thu về tổng cộng 103,3 triệu USD trong tuần lễ khai mạc, bộ phim đạt được một số kỉ lục: "bộ phim có màn mở chiếu lớn nhất, bộ phim của DC Comics lớn nhất mà không có Batman hoặc Superman (trước Constantine).[122] Ba ngày mở chiếu của bộ phim đã làm cho nó trở thành bộ phim siêu anh hùng của một nữ đạo diễn gây thu hút nhiều nhất từ ​​trước đến nay (vượt qua Vỏ bọc ma) và bộ phim lớn nhất lấy bối cảnh Thế Chiến I (phá kỷ lục của Chiến mã do Steven Spielberg đạo diễn).[123] Đây cũng là bộ phim siêu anh hùng thứ mười sáu vượt qua con số 100 triệu USD tại các phòng vé trong nước.[124] Khoảng 9% (9 triệu USD) trong tuần khai mạc đã đến từ các buổi chiếu IMAX với 343 rạp.[125] Trong tuần lễ thứ hai, bộ phim thu về 57,3 triệu USD, đứng đầu doanh thu phòng vé. Bộ phim có sự sụt giảm 45% doanh thu vào cuối tuần chiếu thứ hai tại phòng vé, tốt hơn so với các bộ phim siêu anh hùng khác, giảm 50-60%, và tốt hơn rất nhiều kết quả của Batman đại chiến Superman: Ánh sáng công lý (51,3 triệu USD) và Biệt đội cảm tử (43,5 triệu USD).[126]

Trên toàn cầu, bộ phim dự kiến phát hành ở Bắc Mỹ tại 55 thị trường (chiếm 72% tổng số thị trường), và thu về 92-118 triệu USD mặc dù các nhà phân tích tin rằng 100 triệu USD là kết quả khả quan nhất. Bộ phim đã thu về 125 triệu USD, trong đó 38 triệu USD ở Trung Quốc, 8,5 triệu USD ở Hàn Quốc, 8,4 triệu USD ở México, 8,3 triệu USD ở Brazil và 7,5 triệu USD ở Anh.[127] Các thị trường chính vẫn mở chiếu là Đức (15 tháng 6) và Nhật Bản (tháng 8).

Đánh giá chuyên môn

[sửa | sửa mã nguồn] Vai diễn của Gal Gadot (trái) và Chris Pine được khen ngợi rất nhiều.[128][129]

Wonder Woman: Nữ thần chiến binh đã nhận được những đánh giá tích cực, nhiều nhà phê bình gọi nó là bộ phim DCEU hay nhất từ trước tới giờ và ca ngợi diễn xuất của Gadot.[130][131] Theo Rotten Tomatoes, bộ phim có 94% đánh giá dựa trên 237 bài bình luận, với điểm trung bình là 7.6 / 10. Sự đồng thuận của các trang web: "Cảm giác mạnh mẽ, chân thật và sôi động nhờ màn trình diễn hấp dẫn của Gal Gadot, Wonder Woman: Nữ thần chiến binh đã đạt thành công ngoạn mục." Trên Metacritic, phim được đánh giá bình thường, bộ phim đạt 76 trên 100 điểm, dựa trên 49 nhà phê bình, và "những đánh giá tích cực nói chung".[132] Đối tượng được thăm dò bởi CinemaScore đã cho bộ phim điểm trung bình là "A" trên thang đo A + tới F.[133]

Các nhà phê bình đánh giá cao về vai diễn Steve Trevor của Chris Pine và vai diễn Wonder Woman của Gadot.[134][135] Andrew Barker của Variety nhận xét bộ phim diễn biến nhẹ nhàng hơn so với các bộ phim mới đây của DC Comics: "Wonder Woman: Nữ thần chiến binh của Patty Jenkins đem điện ảnh siêu anh hùng của DC từ tăm tối tới với không gian tươi sáng hơn, mang tính giải trí hơn".[136]

AO Scott của tờ The New York Times cho rằng "Wonder Woman: Nữ thần chiến binh đã bắt kịp những xu hướng xây dựng thương hiệu và cho phép nó trở thành một cái gì đó tương đối hiếm trong vũ trụ siêu nhân hiện đại. Một bộ phim khá tốt."[137] Michael Phillips của The Chicago Tribune đã đánh giá bộ phim đạt 3,5/4 sao và so sánh nó một cách thuận lợi với Captain America: Kẻ báo thù đầu tiên.[138] Katie Erbland của IndieWire đã cho bộ phim điểm A-, tán dương chiều sâu chủ đề của bộ phim: "Wonder Woman: Nữ thần chiến binh là một bộ phim chiến tranh trước tiên và chúng tôi hi vọng đây không phải lần cuối cùng DC Extended Universe đặt bộ phim trong bối cảnh Thế Chiến, và nhân vật không chùn bước trước bạo lực chiến tranh, cùng với đó là những đấu tranh nội tâm hấp dẫn của nhân vật".[139] Alonso Duralde của The Wrap cũng ca ngợi cách tiếp cận chiến tranh trong bộ phim: "Những cảnh hành động của Diana thật đáng trân trọng bởi vì chúng có nghĩa để chấm dứt chiến tranh, chứ không phải là gây ra nó, ý tưởng về một demi-god sử dụng tình yêu chống lại chiến tranh có thể có vẻ ngốc nghếch, trừu tượng, nhưng Jenkins làm cho khái niệm này thật hấp dẫn, dễ tiếp cận."[140] Ann Honraday của The Washington Post khen ngợi cả diễn xuất của Gadot và Pine trong khi cũng ca ngợi cốt truyện chi tiết và hấp dẫn. Nhiều nhà phê bình đã có nhiều lời khen ngợi đối với vai diễn của Gadot.[141] Sheri Linden của The Hollywood Reporter đã viết: "Sau khi chứng minh được khả năng của mình trong Fast and Furious, Gadot đã mang lại một phong cách mạnh mẽ duyên dáng của một nữ siêu nhân quyết tâm tự hạ Ares. Đồng thời, cô còn thể hiện một sự ngây thơ, ngọt ngào, hài hước trong cuộc gặp gỡ của Diana với thế giới văn minh.[142] Trong mục A-review của mình, Chris Nasahty từ Entertainment Weekly tán dương vai diễn của Gadot: "Gadot, một nữ diễn viên Israel với đôi mắt đen, có lẽ là người nổi tiếng nhất vì đã diễn vai Gisele trong một số bộ phim Fast & Furious. Cô đến Luân Đôn, nơi bị chiến tranh tàn phá, với Trevor và có được những suy nghĩ đầu tiên về tính hiện đại của thế kỷ XX, cô phản ứng với hình ảnh quen thuộc của xe ô tô hay thu hẹp quần áo của phụ nữ vào đầu thế kỷ XX, như một con cá ra khỏi nước".[143]

