Xuất Xứ Vở Kịch Hồn Trương Ba, Da Hàng Thịt Của Lưu Quang Vũ
Có thể bạn quan tâm
Xuất xứ vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ
* Xuất xứ:
Kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt được Lưu Quang Vũ sáng tác năm 1981 nhưng năm 1984 mới được công diễn. Và ngay lập tức nó đã đem lại cho tác giả thành công vang dội. Vở kịch được sáng tạo theo hướng khai thác cốt truyện dân gian để gửi gắm những suy ngấm về đời sống nhân sinh, về hạnh phúc, kết hợp phê phán một số hiện thực trong đời sống hiện thời. Có thể tóm tắt cốt truyện cổ dân gian thế này : Có ông Trương Ba rất giỏi đánh cờ, một hôm cao hứng xúc phạm ông tiên Đế Thích, vị thần chơi cờ trên Thiên đình. Đế Thích bèn hóa thân thành một ông cụ xuống trần đánh cho Trương Ba thua liểng xiểng . Song, cũng từ đó, họ mến tài nhau, kết làm bạn thân. Khi Đế Thích về trời có cho Trương Ba cây nhang, hẹn nếu gặp khó khăn thì thắp nén hương làm hiệu, ông sẽ giúp. Sau đó, Trương Ba chẳng may chết đột ngột. Một tháng sau, người vợ thấy có cây nhang giắt trên mái gianh bèn đem đốt. Ông Đế Thích liền xuống thăm hỏi thì biết Trương Ba đã chết. Thương tiếc Trương Ba, Đế Thích làm cho hồn Trương Ba sống lại trong xác ông hàng thịt vừa mới chết. Nhưng cũng từ đó, xảy ra chuyện tranh chấp giữa hai người vợ, phải đưa lên quan xử. Quan tiến hành phép thử bằng cách ra lệnh cho đương sự lần lượt làm hai việc : mổ lợn và đánh cờ và thế là quan quyết định Tương Ba chiến thắng, vợ Trương Ba đưa chồng (có thân xác là anh hàng thịt ) về nhà.
Cốt truyện dân gian đến đó kết thúc. Nhưng với Lưu Quang Vũ, câu chuyện chưa thể hết được. Ông Trương Ba làm sao có thể sống yên ổn trong cái xác của anh hàng thịt ? Và nhà viết kịch đã sáng tạo ra một vở kịch mới mà phần đóng góp đáng kể nhất, thể hiện rõ nét nhất tư tưởng của tác giả chính là đoạn trích học trong SGK Ngữ văn 12.
Kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt gồm bảy cảnh. Đoạn trích là một phần của cảnh 7 – cảnh cuối của vở kịch. Đấy là khi cuộc đối đầu giữa hồn Trương Ba và xác anh hàng thịt lên đến cao trào. Trong cuộc đối đầu ấy, hồn càng lúc càng bị xác lấn át. Không những thế hồn Trương Ba còn bị người thân trong gia đình nghi ngờ, mỗi lúc một xa lánh. Nỗi đau khổ của hồn Trương Ba lên đến đỉnh điểm để rồi phải đi tới quyết định cuối cùng : chấm dứt sự hiện diện của một tồn tại trớ trêu có tên gọi là “hồn Trương Ba, da hàng thịt”.
* Tóm tắt nội dung đoạn trích:
Cảm thấy không thể sống như này mãi, hồn Trương Ba muốn thoát khỏi thân xác anh hàng thịt. Điều này đã châm ngòi cho cuộc đối thoại gay gắt giữa hồn và xác. Trong cuộc đối thoại này, xác hàng thịt càng lúc càng thắng thế và kết quả là hồn Trương Ba lại phải trở về chỗ cũ. Vì phải tồn tại trong thân xác anh hàng thịt thô lỗ, phàm tục nên hành động của Trương Ba đã không còn như xưa. Điều này khiến cho những người thân trong gia đình của ông (vợ, cháu gái, con dâu) đều thấy buồn lòng và xa lánh Trương Ba. Đau đớn cực độ, Trương Ba đốt hương để gặp Đế Thích. Đế Thích thuyết phục Trương Ba chấp nhận cuộc sống hiện tại hoặc nhập vào thân xác cu Tị để bảo toàn sự sống. Nhưng Trương Ba đã quyết định dứt khoát : không nhập thân vào bất cứ ai nữa. Trương Ba không còn nữa nhưng hồn ông vẫn còn mãi giữa màu xanh cây vườn, “trong những điều tốt lành của cuộc đời” và trong kí ức yêu thương của những người thân.
- Phân tích đoạn kịch “Hồn Trương ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ.
- Suy nghĩ về mối quan hệ giữa “bên ngoài và bên trong“ qua vở kịch “Hồn Trương Ba da hàng thịt“ (Lưu Quang Vũ)
Dàn bài phân tích đoạn kịch HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT (Lưu Quang Vũ)
- Mở bài:
– Lưu Quang Vũ (1948 – 1988) là nhà soạn kịch, nhà thơ và nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam. Ông là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, vẽ tranh, viết truyện… nhưng thành công nhất là sáng tác kịch. Lưu Quang Vũ trở thành hiện tượng đăc biệt của sân khấu kịch Việt Nam thế kỉ XX, là nhà viết kịch tài năng nhất của văn học Việt Nam hiện đại.
– Lưu Quang Vũ viết vở kịch “Hồn Trương Ba da hàng thịt” năm 1981, năm 1984 thì ra mắt công chúng. Vở kịch dựa vào câu chuyện dân gian, nhưng đã có những thay đổi cơ bản. Đoạn kịch tập trung diễn tả tình cảnh trớ trêu, nỗi đau khổ, giày vò của Trương Ba từ khi “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”. Từ đó đưa đến những tư tưởng mới : sự tồn tại độc lập của thân xác đối với linh hồn và khẳng định một quan niệm đúng đắn về cách sống.
- Thân bài:
1. Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt.
– Trương Ba được trả lại sự sống nhưng đó là một cuộc sống đáng hổ thẹn, vì phải sống chung với sự dung tục và bị sự dung tục đồng hóa.
– Ông xem xác chỉ là cái vỏ bên ngoài, âm u, đui mù, không có ý nghĩa gì hết, không có tư tưởng, không có cảm xúc, nếu có thì chỉ là những thứ thấp kém. Hồn Trương Ba phủ nhận vai trò của xác anh hàng thịt
– Thái độ đi từ quả quyết, mạnh mẽ sang ấp úng, bịt tai lại, tuyệt vọng.
→ Hồn Trương Ba cho rằng mình vẫn có một đời sống nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn.
– Xác anh hàng thịt cho rằng hồn Trương Ba không thể tách khỏi xác anh hàng thịt, mọi việc làm, hành động của hồn Trương Ba đều chịu sự chi phối của xác anh hàng thịt
– Thái độ đi từ giễu cợt sang quả quyết, mạnh mẽ, lấn át và cuối cùng thắng thế
– Kết quả: phần thắng thuộc về xác anh hàng thịt.