Bên cạnh những lời khen ngợi, cũng có một số chỉ trích. Steve Rose của The Guardian đã chỉ trích bộ phim vì không khám phá được tiềm năng đối với việc "lật đổ chế độ gia trưởng."[144]

Phần tiếp theo

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào tháng 4 năm 2017, đạo diễn Patty Jenkins đã nói về khả năng của một phần tiếp theo, cô nói rằng "Tôi rất vui mừng khi cô ấy đến Mỹ và trở thành Wonder Woman. Tôi muốn đưa cô ấy đi xa hơn trong tương lai và có một cốt truyện thú vị hơn. Tôi không thể đợi đến mùa xuân và có một bộ phim siêu anh hùng tuyệt vời nữa." [145]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Davis, Edward (ngày 3 tháng 11 năm 2016). “Exclusive: Stream Track From Rupert Gregson-Williams' 'Hacksaw Ridge' Score, Composer Talks 'Wonder Woman,' Mel Gibson, More”. The Playlist. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2016.
  2. ^ “Wonder Woman”. Consumer Protection BC, Canada. ngày 5 tháng 5 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2017.
  3. ^ “Wonder Woman”. British Board of Film Classification. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2017.
  4. ^ a b c “Wonder Woman (2017)”. Box Office Mojo. IMDb. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2017.
  5. ^ Bob Strauss (31 tháng 5 năm 2017). “How 'Wonder Woman' lassoed the first female director of a studio superhero movie”. The Mercury News. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2017.
  6. ^ Davis, Brandon (12 tháng 6 năm 2016). “Wonder Woman Synopsis Revealed”. Comicbook.com. Truy cập 10 tháng 1 năm 2016.
  7. ^ “Gal Gadot: Wonder Woman 'not there because of a love story' in Batman v Superman - EW.com”. Entertainment Weekly's EW.com.
  8. ^ Russell, Scarlett (ngày 8 tháng 4 năm 2016). “Wonder Woman star Gal Gadot says that her solo movie has 'moments of humour'”. Digital Spy. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2016.
  9. ^ Wayne, Teddy (ngày 22 tháng 7 năm 2015). “Gal Gadot”. Interview. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2015.
  10. ^ Ryder, Taryn (ngày 18 tháng 3 năm 2016). “How Gal Gadot Transformed Her Body to Play Wonder Woman”. Yahoo!. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2016.
  11. ^ a b Kroll, Justin (ngày 7 tháng 11 năm 2013). “New Actresses Test for 'Batman vs. Superman'...as Wonder Woman?”. Variety. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2013.
  12. ^ Porter, Matt (ngày 19 tháng 9 năm 2015). “Wonder Woman's Gal Gadot Had Turned Down a Role in Man of Steel”. IGN. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2017.
  13. ^ “Emily Carey Actress”. Emilycarey.co.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2017.
  14. ^ Arelis (ngày 10 tháng 4 năm 2016). “Emily Carey to Play Young Diana in Wonder Woman?”. Dccomicsmovie.com. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2017.[cần nguồn tốt hơn]
  15. ^ Galuppo, Mia (ngày 23 tháng 7 năm 2016). “Comic-Con: 'Wonder Woman' Debuts First Trailer”. The Hollywood Reporter. Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2016.
  16. ^ Slotek, Jim (ngày 13 tháng 1 năm 2016). “Chris Pine talks 'Wonder Woman,' 'Finest Hours'”. Toronto Sun. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2016.
  17. ^ Kit, Borys (ngày 15 tháng 1 năm 2016). “Warner Bros. Casts Wonder Woman's Mother (Exclusive)”. The Hollywood Reporter. Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2016.
  18. ^ “Connie Nielsen & Harry Lennix Rumored For Man of Steel”. Screen Rant. ngày 15 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2011.
  19. ^ a b Sperling, Nicole (ngày 24 tháng 3 năm 2016). “Wonder Woman exclusive: Meet the warrior women training Diana Prince”. Entertainment Weekly. Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2016.
  20. ^ Amaya, Eric (ngày 21 tháng 2 năm 2016). “Etta Candy Spotted In Wonder Woman Set Photos”. Bleeding Cool. Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2016.
  21. ^ O'Donnell, S. C. (ngày 21 tháng 2 năm 2017). “David Thewlis Cast As Comic Book Accurate Ares In Wonder Woman”. Moviepilot. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2017.
  22. ^ 'Wonder Woman': Who Is Really Playing the Villain Ares?”. /Film. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2017.
  23. ^ Perry, Spencer (ngày 6 tháng 3 năm 2017). “How Ares Factors into the Wonder Woman Movie”. Comingsoon.net. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2017.
  24. ^ O'Hara, Helen (tháng 4 năm 2017). “Alpha Female”. Empire. tr. 60–67.
  25. ^ “Production Begins on Warner Bros. Pictures' Wonder Woman Feature Film”. Business Wire. ngày 21 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2015.
  26. ^ Volmers, Eric (ngày 6 tháng 8 năm 2016). “Eugene Brave Rock, actor from Kainai First Nation, to appear in DC's Wonder Woman”. Calgary Herald. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2017.
  27. ^ Nicole Sperling (ngày 24 tháng 3 năm 2016). “Wonder Woman exclusive: Meet the warrior women training Diana Prince”. Entertainment Weekly. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2016.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  28. ^ Bur, Ty (ngày 19 tháng 4 năm 1996). “Comic movies”. Entertainment Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2014.
  29. ^ Stuever, Hank (ngày 18 tháng 4 năm 2001). “Wonder Woman's Powers”. The Washington Post. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2017.
  30. ^ Linder, Brian (ngày 3 tháng 5 năm 2001). “Estrogen Explosion”. IGN. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 7 năm 2006. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2017.
  31. ^ Worley, Rob (ngày 6 tháng 5 năm 2003). “Wonder Woman Scribe”. Comic Book Resources. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2006.
  32. ^ Worley, Rob (ngày 12 tháng 8 năm 2003). “Wonder Woman”. Comic Book Resources. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2006.
  33. ^ “Silver Pictures and Warner Bros. Pictures Sign Joss Whedon to Write & Direct DC Comics' Wonder Woman” (Thông cáo báo chí). Warner Bros. ngày 17 tháng 3 năm 2005. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2016.
  34. ^ Kit, Borys; Siegel, Tatiana (ngày 5 tháng 2 năm 2007). “Joss Whedon exits Wonder Woman pic”. MSNBC. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2007.
  35. ^ Kozak, Jim (August–September 2005). “Serenity Now!”. In Focus. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2007.
  36. ^ “SDCC - Wonder Woman Update”. The Kingdom. ngày 22 tháng 7 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2006.
  37. ^ “Aussie Wonder Woman”. The Age. Australian Associated Press. ngày 11 tháng 5 năm 2005. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2006.
  38. ^ Collura, Scott (ngày 20 tháng 5 năm 2005). “Whedon Talking Wonder”. Now Playing. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2006.
  39. ^ a b Mitovitch, Matt (ngày 6 tháng 9 năm 2006). “Mars Bombshell Is Still Wonder-ing”. TV Guide. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2017.
  40. ^ Murray, Rebecca. “Morena Baccarin on 'Serenity', Joss Whedon, and 'Wonder Woman'”. About.com. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 2 năm 2007. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2017.
  41. ^ “Priyanka to play Wonder Woman?”. Metro. 6 tháng 12 năm 2006. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2017.
  42. ^ Whedon, Joss (ngày 2 tháng 2 năm 2007). “Satin Tights No Longer”. Whedonesque. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 2 năm 2007. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2007.
  43. ^ Siegel, Tatiana; Kit, Borys (ngày 1 tháng 2 năm 2007). “Another 'Wonder Woman' for WB”. The Hollywood Reporter. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2016.
  44. ^ Rotten, Ryan; Douglas, Edward (ngày 25 tháng 3 năm 2007). “Joel Silver's Wonder Woman Update”. SuperHeroHype.com. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2007.
  45. ^ Sanchez, Stephanie (ngày 18 tháng 4 năm 2008). “Wonder Woman Still in Development says Joel Silver”. IESB. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2008.
  46. ^ Szalai, Georg (ngày 27 tháng 5 năm 2010). “Warner Bros. sets 'Sherlock' sequel date; 'Flash' close to greenlight”. Heatvisionblog.com. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 6 năm 2010.
  47. ^ Shaw, Lucas; Lang, Brent (ngày 12 tháng 6 năm 2013). “Why 'Man of Steel' Holds the Key to Warner Bros.' Future Franchises”. TheWrap.com. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2017.
  48. ^ Handel, Jonathan. “Warner Bros.' Kevin Tsujihara Talks 'Gravity,' J.K. Rowling and Tentpole Strategy”. The Hollywood Reporter.
  49. ^ “Bridesmaids and The Heat Director Paul Feig Pitched a Wonder Woman Movie to Warner Bros”. IGN.
  50. ^ Trumbore, Dave (ngày 21 tháng 3 năm 2016). “How Powerful Will Wonder Woman Be in 'Batman v Superman'?”. Collider.
  51. ^ Kilday, Gregg; Kit, Borys (ngày 23 tháng 10 năm 2014). “29 Superhero Movies Through 2020: A Breakdown of What's Coming”. The Hollywood Reporter. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2014.
  52. ^ Kroll, Justin (ngày 12 tháng 11 năm 2014). “Michelle MacLaren In Talks to Direct 'Wonder Woman' Movie”. Variety. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2014.
  53. ^ Kit, Borys (ngày 24 tháng 11 năm 2014). “Michelle MacLaren Signs to Develop and Direct 'Wonder Woman' Movie”. The Hollywood Reporter. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2014.
  54. ^ Kit, Borys (ngày 4 tháng 12 năm 2014). “'Wonder Woman' Movie Lassoes 'Pan' Writer”. The Hollywood Reporter. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2014.
  55. ^ Kit, Borys (ngày 13 tháng 4 năm 2015). “'Wonder Woman' Movie Loses Director Michelle MacLaren”. The Hollywood Reporter. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2017.