→ Khi con người phải sống trong dung tục thì tất yếu cái dung tục ấy sẽ ngư trị, thắng thế và sẽ tàn phá những gì trong sạch cao quý của con người.
– Linh hồn và thể xác là hai phương diện tồn tại trong mỗi con người. Đừng “bỏ bê” thân xác để chỉ biết đến một thứ linh hồn chung chung trừu tượng không thuộc về một ai trên cõi thế gian này.
→ Cuộc đấu tranh giữa linh hồn và xác thịt là cuộc đấu tranh giữa đạo đức và tội lỗi, giữa khát vọng và dục vọng, giữa phần “người” và phần “con” trong mỗi con người.
2. Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và những người thân.
– Hồn Trương Ba cho rằng mình vẫn có một đời sống riêng, nguyên vẹn, trong sạch và thẳng thắn
– Những người thân trong gia đình:
+ Vợ Trương Ba: đau đớn, khóc lóc, nhận ra Trương Ba không còn là Trương Ba của ngày xưa, “ông đâu còn là ông”
+ Cháu gái: giận dữ, quyết liệt, phản đối nhất mực, cho rằng ông mình đã chết àm thay vào đó là một Trương ba vô cùng vụng về, thô lỗ, phũ phàng
+ Con dâu: cảm thông, chia sẻ và yêu thương với ông nhưng vẫn thấy không còn nhận ra Trương Ba của trước đây nữa
→ Mỗi người trong gia đình ở một vị trí, một thái độ khác nhau nhưng đều có điểm chung là thấy Trương Ba đã thay đổi, không còn nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn.
– Sau đối thoại, Trương Ba vỡ lẽ, nhận ra sự thay đổi của bản thân và sự lấn át của phần xác đối với phần hồn trong ông.→ Mâu thuẫn kịch lên đến đỉnh điểm.
→ Tình huống bi kịch thúc đẩy hồn Trương Ba phải lựa chọn với sự phản kháng mãnh liệt “chẳng còn cách nào khác…, Không cần đến cái đời sống do mày mang lại. Không cần”. Con người phải đấu tranh với nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung tục để hoàn thiện nhân cách.
3. Màn đối thoại giữa Hồn Trương Ba và Đế Thích.
– Trương Ba giác ngộ về ý thức: Không được bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết.
+ Không thể sống với bất cứ giá nào được. Có những cái giá quá đắt, không thể trả được… tâm hồn tôi lại trở lại thanh thản, trong sáng như xưa.
→ Con người sống cần có sự hài hào giữa thể xác và tâm hồn, cần được sống là chính mình và cần phải sống có ý nghĩa.
⇒ Đế Thích có cái nhìn hời hợt, phiến diện về con người. Trương Ba có ý thức sâu sắc về ý nghĩa của sự sống: Sống thực cho ra một con người không phải là điều đơn giản- Hồn và Xác phải hài hòa, không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục tội lỗi.
4. Ý nghĩa màn kết.
– Trương Ba trả xác cho anh hàng thịt; chấp nhận cái chết để được là chính mình và linh hồn được trong sạch.
– Hóa thân vào cây cỏ, các sự vật thân thương để tồn tại vĩnh viễn bên cạnh những người thân yêu với niềm tin cuộc sống vẫn tuần hoàn theo quy luật của muôn đời.
– Bi kịch mang âm hưởng lạc quan; thông điệp về sự chiến thắng của cái Thiện – cái Đẹp – của cuộc sống đích thực.
→ Bi kịch của con người khi bị đặt vào nghịch cảnh: Phải sống vay mượn, sống tạm bợ và trái với tự nhiên khiến tâm hồn nhân hậu, thanh cao bị nhiễm độc và tha hóa bởi sự lấn át của thể xác thô lỗ, phàm tục. Vẻ đẹp tâm hồn của những người lao động trong cuộc đấu tranh chống lại sự giả tạo và dung tục, bảo vệ quyền được sống đích thực cùng khát vọng hoàn thiện nhân cách.
– Cách kết thúc vở kịch: Đoạn kết có ý nghĩa rất to lớn nó có tác dụng thúc đẩy ý chí nhận thức của con người về cách sống để tránh làm cho tâm hồn của mình bị tổn thương, không hoán đổi thân xác và sống nhờ vào thân xác của người khác.Được sống làm người quý giá thật nhưng được sống đúng mình, sống trọn vẹn những giá trị mình vốn có và theo đuổi còn quý giá hơn.
5. Nghệ thuật biểu hiện:
– Sự hấp dẫn của kịch bản văn học và nghệ thuật sân khấu.
– Sự kết hợp giữa tính hiện đại với các giá trị truyền thống.
– Nghệ thuật dựng cảnh, dựng đối thoại, độc thoại nội tâm.
– Hành động của nhân vật kịch phù hợp với hoàn cảnh, tính cách, góp phần phát triển tình huống kịch.
– Kết hợp hài hòa sự phê phán quyết liệt và chất trữ tình đằm thắm, bay bổng.
- Kết bài:
– Được sống làm người thật là quý giá nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn với những giá trị mình muốn có và theo đuổi còn quý giá hơn. Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi người ta được sống tự nhiên với sự hài hoà giữa tâm hồn và thể xác. Con người phải luôn luôn đấu tranh với những nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung tục, để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.
Phân tích đoạn kịch HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT (trích) của Lưu Quang Vũ.
- Mở bài:
– Lưu Quang Vũ (1948- 1988) là nhà thơ, nhà viết kịch xuất sắc của nền văn học Việt Nam thế kỷ XX. Có thẻ nói, ông là người có công lớn nhất trong việc xây dựng nền kịch Việt Nam.
– Kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” được Lưu Quang Vũ sáng tác năm 1981 nhưng năm 1984 mới được công diễn. Và ngay lập tức nó đã đem lại cho tác giả thành công vang dội. Vở kịch được sáng tạo theo hướng khai thác cốt truyện dân gian để gửi gắm những suy ngấm về đời sống nhân sinh, về hạnh phúc, kết hợp phê phán một số hiện thực trong đời sống hiện thời.
- Thân bài:
– Kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt gồm bảy cảnh. Đoạn trích là một phần của cảnh 7 – cảnh cuối của vở kịch. Đấy là khi cuộc đối đầu giữa hồn Trương Ba và xác anh hàng thịt lên đến cao trào. Trong cuộc đối đầu ấy, hồn càng lúc càng bị xác lấn át. Không những thế hồn Trương Ba còn bị người thân trong gia đình nghi ngờ, mỗi lúc một xa lánh. Nỗi đau khổ của hồn Trương Ba lên đến đỉnh điểm để rồi phải đi tới quyết định cuối cùng : chấm dứt sự hiện diện của một tồn tại trớ trêu có tên gọi là “hồn Trương Ba, da hàng thịt”.