  56. ^ Kit, Borys. “'Wonder Woman' Movie Finds a New Director”. The Hollywood Reporter. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2015.
  57. ^ “Wonder Woman – Official Movie Site”.
  58. ^ Ridgely, Charlie (ngày 6 tháng 3 năm 2017). “Geoff Johns' Role In Wonder Woman Explained”. Comicbook.com. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2017.
  59. ^ Sloan, Jodie B. (ngày 5 tháng 10 năm 2016). “Why Placing 'Wonder Woman' In World War I Could Work Wonders”. Moviepilot.com. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 11 năm 2016.
  60. ^ McBeth, Susie (ngày 14 tháng 10 năm 2014). “Batman vs Superman: Wonder Woman's origin revealed for Dawn of Justice film”. Metro. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2014.
  61. ^ “Upcoming Superman and Batman Film Casts Its Wonder Woman”. DC Comics. ngày 4 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2014.
  62. ^ Kroll, Justin. “'Wonder Woman' Gal Gadot Signs Three-Picture Deal with Warner Bros”. Variety. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2014.
  63. ^ Fleming, Mike (ngày 4 tháng 12 năm 2013). “Emerging Star Gal Gadot Set For Wonder Woman In 'Batman Vs. Superman'”. Deadline.com. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2013.
  64. ^ Begley, Chris. “Gal Gadot signed a 3 movie deal as Wonder Woman (video)”. Batman News. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2014.[cần nguồn tốt hơn]
  65. ^ Kroll, Justin (ngày 27 tháng 5 năm 2015). “Chris Pine in Talks to Co-Star in 'Wonder Woman'”. Variety. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2015.
  66. ^ Gonzalez, Umberto (ngày 11 tháng 9 năm 2015). “HOT RUMOR: Sean Bean & Eva Green Eyed For Villain Roles In 'Wonder Woman'”. Heroic Hollywood. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2015.[cần nguồn tốt hơn]
  67. ^ Sneider, Jeff (ngày 14 tháng 11 năm 2015). “French Actor Said Taghmaoui Joins Chris Pine in 'Wonder Woman'”. TheWrap. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2015.
  68. ^ Sneider, Jeff (ngày 2 tháng 11 năm 2015). “Nicole Kidman in Talks to Join Gal Gadot in 'Wonder Woman'”. TheWrap. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2015.
  69. ^ Kroll, Justin [@krolljvar] (ngày 18 tháng 12 năm 2015). “As you know Kidman's dates didn't work out so they are trying to figure out whether to just give Robin Wright that role or find another star” (Tweet). Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2015 – qua Twitter.
  70. ^ Kroll, Justin [@krolljvar] (ngày 18 tháng 12 năm 2015). “Don't know what role Wright currently has but it isn't Hippolyta like others believed, it's actually another role” (Tweet). Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2015 – qua Twitter.
  71. ^ Kroll, Justin [@krolljvar] (ngày 18 tháng 12 năm 2015). “In fact Wright's deal for her unknown role had closed before Kidman even had an offer, so we'll just have to see what ends up happening” (Tweet). Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2015 – qua Twitter.
  72. ^ “Wonder Woman: First Look at Chris Pine as Steve Trevor”. Screen Rant. ngày 13 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2015.
  73. ^ “Gal Gadot Tweets 'Wonder Woman' Photo, Signals Filming Is "Underway"”. Deadline. ngày 21 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2016.
  74. ^ “Production Weekly – Issue 960 – Thursday, ngày 27 tháng 8 năm 2015 / 211 Listings – 44 Pages”. Production Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 9 năm 2015.
  75. ^ Perry, Spencer (ngày 10 tháng 9 năm 2015). “Wonder Woman Movie to Begin Production in November”. ComingSoon.net. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2015.
  76. ^ Deehan, Tom (ngày 16 tháng 2 năm 2016). “Wonder Woman to film in multiple Italian locations”. Thelocationguide.com. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 10 năm 2016.
  77. ^ “Wonder Woman Filming in Palinuro and Camerota, Italy on March 24th”. Dccomicsmovie.com. ngày 28 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2016.[cần nguồn tốt hơn]
  78. ^ Lowe, Kinsey (ngày 21 tháng 11 năm 2015). “Gal Gadot Tweets 'Wonder Woman' Photo, Signals That Filming Is "Underway"”. Deadline.com. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2015.
  79. ^ 'Wonder Woman': First Official Image, Full Cast Revealed'”. Collider. ngày 21 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2015.
  80. ^ Varma, Arjun (ngày 14 tháng 3 năm 2016). “Wonder Woman officially wraps filming in London; will first trailer release at 2016 Comic Con?”. International Business Times. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2016.
  81. ^ “Is Gal Gadot headed to Gotham in 'Wonder Woman'?”. Batman News.[cần nguồn tốt hơn]
  82. ^ Jenkins, Patty [@pattyjenks] (ngày 10 tháng 5 năm 2016). “So happy and excited to have wrapped the first Wonder Woman film!! And one William Marston's birthday, no less! (WW's creator)” (Tweet). Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2017 – qua Twitter.
  83. ^ Armitage, Hugh (ngày 6 tháng 4 năm 2017). “Wonder Woman movie's look was inspired by someone very surprising”. Digital Spy. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2017.
  84. ^ Sperling, Nicole (ngày 25 tháng 4 năm 2017). “Gal Gadot did reshoots for Wonder Woman while pregnant”. Entertainment Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2017.
  85. ^ “Gersh, CEC, WPA Book Clients”. Variety. ngày 7 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2015.