– Cảm thấy không thể sống như này mãi, hồn Trương Ba muốn thoát khỏi thân xác anh hàng thịt. Điều này đã châm ngòi cho cuộc đối thoại gay gắt giữa hồn và xác. Trong cuộc đối thoại này, xác hàng thịt càng lúc càng thắng thế và kết quả là hồn Trương Ba lại phải trở về chỗ cũ. Vì phải tồn tại trong thân xác anh hàng thịt thô lỗ, phàm tục nên hành động của Trương Ba đã không còn như xưa. Điều này khiến cho những người thân trong gia đình của ông (vợ, cháu gái, con dâu) đều thấy buồn lòng và xa lánh Trương Ba. Đau đớn cực độ, Trương Ba đốt hương để gặp Đế Thích. Đế Thích thuyết phục Trương Ba chấp nhận cuộc sống hiện tại hoặc nhập vào thân xác cu Tị để bảo toàn sự sống. Nhưng Trương Ba đã quyết định dứt khoát : không nhập thân vào bất cứ ai nữa. Trương Ba không còn nữa nhưng hồn ông vẫn còn mãi giữa màu xanh cây vườn, “trong những điều tốt lành của cuộc đời” và trong kí ức yêu thương của những người thân.
1. Nhân vật Trương Ba.
– Tình huống kịch của Lưu Quang Vũ bắt đầu từ chỗ kết thúc tích truyện nhân gian: sau khi hồn Trương Ba được sống hợp pháp trong xác hàng thịt, cuộc sống vay mượn trái tự nhiên bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo đã làm phát sinh những mâu thuẫn giữa hồn và xác. Mâu thuẫn càng phát triển khi linh hồn thanh cao dần bị tha hóa trước sự đòi hỏi, lấn át của thân xác thô phàm – Trương Ba trở nên xa lạ với những người thân trong gia đình, với bạn bè và tự chán ghét, ghê sợ chính mình. Xung đột được đẩy lên tới đỉnh điểm khi Trương Ba không chịu nổi tình cảnh của mình, chấp nhận cái chết vĩnh viễn. Đoạn trích chính là một phần cảnh 7, cảnh cuối cùng của vở kịch, khi xung đôt kịch lên tới cao trào và kết thúc bằng cái chết của hồn Trương Ba.
a. Hoàn cảnh bi kịch:
– Trương Ba phải sống trong bi kịch đau khổ trong cuộc sống không phải của mình. Sau những nhầm lẫn và sửa chữa oái oăm của người nhà Trời, để có thể tiếp tục được sống, hồn Trương Ba phải trú nhờ vào thân xác thô kệch của anh hàng thịt – đó là nghịch cảnh phi lí, trái tự nhiên, là hoàn cảnh trớ trêu mà hồn Trương Ba buộc phải chấp nhận, quy phục. Đây cũng là mâu thuẫn lớn nhất của tấn bi kịch mang tên hồn Trương Ba, da hàng thịt. Như vậy, bắt đầu từ kết thúc có vẻ có hậu của cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã đặt ra những vấn đề lớn lao trong cuộc sống con người: Khi người ta cố gắng sống với bất cứ bằng giá nào, họ có tìm thấy hạnh phúc hay không? Con người sẽ ra sao nếu không được sống là chính mình, không được sống trọn vẹn với những phẩm chất giá trị mình vốn có và theo đuổi? Liệu con người có thể giữ cho mình những giá trị tinh thần cao quý khi phải chấp nhận sống chung với những dung tục, có tránh được sự tha hóa khi thường xuyên phải thỏa mãn những ham muốn vật chất tầm thường?
– Hoàn cảnh bi kịch của Trương Ba với sức mạnh sai khiến ghê gớm, sự cám dỗ khó lòng cưỡng lại của cái dung tục, tầm thường đã được cụ thể hóa trong thân xác anh hàng thịt. Trước hết, thân xác ấy được miêu tả như một biểu tượng đáng ghê sợ của hoàn cảnh sống dung tục: từ hình dáng kềnh càng thô lỗ tới cái dạ dày đòi hỏi mỗi bữa ăn tám chín bát cơm, từ những ham muốn thấp kém mà bất cứcon thú nào cũng có được: thèm ăn ngon, thèm rượu thịt… Cho đến những dục vọng xấu xa. Đó là xác thịt âm u đui mù nhưng tiếng nói xui khiến của nó lại có sức mạnh ghê gớm, thậm chí có khả năng sai khiến kể cả những linh hồn thanh sạch, cao khiết nhất. Hơn một lần, xác hàng thịt đã khẳng định sự phụ thuộc của hồn Trương Ba đối với nó – Tôi là cái hoàn cảnh mà ông buộc phải quy phục… ông không tách ra khỏi tôi được đâu… Phải sống hòa thuận với nhau thôi… hai ta đã hòa với nhau làm một rồi.
– Quả là, một khi đã chấp nhận cuộc sống vay mượn, chắp vá, cuộc sống không phải của mình vì sư đánh đổi cho một mưu cầu nào đó, con người rất khó thoát ra khỏi sự chi phối nghiệt ngã của hoàn cảnh sống ấy. Xác hàng thịt còn ve vãn hồn Trương Ba bằng cái lí lẽ ti tiện nhưng có sức hấp dẫn ghê gớm, cái lí lẽ mà chính hồn Trương Ba có lẽ đã nhiều lần từng âm thầm tự nói với mình, tự an ủi, gột rửa mình cho trong sạch: Trương Ba vẫn sẽ làm mọi việc để thỏa mãn những thèm khát của xác hàng thịt, và hình như càng ngày càng là thềm khát của chính Trương Ba, nhưng sau đó cứ việc đổ tội cho xác, đó là cách giúp con người thỏa mãn được những đòi hỏi tầm thường của thân xác lại vừa giữ được cảm giác thanh thản cho linh hồn! Theo cách nói của xác hàng thịt, đó là trò chơi tâm hồn, thực chất là phương cách hèn nhát mà con người thường dung để lừa dối chính mình và cuộc đời!
→ Phải sống nhờ vào những yếu tố phẩm chất bên ngoài, không được sống với con người thực của mình, hoàn toàn phụ thuộc vào hoàn cảnh sống dung tục, bị nó chi phối, sai khiến – đó là một trong những bi kịch đau đớn nhất của con người.
b. Sự tha hóa của con người trong cuộc sống không phải của mình.
Sự tha hóa của Trương Ba trong hoàn cảnh sống nhờ vào thân xác người khác đã được Lưu Quang Vũ thể hiện rõ nét qua cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt, qua sự bối rối, khổ sở, bế tắc của hồn Trương Ba và sự đắc thắng lợi những lí lẽ trâng tráo nhưng đầy sức thuyết phục của xác hàng thịt.
– Xác hàng thịt chỉ đã chỉ rõ sự tha hóa không tránh khỏi của hồn Trương Ba khi Trương Ba phải nhờ vào nó để tồn tại: Nhờ tôi mà ông có thể làm lụng, cuốc xới. Ông nhìn ngắm đất trời, cây cối, những người thân…, ông cảm nhận thế giới này qua những giác quan của tôi. Thực chất, khi phải chấp nhận hoàn cảnh trớ trêu, nghiệt ngã để tiếp tục duy trì sự sống, Trương Ba hầu như không còn được sống theo cách riêng của mình, linh hồn toàn lệ thuộc vào những yếu tố vật chất của thân xác, tồn tại qua thân xác, cái thân xác không phải của mình. Mà trong sự nhìn nhận, đánh giá của cộng đồng thì nhân cách của một con người bao giờ cũng thể hiện qua lời nói, việc làm, cách hành xử… những việc được thực hiện bằng đôi mắt, bàn tay, tiếng nói của thân xác. Đó là nguyên nhân khiến linh hồn của Trương Ba rơi vào tình trạng bất lực trước sự sai khiến ghê gớm của thân xác âm u đui mù.
– Sự tha hóa của Trương Ba đã được thể hiện qua rất nhiều bình diện và diễn ra ở nhiều mức độ. Bây giờ, Trương Ba ăn bằng miệng của xác hàng thịt; ham muốn những món tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi và đủ thứ vị khác theo khẩu vị của xác hàng thịt; tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại… khi đứng cạnh vợ hàng thịt; người làm vườn khéo léo, nhẹ nhàng ngày xưa, nay trở nên vụng về, thô lỗ, khi ông chiết cây cam, bàn tay giết lợn của ông làm gãy tiệt cái chồi non, chân ông to be như cái xẻng, giẫm nát cả cây sâm quý mới ươm… những cử chỉ phũ phàng của ông làm gãy cả nan, rách cả giấy, hỏng mất cái diều đẹp mà cu Tị rất quý… Tuy nhiên, sự tha hóa của Trương Ba không còn dừng lại trong những hành động phụ thuộc vào xác hàng thịt nữa, ngay cả linh hồn Trương Ba cũng đã thay đổi, từ cách sống, cách nghĩ, cách ứng xử, cách dạy con… Trương Ba xưa kia hiền lành nho nhã, hết lòng yêu thương vợ con, sống chân thật ngay thẳng, trong sạch, đôn hậu với nghề làm vườn, nay dần bước vào con đường bán mua lươn lẹo, kết thân với phú hào, chức sắc, xa lánh bà con lối xóm. Ông bắt đầu ngụy biện theo cách tính toán của hàng thịt: “Phải thay đổi để sống chứ, việc chi tiêu trong nhà càng lúc càng nhiều trong khi cuộc sống càng lúc càng khó khăn”.
→ Qua màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt, có thể thấy: Trương Ba có được cuộc sống nhưng là cuộc sống đáng hổ thẹn vì phải sống nhờ vào thân xác thô kệch của anh hàng thịt, bị nó chi phối, đồng hóa, thậm chí lôi kéo thỏa hiệp trong cách sống giả dối với mình, với người. Bi kịch của Trương Ba chính là lời cảnh báo về những tác động tiêu cực của hoàn cảnh sống đối với con người: khi con người phải sống trong sự dung tục thì sớm muộn, cái dung tục cũng sẽ ngự trị, thắng thế, sẽ lấn át hủy hoại những gì trong sạch, đẹp đẽ, cao quý trong con người.
c. Hậu quả đau khổ trước sự tha hóa.
– Ý thức được sự tha hóa của mình, hồn Trương Ba dằn vặt đau khổ, ông đã cố chối bỏ, chống trả nhưng bất lực. Đặc biệt, khi đối diện với những người Trương Ba yêu thương, những người vốn rất yêu thương Trương Ba trước đây, hồn Trương Ba càng cảm nhận sâu sắc hơn sự đau khổ mình đã gây ra cho họ, cũng thấy rõ hơn tình cảnh tuyệt vọng của mình.
– Vợ Trương Ba buồn bã, đau khổ vì nhận ra: ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa. Người vợ hiểu rất rõ Trương Ba bây giờ hoàn toàn bị sự sai khiến mạnh mẽ của cái bên ngoài ông, Trương Ba khó có thể cưỡng lại ý muốn của cái thân xác ông đang phải sống nhờ, và vì thế, Trương Ba không còn khả năng sống với những ý muốn tốt đẹp của người làm vườn chăm chỉ, đôn hậu ngày xưa nữa: ông bảo không được nhưng tôi biết rồi sự thể sẽ dẫn đến như vậy, ông sẽ đành ưng chịu như vậy… với trái tim vị tha nhân hậu của người vợ, bà thấu hiểu cái bất hạnh, đau khổ của Trương Ba trong sống không phải của mình, bà càng đau khổ hơn vì không thể giúp Trương Ba thay đổi hoàn cảnh bế tắc của ông. Tuy nhiên, dù thấu hiểu và sót thương, vợ Trương Ba vẫn khó có thể đối diện với người chồng đang hòa nhập với thân xác đồ tẻ nên muốn bỏ đi. Chính Trương Ba cũng ý thức được nỗi đau khổ của vợ, ông nói với người con dâu: thầy đã làm u khổ.Có lẽ cái ngày u chôn xác thầy xuống đất, tưởng thầy đã chết hẳn, u cũng không khổ như bây giờ. Nỗi đau khổ của người vợ nhân hậu, vị tha khiến Trương Ba càng nhận rõ bi kịch không lối thoát của mình.
– Con dâu Trương Ba cũng thấu hiểu và xót thương cho hoàn cảnh trớ trêu của bố chồng, chị cũng hiểu bây giờ, trong thân xác hàng thịt, Trương Ba khổ hơn xưa nhiều lắm. Chị thương cho tình cảnh sống nhờ, sống vay mượn trái tự nhiên của Trương Ba, càng thương hơn cho sự thay đổikhông tránh khỏi của bố chồng: Thầy bảo con: cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, … mỗi ngày, thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả mọi thứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi … Nỗi lòng chân thành của người con dâu hiếu thảo đã phản ánh chính xác bi kịch của Trương Ba: trong cảm nhận của những người thân yêu, Trương Ba hiền hậu, vui vẻ, tốt lành ngày xưa cứ bị cuốn xa dần, nhòa mờ dần phía sau những biểu hiện thô lỗ, phàm tục của thân xác đồ tể – nơi chứa đựng linh hồn ông. Bi kịch tha hóa của Trương Ba đã hiện rõ qua cảm nhận của người con dâu: chính con cũng không nhận ra thầy nữa; bi kịch ấy càng đau xót hơn trong ước mong vô vọng của chị: làm sao giữ được thầy ở lại, hiền hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con xưa kia?