  86. ^ “Wonder Woman Gets Hacksaw Ridge Composer”. Screen Rant (bằng tiếng Anh). ngày 3 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2017.
  87. ^ “Credits: Tom Howe”. tomhowe.co.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2017.
  88. ^ “Credits: Paul Mounsey”. hans-zimmer.com. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2017.
  89. ^ “Credits: Andrew Kawczynski”. hans-zimmer.com. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2017.
  90. ^ Rupert Gregson-Williams [@RupertGWilliams] (ngày 4 tháng 5 năm 2017). “Yes it'll be released on vinyl” (Tweet). Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2017 – qua Twitter.
  91. ^ “Sia's New Track, 'To Be Human,' Featured on 'Wonder Woman' Soundtrack”. Radio.com. ngày 11 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2017.
  92. ^ Stamell, Demeter (ngày 15 tháng 5 năm 2017). “Slim Gal Gadot shows off her postbaby body in a plunging dress as she joins Chris Pine at Wonder Woman premiere in Shanghai”. Daily Mail. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2017.
  93. ^ Evans, Greg (ngày 24 tháng 5 năm 2017). “'Wonder Woman' Luân Đôn Premiere Canceled After Manchester Attack; Ariana Grande Tour Dates Shelved”. Deadline.com. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2017.
  94. ^ Ford, Rebecca (ngày 6 tháng 4 năm 2016). “Warner Bros. Pushes 'Jungle Book' to 2018, 'Wonder Woman' Gets New Date”. The Hollywood Reporter. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2016.
  95. ^ Fischer, Russ (ngày 15 tháng 10 năm 2014). “DC Comics Movies Announced: 'Suicide Squad,' 'Wonder Woman,' 'Justice League,' 'The Flash,' 'Aquaman'”. /Film. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2014.
  96. ^ “IMAX and Warner Bros. Extend Deal to Include 12 More Films”. ComingSoon.net. ngày 19 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2016.
  97. ^ “Wonder Woman de Patty Jenkins avec Gal Gadot et Chris Pine”. cinenews.be. ngày 18 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2017.
  98. ^ “Wonder Woman- Réalisateur: Patty Jenkins”. CineBel. ngày 18 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2017.
  99. ^ Warner Bros. Belgium [@WarnerBrosBE] (ngày 13 tháng 3 năm 2017). “C'est la guerrière la plus redoutable. Gal Gadot est #WonderWoman, dès le 31 mai au cinéma” (Tweet) (bằng tiếng Pháp). Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2017 – qua Twitter.
  100. ^ “China Sets Release Dates for 'Pirates 5,' 'Transformers 5,' 'Wonder Woman,' More”. The Hollywood Reporter. ngày 17 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2017.
  101. ^ Mueller, Matthew (ngày 27 tháng 4 năm 2017). “How Supergirl Influenced Wonder Woman's Marketing”. Comicbook.com. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2017.
  102. ^ Rubin, Rebecca (ngày 23 tháng 5 năm 2017). “'Supergirl' Cast Unites to Promote 'Wonder Woman' Film”. Variety. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2017.
  103. ^ Desta, Yohana (ngày 28 tháng 4 năm 2017). “What's Going on with Wonder Woman”. Vanity Fair. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2017.
  104. ^ Gettell, Oliver (ngày 23 tháng 5 năm 2017). “Wonder Woman tops Fandango survey of most anticipated summer movies”. Entertainment Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2017.
  105. ^ Bearak, Max (ngày 1 tháng 6 năm 2017). “Lebanon bans 'Wonder Woman' in protest against Israeli actress Gal Gadot”. The Washington Post. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2017.
  106. ^ Keslassy, Elsa (ngày 7 tháng 6 năm 2017). “'Wonder Woman' Screenings Suspended in Tunisia Amid Opposition to Gal Gadot”. Variety.
  107. ^ “Jordan bans screening of "Wonder Woman" film over controversy”. Xinhua. 7 tháng 6 năm 2017.
  108. ^ “Exclusive: Jordan Will Not be Banning Wonder Woman”. Al Bawaba. 11 tháng 6 năm 2017.
  109. ^ a b Buckley, Cara (ngày 5 tháng 6 năm 2017). “Solidarity at an All-Female Screening of 'Wonder Woman'”. New York Times.
  110. ^ France, Lisa Respers (ngày 26 tháng 5 năm 2017). “'Wonder Woman' women-only screenings cause uproar”. CNN.
  111. ^ Holley, Peter (ngày 26 tháng 5 năm 2017). “'It's sexist': Men flip out over women-only 'Wonder Woman' screenings”. Washington Post.
  112. ^ Holley, Peter (ngày 1 tháng 6 năm 2017), “Why a gay law professor is trying to shut down women-only 'Wonder Woman' screenings”, The Washington Post
  113. ^ Hughes, Mark (ngày 26 tháng 5 năm 2017). “'Wonder Woman' Is Going To Be Bigger at the Box Office Than Estimates”. Forbes. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2017.
  114. ^ McClintock, Pamela (ngày 11 tháng 5 năm 2017). “'Wonder Woman' Tracking for Solid $65M Box-Office Debut”. The Hollywood Reporter. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2017.
  115. ^ 'Wonder Woman' Flies Onto Tracking With Projected $65M+ Opening, On Par With 'Thor' & 'Captain America', Deadline.com, ngày 12 tháng 5 năm 2017
  116. ^ Fuster, Jeremy (ngày 11 tháng 5 năm 2017). “Wonder Woman': Early Tracking for Debut All Over the Map, From $65 Million to $105 Million”. The Wrap. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2017.
  117. ^ Mendelson, Scott (ngày 11 tháng 5 năm 2017). “'Wonder Woman' Box Office: How Big Is Big Enough?”. Forbes. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2017.