– Quyết liệt và dữ dội nhất là thái độ của cái Gái – đứa cháu yêu quý ông nội sâu sắc. Tâm hồn trong sáng ngây thơ của nó tuyệt đối không thể chấp nhận những dàn xếp trái tự nhiên của thế giới thần tiên những thỏa hiệp kì lạ của thế giới người lớn, đặc biệt không chấp nhận nổi sự tồn tại giả dối, quái gở của cái gọi là hồn Trương Ba – da hàng thịt. Càng yêu quý, nhớ thương ông nội, cái Gái càng trân trọng, nâng niu những kỉ niệm về ông, từ đôi guốc gỗ, bó đóm thuốc lào, nhất là những cây thuốc trong vườn; nó chỉ sống với những kí ức thiêng liêng về người ông chăm chỉ, nhẹ nhàng, khéo léo, gắn bó với vườn cây, người ông nội hiền hậu luôn dành tình cảm trìu mến yêu thương cho nó, cho cu Tị… Kiên quyết phủ nhận hồn Trương Ba trong thân xác hàng thịt, cái Gái gọi ông là Lão đồ tể – cách gọi cho thấy thái độ rành mạch, dứt khoát với nghiệt ngã của trẻ thơ, với cái Gái, con người mang thân xác hàng thịt, với bàn tay giết lợn, với bàn chân to bè như cái xẻng, với những cử chỉ thô lỗ phũ phàng kia chỉ có thể là lão đồ tể xấu xa, độc ác mà cả nó và cu Tị đều căm ghét.
– Thậm chí, ngay cả đứa con trai thực dụng cũng chẳng còn tôn trọng ông: “Cha bây giờ không còn là cha trước đây nữa. Cha tôi hồi đó không bao giờ đánh tôi nên tôi rất kính trọng ông. Cha bây giờ cũng gian dối, đang sống nhờ bằng cái xác ăn cắp của người khác đó thôi….”.
→ Những nỗi niềm hoặc buồn bã, đau khổ, hoặc thương xót, bất lực, hoặc căm ghét, chối bỏ của người thân đã khẳng định sự tha hóa đáng buồn, đáng thương, cũng đáng sợ, đáng ghét của Trương Ba khi phải sống nhờ vào thân xác hàng thịt, cũng làm đậm thêm nỗi đau khổ tuyệt vọng của một người ý thức sâu sắc bi kịch đánh mất mình.
d. Cuộc chiến đấu kiên cường và quyết định dũng cảm để tự giải thoát khỏi bi kịch – hành trình tìm lại chính mình.
– Phải để linh hồn trong sạch, cao khiết của mình sông nhờ trogn thân xác thô phàm của anh hàng thịt, ý thức sâu sắc mình đang dần bị đồng hóa, hồn Trương Ba ngày càng thấy không thể chấp nhận kiểu sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo, ông thấy chán ghét, ghê sợ cái thân xác không phải của mình: Tôi không muốn sống như thế này mãi – tôi chán cái chỗ ở không phải của tôi này lắm rồi.
– Sau cuộc nói chuyện với những người thân, Trương Ba đã đứng trước tình huống phải lựa chọn quyết liệt – trong lời độc thoại nội tâm, hồn Trương Ba đã đi từ sự tuyệt vọng khi cay đắng thừa nhận thất bại của linh hồn trước sự đồng hóa của thân xác: mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ, mày đã tìm được đủ mọi cách để lấn át ta…, đến sự phản kháng bướng bỉnh: nhưng có lẽ nào ta lại thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình? Thách thức xác hàng thịt: có thật là không còn cách nào khác? Cuối cùng là lời khẳng định kiên cường: không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần! Trong thời gian sống nhờ vào xác hàng thịt, không ít lần hồn Trương Ba đã cố hết sức để có thể sống đúng như con người mình trước đây, nhưng càng cố gắng bao nhiêu thì kết quả dường như lại tai hại bấy nhiêu. Bởi khi ấy, hồn Trương Ba vẫn cần trú nhờ vào xác hàng thịt, nghĩa là vẫn cần cái đời sống do xác hàng thịt mang lại, tình cảnh phụ thuộc hoàn toàn khiến sự chi phối, đồng hóa của thân xác với linh hồn là không tránh khỏi. Hướng giải thoát duy nhất giúp Trương Ba thoát khỏi bi kịch đã hiện ra qua lời tuyên bố: không cần đến cái đời sống do mày mang lại!
– Trong màn đối thoại với Đế Thích, Trương Ba đã tiếp tục phải đấu tranh với những lời thuyết phục, những giải pháp xuất phát từ thiện ý của Đế Thích, đã dần đi đến quyết định cuối cùng, kiên quyết chối từ cuộc sống chắp vá, vay mượn, bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo, ông muốn được sống là mình một cách toàn vẹn. Ông đã thoát ra khỏi sức cám dỗ của những lí lẽ đã từng giúp ông yên lòng bám víu vào cuộc sống không phải của mình, những lí lẽ mà khi xác hàng thịt nói ra, ông đã xấu hổ vì nhận thấy sự ti tiện giả dối; sự chối từ của Trương Ba với cuộc sống vay mượn, chắp vá đưa đến một thông điệp: con người luôn phải có sự thống nhất hài hòa giữa hồn và xác, giữa bản chất và biểu hiện, giữa bên trong và bên ngoài, không thể có một tâm hồn thanh quý trong một thân xác thô phàm; khi con người bị chi phối bởi những ham muốn tầm thường, bản năng của thân xác thì không thể chỉ đổ tội cho thân xác, không thể tự vỗ về, an ủi mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn với sự ngụy biện: cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong.
– Trương Ba đã không tìm thấy sự an ủi hay bào chữa cho mình theo thực tế cách sống của số đông khi nghe Đế Thích khẳng định: cả ở dưới đất lẫn trên trời, không phải tất cả mọi người đều được là mình toàn vẹn, không phải bao giờ con người cũng được sống theo những điều mình nghĩ bên trong… nhiều khi người ta cũng phải khuôn ép mình cho xứng với danh vị bên ngoài…, Trương Ba cho rằng: sống nhờ vào đồ đạc của cải người khác đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt – bất chấp sự thuyết phục của lí thuyết số đông, Trương Ba vẫn không chấp nhận nổi tấn bi kịch của một cuộc sống giả dối, vay mượn, đáng xấu hổ. Ông cũng không chấp nhận việc Đế Thích thay cách sửa sai này bằng một cách sửa sai khác khi đề nghị để hồn ông nhập vào xác cu Tị.
– Hình dung ra những phiền toái rắc rối khi một con người từng trải như Trương Ba phải sống trong thân xác của một đứa trẻ lên mười – mà thực ra, làm trẻ con không phải dễ; và nhất là lại tiếp tục sống một cuộc sống giả tạo không phải của chính mình, để rồi, khi những người cùng trang lứa lần lượt nằm xuống, Trương Ba sẽ phải sống bơ vơ lạc lõng giữa đám người hậu sinh tựa như một ông khách ngồi dai ở nhà người ta, những hình dung ấy cùng tình thương với mẹ con cu Tị đã giúp Trương Ba đủ dũng cảm để kiên quyết chối từ những cuộc sống không phải của mình, dù là trong bất cứ giải pháp nào. Nghe Đế Thích nói về sự hư vô đáng sợ của cái chết: ra khỏi thân xác, hồn chẳng còn là gì nữa!…ông sẽ không còn lại một chút gì nữa, không được tham dự vào bất cứ nỗi vui buồn gì! Rồi đây, ngay cả sự ân hận về quyết định này, ông cũng không có được nữa; Trương Ba vẫn kiên cường đối diện với sự thật khốc liệt bao giờ cũng là đáng sợ với con người, đó là cái chết.
– Giống như tất cả mọi người trong cuộc đời này, Trương Ba cũng ham sống, ông càng khao khát được sống bên những người ông yêu thương và cũng rất yêu thương ông, nhất là khi cái chết của ông lại do sự nhầm lẫn của quan thiên đình, cuộc sống hiện tại của ông là do sự sửa sai của họ, nhưng theo ông, có những cái sai không thể sửa được. Chắp vá gượng ép chỉ càng làm sai thêm. Khi đã trải qua bi kịch hồn Trương Ba, da hàng thịt, bi kịch trong cuộc sống không phải của mình, Trương Ba khẳng định chua xót và thấm thía: sống thế này, còn khổ hơn là cái chết. Với một người nhân hậu như Trương Ba, ông còn day dứt về sự sống vay mượn giả tạo của mình đã đem đến đau khổ cho những người thân, khiến ông không còn đủ tư cách để khuyên con trai mình đi vào con đường ngay thẳng, đã khiến gia đình thân yêu của ông như sắp tan hoang ra cả… Đó là những cái giá quá đắt cho cả Trương Ba và gia đình ông, cái giá mà ông không thể trả dù là cho sự sống quý giá của chính mình!
– Trương Ba đã cầu tiên Đế Thích cho ông được chết, xóa bỏ sự tồn tại của cái vật quái gở mang tên hồn Trương Ba, da hàng thịt. Đó là quyết định khiến ông cảm thấy mình lại là Trương Ba thật, thấy tâm hồn mình trở lại thanh thản,trong sáng như xưa… Quyết đinh dũng cảm, trung thực đã giúp ông có thể tự tin dạy con lời tha thiết cuối cùng: “Không thể sống bằng mọi giá đâu con ơi. Sống đảo điên, hèn hạ, không được là chính mình còn tệ hơn cái chết!”. Quyết định của Trương Ba cho thấy ông là con người nhân hậu, trung thực và giàu lòng tự trọng, là con người yêu cuộc sống nhưng cũng ý thức sâu sắc được ý nghĩacủa cuộc sống đích thực. Đoạn kết của vở kịch như một khúc vĩ thanh đầy chất thơ, thanh thoát và sâu lắng đã đem đến âm hưởng lạc quan cho tác phẩm, đó là niềm tin vào sự chiến thắng cuối cùng của cái Đẹp, cái Thiện, của sự sống đích thực. Chấp nhận cái chết, Trương Ba đã tìm lại được sự trong sạch cho linh hồn mình, hóa thân vào các sự vật bình dị, gần gũi, thân thương, tồn tại vĩnh viễn trong kí ức và tình yêu của những người thân. Cuộc sống lại tuần hoàn miên viễn theo quy luật bình dị muôn đời.
2. Ý nghĩa của những cuộc đối thoại giữa Trương Ba với mọi người.
a. Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt.
– Từ ngày nhập vào xác anh hàng thịt, Trương Ba đã phải sống trong hàng loạt mâu thuẫn. Ông không quen với cái xác mới của mình bởi ông đã 50 tuổi, còn xác anh hàng thịt lại quá trẻ, mới 30. Ông Trương Ba vốn yếu đuối, lại bị hen, ăn ít, sống nho nhã còn anh hàng thịt thì mỗi bữa ăn tám chín bát cơm, thích ăn thịt, uống rượu xô bồ… Các mâu thuẫn đó cứ tăng dần lên, dẫn đến cuộc đối thoại gay gắt giữa hồn và xác. Hồn châm ngòi cho cuộc đối thoại bằng cách tách ra khỏi xác và quả quyết : xác “chỉ là những thứ thấp kém” của một con thú – cái bản năng thuần túy của loài vật, không có sự giáo hóa, không có văn minh.
– Trái lại, dù phải sống nhờ thể xác của anh hàng thịt nhưng hồn “vẫn có một đòii sống riêng : nguyên vẹn , trong sạch, thẳng thắn”. Với hồn, đời sống ấy tuy phải khu trú trong cái xác thô thiển nhưng vẫn giữ nguyên dược những giá trị tinh thần cao khiết. Phản bác lại hồn Trương Ba, xác anh hàng thịt cũng chẳng vừa : “ông không tách khỏi tôi được đâu, dù tôi chỉ là thân xác”. “Lí lẽ” mà xác đưa ra là : “Hai ta đã hòa với nhau làm một rồi”, “ông phải tồn tại nhờ tôi, chiều theo những đòi hỏi của tôi”. Ông “chẳng có cách nào chối bỏ tôi được đâu” vì “tôi là cái hoàn cảnh mà ông buộc phải quy phục !”, “là cái bình để chứa đựng linh hồn”.
– Chưa hết, xác còn “chứng minh” ảnh hưởng “ghê gớm, lắm khi át cả cái linh hồn cao khiết” của hồn bằng những “dẫn chứng” cụ thể : “Khi ông ở bên nhà tôi… Khi ông đúng cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại…”, rồi “cái món tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi, và đủ các thứ thú vị khác… chẳng lẽ ông không tham dự vào chút đỉnh gì ?”. Còn nữa, “cơn giận của ông lại có thêm sức mạnh của tôi” đã giúp “ ông tát thằng con ông tóe máu mồm máu mũi”… Cuộc đối thoại cứ thế tiếp diễn đến khi xác “đề xuất giải pháp” cho sự tồn tại “hòa bình” mang tên “hồn Trương Ba , da hàng thịt” bằng “trò chơi tâm hồn”. “Luật chơi” là hồn cứ việc nghĩ mình cao khiết thánh thiện, làm điều gì xấu thì cứ đổ tội cho xác để được thanh thản. Bù lại hồn sẽ phải chấp nhận làm đủ mọi việc để “thỏa mãn những khát thèm” của xác.
– Trong cuộc đối thoại này, có thể thấy hồn Trương Ba càng lúc càng “đuối lí”. Từ chỗ cao giọng phủ nhận : “Vô lí, mày không thể biết nói !”, “Mày không có tiếng nói” đến chỗ chấp nhận xác có tiếng nói, dù đó là “tiếng gọi nơi hoang dã”(Jack London) của bản năng thấp kém, tầm thường. Từ chỗ phủ định quyết liệt những bằng chứng “hai năm rõ mười” của xác đến chỗ không dám trả lời, lúng túng trong câu hỏi đứt quãng : “Ta…ta… đã bảo mày im đi!”. Từ chỗ hăng hái đấu lí, sẵn sàng đáp lại tất cả những lí lẽ xác đưa ra đến chỗ “bịt tai lại” “Ta không muốn nghe mày nữa!”. Từ cách xưng hô “ mày” – “ta” vào đầu cuộc đối thoại đến chỗ đổi cách xưng hô mà xác đã tinh ý phát hiện ra : “Ấy đấy, ông bắt đầu gọi tôi là anh rồi đấy !”. Từ đầy khí thế đấu tranh đến tiếng kêu “ trời” “như tuyệt vọng” và nhất là phải “bần thần nhập lại vào xác thịt”. Như vậy, sự đuối lí của hồn Trương Ba càng lúc càng rõ, nó khiến cho ta có cảm giác hồn đã bị dồn vào con đường cụt không lối thoát, phải chấp nhận sự an bài, đồng ý với giải pháp “hòa thuận” – “hồn Trương Ba, da hàng thịt” mà xác đưa ra. Đây cũng chính là bi kịch “sống nhờ”, sống không được đúng là chính mình, phụ thuộc vào thân xác của kẻ khác của hồn Trương Ba.