  118. ^ D'Alessandro, Anthony (ngày 30 tháng 5 năm 2017). “'Wonder Woman': All The World Is Waiting For You As Warner Bros./DC Pic Eyes $175M+ Global Opening”. Deadline.com. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2017.
  119. ^ Mendelson, Scott (ngày 3 tháng 6 năm 2017). “Box Office: 'Wonder Woman' Soars To Record-Breaking $39M Friday”. Forbes. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2017.
  120. ^ Mendelson, Scott (ngày 2 tháng 6 năm 2017). “Box Office: 'Wonder Woman' Nabs Marvel-ous $11M Thursday”. Forbes. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2017.
  121. ^ McNary, Dave (ngày 2 tháng 6 năm 2017). “Box Office: 'Wonder Woman' Leaps to $11 Million on Thursday Night”. Variety. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2017.
  122. ^ McClintock, Pamela (ngày 5 tháng 6 năm 2017). “Box Office: 'Wonder Woman' Opens to Historic $103M”. Hollywood Reporter. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2017.
  123. ^ Mendelson, Scott (ngày 4 tháng 6 năm 2017). “Box Office: Five Ways 'Wonder Woman' Has Already Made History”. Forbes. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2017.
  124. ^ McClintock, Pamela (ngày 4 tháng 6 năm 2017). “Box Office: 'Wonder Woman' Opens to Historic $100.5M”. The Hollywood Reporter. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2017.
  125. ^ D'Alessandro, Anthony (ngày 4 tháng 6 năm 2017). “'Wonder Woman' Breaks Glass Ceiling For Female Directors & Stomps On 'Iron Man' With $100.5M Debut – Sunday AM”. Deadline.com.
  126. ^ 'Wonder Woman' Soars On Saturday; 'Mummy' Still Crummy – Sunday AM Box Office”. Deadline.com. ngày 11 tháng 6 năm 2017.
  127. ^ Tartaglione, Nancy (ngày 4 tháng 6 năm 2017). “'Wonder Woman' Lassos $122.5M Offshore, $223M Global Debut – International Box Office”. Deadline.com.
  128. ^ Graham, Adam. “Review: 'Wonder Woman' delivers action, humor, thrills”. The Detroit News. Adam Graham. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2017.
  129. ^ Taylor, Kate. “Review: Wonder Woman finally gives DC a superhero story that soars”. The Globe And Mail. Kate Taylor. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2017.
  130. ^ 'Wonder Woman review roundup - Critics conclude Patty Jenkins' film better than Batman v Superman”. The Independent. ngày 30 tháng 5 năm 2017.
  131. ^ 'Wonder Woman': What the Critics Are Saying”. The Hollywood Reporter. ngày 29 tháng 5 năm 2017.
  132. ^ “Wonder Woman (2017)”. Rotten Tomatoes. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2017.
  133. ^ D'Alessandro, Anthony (ngày 3 tháng 6 năm 2017). “'Wonder Woman' Breaks Glass Ceiling For Female Directors With $97M+ Debut; Earns 'A' CinemaScore”. Deadline.com.
  134. ^ Nashawaty, Chris (ngày 29 tháng 5 năm 2017). “Wonder Woman is the smart, satisfying DC movie you've been waiting for”. Entertainment Weekly. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2017.
  135. ^ Linden, Sheri (ngày 29 tháng 5 năm 2017). “'Wonder Woman': Film Review”. The Hollywood Reporter. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2017.
  136. ^ Barker, Andrew (ngày 29 tháng 5 năm 2017). “Film Review: 'Wonder Woman'”. Variety. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2017.
  137. ^ Scott, A.O. (ngày 31 tháng 5 năm 2017). “Review: 'Wonder Woman' Is a Blockbuster That Lets Itself Have Fun”. The New York Times. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2017.
  138. ^ Phillips, Michael (ngày 29 tháng 5 năm 2017). “'Wonder Woman' review: Finally, a DC Comics movie that works”. The Chicago Tribune. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2017.
  139. ^ Erbland, Katie (ngày 29 tháng 5 năm 2017). “'Wonder Woman' Is the DC Universe's Best Superhero Movie Yet, Proving the Future Is Very Much Female — Review”. IndieWire. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2017.
  140. ^ Duralde, Alonso (ngày 29 tháng 5 năm 2017). “'Wonder Woman' Review: Gal Gadot's Amazon Warrior Conquers Superhero Doldrums”. The Wrap. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2017.
  141. ^ 'Wonder Woman' saves the day, in more ways than one”. The Washington Post. Ann Hornaday. ngày 31 tháng 5 năm 2017.
  142. ^ Linden, Sheri (ngày 29 tháng 5 năm 2017). “'Wonder Woman': Film Review”. The Hollywood Reporter. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2017.
  143. ^ Nashawaty, Chris (ngày 29 tháng 5 năm 2017). “Wonder Woman is the smart, satisfying DC movie you've been waiting for”. Entertainment Weekly. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2017.
  144. ^ Rose, Steve (ngày 29 tháng 5 năm 2017). “Wonder Woman review – glass ceiling still intact as Gal Gadot reduced to weaponised Smurfette”. The Guardian. UK. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2017.
  145. ^ “What Wonder Woman 2 Should Be About, According To Patty Jenkins”. CINEMABLEND. ngày 21 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2017.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn] Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Wonder Woman: Nữ thần chiến binh.
  • Website chính thức
  • Wonder Woman trên Internet Movie Database
  • Wonder Woman tại Rotten Tomatoes
  • Wonder Woman tại Box Office Mojo
  • Wonder Woman tại Metacritic
Tiêu đề chuẩn Sửa dữ liệu tại Wikidata
  • BNE: XX5765774
  • CANTIC: a19631285
  • GND: 1163478474
  • LCCN: no2017073553
  • PLWABN: 9810575583505606
  • VIAF: 58153288233032650100
  • WorldCat Identities (via VIAF): 58153288233032650100
  • x
  • t
  • s
Wonder Woman
  • William Moulton Marston
  • Elizabeth Holloway Marston
  • H. G. Peter
  • Other contributors
Characters
Wonder Women
  • Diana Prince
  • Orana
  • Artemis of Bana-Mighdall
  • Hippolyta
  • Donna Troy
Supportingcharacters
  • Antiope
  • Aphrodite
  • Artemis
  • Artemis of Bana-Mighdall
  • Drusilla
  • Etta Candy
  • Fury
  • Hephaestus
  • Hera
  • Heracles/Hercules
  • Hermes
  • I Ching
  • Julia and Vanessa Kapatelis
  • Justice League
  • Mala
  • Nemesis (Thomas Tresser)
  • Nubia
  • The Olympian
  • Orion
  • Paula von Gunther
  • Philippus
  • Poseidon
  • Queen Hippolyta
  • Helena Sandsmark
  • Sarge Steel
  • Steve Trevor
  • Wonder Girl (Cassie Sandsmark / Donna Troy)
  • Zeus
  • Zola
Adversaries
  • Aegeus
  • Angle Man
  • Ares/Mars
  • Baron Blitzkrieg
  • Baroness Paula von Gunther
  • Blue Snowman
  • Veronica Cale
  • Captain Wonder
  • Cheetah
  • Circe
  • Dark Angel
  • Decay
  • Doctor Cyber
  • Doctor Poison
  • Doctor Psycho
  • Duke of Deception
  • Earl of Greed
  • Egg Fu/Chang Tzu
  • Eviless
  • The First Born
  • Genocide
  • Giganta
  • Grail
  • Hades
  • Hypnota
  • Kung
  • Lord Conquest/Count of Conquest
  • Mask
  • Medusa
  • Minister Blizzard
  • Osira
  • Queen Clea
  • Red Panzer
  • Silver Swan
  • Tezcatlipoca
  • Zara
Factions
  • Amazons of Themyscira
  • Amazons of Bana-Mighdall
  • Children of Ares
  • Godwatch
  • Gorilla Knights
  • Olympian Gods
  • Titans of Myth
  • Villainy Inc.
Locations
  • Aeaea
  • Thalarion
  • Themyscira (The Paradise Islands)
Publications
  • All Star Comics
  • Amazonia
  • Batman/Superman/Wonder Woman: Trinity
  • The Blue Amazon
  • Comic Cavalcade
  • The Legend of Wonder Woman
  • Sensation Comics
  • Superman and Wonder Woman: The Hidden Killer
  • Superman/Wonder Woman
  • Wonder Woman '77
  • The Wonder Woman Chronicles
  • Wonder Woman: Earth One
  • The World's Greatest Superheroes
Storylines
  • Gods and Mortals (1987)
  • Challenge of the Gods (1987–88)
  • War of the Gods (1991)
  • The Contest (1994)
  • The Challenge of Artemis (1995)
  • Paradise Island Lost (2001)
  • Our Worlds at War (2001)
  • The Hiketeia (2002)
  • Down to Earth (2003–04)
  • Who Is Wonder Woman? (2006–07)
  • Amazons Attack! (2007)
  • The Circle (2008)
  • Ends of the Earth (2008)
  • Rise of the Olympian (2009)
  • Flashpoint (2011)
  • The Lies (2016)
  • Year One (2016)
  • The Truth (2017)
  • Godwatch (2017)
Technology
  • Bracelets
  • Golden Girdle of Gaea
  • Invisible plane
  • Lasso of Truth
  • Mental radio
  • Pegasi
  • Purple Ray
  • Sky Kangas
In other media
  • Wonder Woman (1974 film)
  • Wonder Woman (TV series) (episodes)
  • Wonder Woman (2009 film)
  • Wonder Woman (2011 TV pilot)
  • Wonder Woman: Nữ thần chiến binh (phim 2017)
  • Wonder Woman 1984 (2020)
Miscellaneous
  • Alternative versions
    • Earth-Two
    • Bizarra
  • Olive Byrne
  • Cultural impact
  • Professor Marston and the Wonder Women
  • Literature
  • Wonder Women! The Untold Story of American Superheroines
  • Cổng thông tin Portal
  • Thể loại Category
  • x
  • t
  • s
Vũ trụ Mở rộng DC
Điện ảnh
Đã phát hành
  • Người đàn ông thép (2013)
  • Batman đại chiến Superman: Ánh sáng công lý (2016)
  • Biệt đội cảm tử (2016)
  • Wonder Woman: Nữ thần chiến binh (2017)
  • Liên minh Công lý (2017)
  • Aquaman: Đế vương Atlantis (2018)
  • Shazam! (2019)
  • Birds of Prey: Cuộc lột xác huy hoàng của Harley Quinn (2020)
  • Wonder Woman 1984: Nữ thần chiến binh (2020)
  • Liên minh Công lý phiên bản của Zack Snyder (2021)
  • Suicide Squad: Điệp vụ cảm tử (2021)
  • Black Adam (2022)
  • Shazam! Cơn thịnh nộ của các vị thần (2023)
  • Flash (2023)
  • Blue Beetle (2023)
Sắp ra mắt
  • Aquaman và Vương Quốc Thất Lạc (2023)
Truyền hình
  • Peacemaker (2022)
Nhạc phim
  • Man of Steel
  • Batman v Superman: Dawn of Justice
  • Suicide Squad
    • "Heathens"
    • "Sucker for Pain"
    • "Purple Lamborghini"
    • "Gangsta"
  • Wonder Woman
    • "To Be Human"
  • Justice League
Nhân vật
  • Barry Allen
  • Arthur Curry
  • Joker
  • Clark Kent
  • Diana Prince
  • Harley Quinn
  • Victor Stone
  • Bruce Wayne
  • Thể loại Thể loại
  • x
  • t
  • s
Danh sách phim điện ảnh người đóng dựa trên DC Comics
Truyền hình
  • Adventures of Captain Marvel
  • Spy Smasher
  • Batman
  • Hop Harrigan
  • The Vigilante
  • Superman
  • Congo Bill
  • Batman and Robin
  • Atom Man vs. Superman
  • Blackhawk
Phim lẻ
  • Supergirl
  • Steel
  • Road to Perdition
  • The League of Extraordinary Gentlemen
  • Catwoman
  • Constantine
  • A History of Violence
  • V for Vendetta
  • Người hùng báo thù
  • Quái kiệt thất thế
  • Jonah Hex
  • Green Lantern
  • Batman đại chiến Superman: Ánh sáng công lý
  • Liên minh Công lý
  • Shazam!