– Trái lại với hồn Trương Ba, xác hàng thịt mỗi lúc một lấn lướt. Xác chủ động “tuyên chiến” khi hồn khao khát được tồn tại độc lập riêng mình. Xác thách thức, giễu cợt, mỉa mai : “có đấy!” , “có tiếng nói đấy!” , “có thật thế không?”. Xác cao giọng, khoái chí đòi hồn phải “thành thật trả lời!”. Xác biết rõ người ta nghĩ gì về mình, đồng thời cũng tỏ ra thấu hiểu từ điệu bộ lúng túng bên ngoài đến những biện luận bên trong lòng tìm kiếm sự thanh thản và vô tội của hồn. Xác “lợi khẩu” khi đưa ra lí lẽ. Xác “mềm dẻo” trong thuyết phục, tranh luận. Khi thì sử dụng lí lẽ, lúc lại đưa ra bằng chứng. Khi thì cao giọng thách thức, lúc buồn rầu thanh minh. Khi thì đắc ý, tinh quái, lúc lại vuốt ve xoa dịu. Vừa dụ dỗ, mua chuộc, vừa trắng trợn phỉ báng. Xác đã chứng tỏ được ưu thế của nó, uy quyền của nó và sự chi phối khủng khiếp của nó bằng kết cục của màn đối thoại : “ cái hồn ương bướng “ lại tìm về với chỗ trú thân là xác anh hàng thịt. Sự thắng thế của xác đã cho thấy hồn đã ngộ nhận về chính mình. Sau bấy nhiêu chuyện đã xảy ra mà hồn vẫn cho rằng mình “ nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn “ và đổ mọi tội lỗi cho xác. Không phải ngẫu nhiên xác khẳng định “ tác giả “ của “ trò chơi tâm hồn” không ai khác ngoài “ những điều ông vẫn tự nói với mình và với người khác đấy chứ”. Xác chỉ làm nhiệm vụ “ tổng kết” và phát biểu “ luật chơi” cho rõ ràng, cụ thể mà thôi.
→ Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt chưa đựng một hàm ý xâu xa, cũng là tư tưởng nghệ thuật của nhà văn: linh hồn và thể xác là hai phương diện tồn tại trong mỗi con người. Có thể nào sống mà không cần đến dáng hình, thân thể? Nhưng lẽ nào đời sống của con người lại chỉ thu gọn trong những nhu cầu thuần túy bản năng? Đừng “bỏ bê” thân xác để chỉ biết đến một thứ linh hồn chung chung trừu tượng không thuộc về một ai trên cõi thế gian này, nhưng cũng đừng chỉ chạy theo những khát thèm của xác thịt mà trở về với hồng hoang nguyên thủy. Cuộc đấu tranh giữa linh hồn và thân xác chính là cuộc đấu tranh giữa đạo đức và tội lỗi, giữa khát vọng và dục vọng, giữa phần “ người” và phần “ con” trong mỗi con người. Với Trương Ba, nhân vật chính trong vở kịch này, cuộc đấu tranh ấy chỉ tạm lắng dịu, mâu thuẫn kịch từ chỗ trào lên, sôi sục, hóa thành “ khẩu chiến” giữa hồn với xác, tạm thời được nén xuống âm ỷ, nhức nhối bên trong để nhất định phải biến thành hành đồng hóa giải mâu thuẫn, cởi nút cho cái bi kịch này.
b. Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và những người thân.
– Một trong những tiền đề quan trọng để hồn Trương Ba đi đến quyết định cuối cùng, hóa giải mâu thuẫn là cảm nhận rõ rệt và đau đớn về bi kịch sống nhờ, sống tạm, trái lẽ tự nhiên. Bi kịch ấy càng trở lên rõ ràng và giày vò Trương Ba khi những người thân yêu nhất đã hiểu sai về ông, đã không còn coi ông như trước. Ngay cả khi họ rất thông cảm với ông thì những lời nói, những hành động trái với bản chất vốn có của ông cũng khiến họ bị tổn thương nặng nề và khó chấp nhận.
– Đây là câu nói trong nước mắt đau đớn, yêu thương, giận dỗi và bế tắc của người vợ: “Tôi biết, ông vốn là người hết lòng yêu thương vợ con… Chỉ tại bây giờ… Ông đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa” , “Ông bây giờ còn biết đến ai nữa!”.
– Và đây nữa, câu trả lời bực tức, dằn hắt của đứa cháu hồn nhiên, ngây thơ, chưa hiểu thấu cái lắt léo của những bi kịch cuộc đời cùng tiếng khóc nức nở của nó: “Nếu ông nội tôi hiện về được, hồn ông nội tôi sẽ bóp cổ ông!”, “Từ nay ông không được động vào cây cối trong vườn ông tôi nữa! Ông mà quý cây à? Sáng qua, tôi để ý ông triết cây cam, bàn tay giết lợn của ông làm gãy tiệt cái trồi non, chân ông to bè như cái xẻng, giẫm nát cả cây sâm quý mới ươm! Ông nội đời nào thô lỗ phũ phàng như vậy”, “Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!”.
– Người thương và hiểu Trương Ba nhất là chị con dâu. Chị còn thương ông hơn bởi chị “ biết giờ thầy khổ hơn xưa nhiều lắm”. Song, ngay cả chị cũng phải thốt lên: “Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy… mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa […] thầy ơi, làm sao, làm sao giữ được thầy ở lại, hiền hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con xưa kia ? Làm thế nào, thầy ơi ?”.
– Thế là đã rõ, trong thân thể anh hàng thịt, Trương Ba đã không còn là mình. Tất cả những người thân đều đã nhận thấy và đau đớn, lo lắng, bàng hoàng, bế tắc khi nói ra điều đó. Thể xác đang xâm chiếm, đang lấn lướt linh hồn, đang tha hóa cái linh hồn ấy. Tiếng nói, tiếng cười đắc thắng, hợm hĩnh của xác đang vang vọng đâu đây. Bi kịch sống nhờ của Trương Ba, đến đây, có thể coi là lến đến đỉnh điểm.