  • Birds of Prey: Cuộc lột xác huy hoàng của Harley Quinn
  • Batgirl
  • Black Adam
  • Flash
  • Blue Beetle
Nhượng quyền
Aquaman
  • Aquaman: Đế vương Atlantis (2018)
  • Aquaman và Vương Quốc Thất Lạc (2022)
Người Dơi
  • Batman
  • Batman
  • Batman Returns
  • Batman Forever
  • Batman & Robin
  • Huyền thoại Người Dơi
  • Kỵ sĩ bóng đêm
  • Kỵ sĩ bóng đêm trỗi dậy
  • Batman: Vạch trần sự thật
Joker
  • Joker (2019)
  • Joker: Điên có đôi (2024)
Shazam
  • Shazam! (2019)
  • Cơn thịnh nộ của các vị thần (2023)
Biệt đội cảm tử
  • Biệt đội cảm tử (2016)
  • Suicide Squad: Điệp vụ cảm tử (2021)
Siêu Nhân
  • Superman and the Mole Men
  • Stamp Day for Superman
  • Superman
  • Superman II
    • Bản cắt của Richard Donner
  • Superman III
  • Superman IV: The Quest for Peace
  • Siêu nhân trở lại
  • Người đàn ông thép
  • Superman
Swamp Thing
  • Swamp Thing
  • The Return of Swamp Thing
Wonder Woman
  • Wonder Woman: Nữ thần chiến binh
  • Wonder Woman 1984: Nữ thần chiến binh
DC Imprints
Phim lẻ
  • Road to Perdition (2002)
  • The League of Extraordinary Gentlemen (2003)
  • A History of Violence (2005)
  • V for Vendetta (2006)
  • Stardust (2007)
  • The Spirit (2008)
  • The Losers (2010)
  • The Kitchen (2019)
Red
  • C.I.A tái xuất
  • C.I.A tái xuất 2
Xem thêm
  • DC Films
  • Vũ trụ Mở rộng DC
  • Vũ trụ DC
  • Danh sách dự án chưa sản xuất của DC Comics
  • x
  • t
  • s
Giải BFCA cho phim điện ảnh hành động hay nhất
  • Kỵ sĩ bóng đêm (2008)
  • Avatar (2009)
  • Inception (2010)
  • Drive (2011)
  • Tử địa Skyfall (2012)
  • Sống sót (2013)
  • Vệ binh dải Ngân Hà (2014)
  • Max điên: Con đường tử thần (2015)
  • Hacksaw Ridge (2016)
  • Wonder Woman: Nữ thần chiến binh (2017)
  • Nhiệm vụ bất khả thi: Sụp đổ (2018)
  • Avengers: Hồi kết (2019)
  • x
  • t
  • s
Giải Hugo cho trình diễn chính kịch xuất sắc nhất, dạng dài
  • The Lord of the Rings: The Two Towers (2003)
  • The Lord of the Rings: The Return of the King (2004)
  • The Incredibles (2005)
  • Serenity (2006)
  • Pan's Labyrinth (2007)
  • Stardust (2008)
  • WALL·E (2009)
  • Moon (2010)
  • Inception (2011)
  • Game of Thrones (mùa 1) (2012)
  • Biệt đội siêu anh hùng (2013)
  • Gravity (2014)
  • Vệ binh dải Ngân Hà (2015)
  • Người về từ Sao Hỏa (2016)
  • Cuộc đổ bộ bí ẩn (phim) (2017)
  • Wonder Woman: Nữ thần chiến binh (2018)
  • x
  • t
  • s
Giải Empire cho phim giả tưởng hay nhất
  • Chiến tranh giữa các vì sao: Tập III – Sự báo thù của người Sith (2006)
  • Mê cung thần nông (2007)
  • Ánh sao ma thuật (2008)
  • Truy sát (2009)
  • Star Trek (2010)
  • Harry Potter và Bảo bối Tử thần – Phần 1 (2011)
  • Thor (2012)
  • Người Hobbit: Hành trình vô định (2013)
  • Người Hobbit: Đại chiến với rồng lửa (2014)
  • X-Men: Ngày cũ của tương lai (2015)
  • Star Wars: Thần lực thức tỉnh (2015)
  • Lời thỉnh cầu Quái vật (2017)
  • Wonder Woman: Nữ thần chiến binh (2018)

Từ khóa » Khả Năng Của Wonder Of You