– Biết mình như vậy trong mắt người thân, hồn Trương Ba đau đớn tột cùng. Vì ông mà tất cả người thân yêu nhất đều phải khóc. Người vợ yêu thương rưng rưng trong dòng nước mắt tủi thân tủi phận, chua chát, dằn dỗi. Đứa cháu gái vỡ òa trong tiếng khóc tức tưởi không hiểu sao ông nội thân yêu, gần gũi lại trở thành một người “xấu lắm, ác lắm”. Chị con dâu bàng hoàng trong dòng nước mắt sẻ chia và bế tắc, muốn thương, muốn níu giữ hình ảnh của thầy mà không biết phải làm thế nào. Vì ông mà nhà cửa toang hoang. Anh con trai định bán khu vườn để mở cửa hàng thịt, còn vợ ông thì định bỏ đi thật xa để ông được thảnh thơi với cô vợ hàng thịt. Đây là lúc Trương Ba “thẫn thờ”, “bế tắc”, “run rẩy” trong nỗi đau, “lặng ngắt như tảng đá” để rồi nhận thấy: “Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ, mày đã tìm được đủ mọi cách để lẩn át ta”. Một sự vỡ lẽ vừa bàng hoàng, vừa chua chát đã dẫn đến quyết định dứt khoát ở Trương Ba, đẩy tình huống kịch vào độ căng quyết liệt hơn: “Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình?”, ta “không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!”. Những câu độc thoại nội tâm được nói to ước lệ trên sân khấu kịch đã phơi trải cơn bão tố dữ dội và đau đớn của hồn Trương Ba trong cuộc đấu tranh giành giật lại bản thân từ bàn tay thô bạo của “con quỷ dữ bản năng” ở nhân vật Trương Ba. Và đó chính là điểm mấu dẫn đến hành động Trương Ba “đứng dậy, lập cập nhưng quả quyết”, thắp hương, châm lửa gọi Đế Thích.
c. Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và Đế Thích.
– Bi kịch của Trương Ba đến đây đã lên tới đỉnh điểm và đòi hỏi phải được “cởi nút”. Và không ai khác, chính Trương Ba đã trực tiếp “cởi nút” hóa giải bi kịch của cuộc đời mình bằng hành động thắp hương gọi Đế Thích xuống trần gian để thông báo một quyết định hệ trọng: đã đến lúc phải chấm dứt “cái vật quái gở mang tên: Hồn Trương Ba, da hàng thịt”. Quyết định này bắt nguồn từ một bước ngoặt quan trọng trong nhận thức của nhân vật. Từ chỗ ngộ nhận “Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn” đến chỗ nhận thức một cách rõ ràng, dứt khoát “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được”. “Tôi muốn được là tôi toàn vẹn” .
– Từ chỗ cho rằng “Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong” đến việc cảm nhận một cách thấm thía và cay đắng: “Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác, đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!”, “Không thể sống với bất cứ giá nào được […]. Có những cái giá đắt quá, không thể trả được”. Đây thực sự là một cuộc cách mạng trong nhận thức của Trương Ba bởi sau những gì đã diễn ra, hồn Trương Ba đã “giác ngộ” hơn ai hết cái chân lý giản dị mà không dễ dàng: được sống là chính mình – “được là tôi toàn vẹn”. “Là tôi toàn vẹn” tức là dám là mình, dám chịu trách nhiệm về mình, cũng có nghĩa là dám từ bỏ cái “trò chơi tâm hồn” nào đó mình đang tự biện minh để tìm kiếm sự thanh thản giả tạo. Đừng ngộ nhận rằng sẽ có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Cũng đừng “đổ vấy” cho thân xác khi chạy theo ma lực âm u, đui mù, xui khiến của bản năng.
– Thoát li thân xác, tâm hồn chỉ là một thứ siêu hình, một vật trang sức, để tự vỗ về an ủi kiểu AQ. Rời bỏ tâm hồn, thân xác chỉ còn là “tiếng gọi nơi hoang dã”. Ham sống, muốn được sống là khao khát tự nhiên của mỗi con người. Nhưng…nếu cái giá phải trả đắt quá, nếu người ta phải trả cho sự tồn tại của mình bằng “cước phí” tâm hồn thì nhất định không thể sống như vậy được! Cho nên, “Là tôi toàn vẹn” – cái điều tưởng chừng đơn giản nhưng hóa ra lại chẳng dễ dàng chút nào. Để ngộ ra điều đó, Trương Ba đã phải bước qua bao nhiêu trải nghiệm đắng cay, kể cả việc phải hứng chịu bi kịch đớn đau dành cho chính mình và những người thân yêu nhất.
– Với quyết định xin Đế Thích cho cu Tị được sống lại, trả thân xác cho anh hàng thịt, còn mình thì “không nhập vào hình thù ai nữa” “Tôi đã chết rồi, hãy để tôi chết hẳn!” hồn Trương Ba đã trở lại là mình “nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”. Nhưng để thực sự “nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”, hồn Trương Ba còn phải trải qua một “phép thử” nữa trước khi bước tới thế giới của sự thanh thản vĩnh hằng. Cái phép thử có tên “cu Tị”. Bảo rằng nhân vật không phải đấu tranh gì nữa, cứ thế “lời nói đi đôi với việc làm” em lại biến Trương Ba thành Đế Thích mất rồi. Trương Ba là ông nông dân hiền lành, chất phác. Trương Ba yêu gia đình, quý vợ con, thương cháu gái. Trương Ba gắn bó với mái nhà và mảnh vườn thân thuộc. Bạn đọc tưởng “tôi không ham sống hay sao?”. Thế nên, Trương Ba cần suy nghĩ trước gợi ý bất ngờ của tiên Đế Thích: Nhập vào cu Tị. “Thử hình dung xem nào…sẽ phải giải thích cho chị Lụa […]. Rồi còn hàng xóm, lí trưởng, trương tuần […]. Bà vợ tôi, các con tôi […]. Cái Gái nhà tôi […]”.
– Đặt mình vào viễn cảnh “nhập vai” đó, hồn Trương Ba đã thay tác giả mà phát biểu những suy nghĩ đầy chất thơ, cũng thấm đẫm triết lí về hạnh phúc, về lẽ sống, chết ở đời: “Trẻ con phải ra trẻ con, người lớn phải ra người lớn”, “Mình tôi giữa đám người hậu sinh. Những gì chúng thích thì tôi ghét, những gì tôi thích thì chúng chẳng ưa. Tôi sẽ không khách ngồi dai ở nhà người ta”. Đó là sự lựa chọn dũng cảm. Chấp nhận cái chết, chấp nhận sự hư vô để “được là tôi toàn vẹn”. Lựa chọn của Trương Ba là tất yếu vì ông đã thấm thía cái bi kịch đau đớn của cảnh không được là mình, “giác ngộ” chân lý đích thực của sự sống, đã trải qua sự đấu tranh ở một tâm hồn thanh cao, trong sáng, vượt lên nghịch cảnh.
– Bi kịch của Trương Ba và gia đình ông rất gần gũi với những vấn đề của cuộc sống xã hội thời hiện đại. Tình huống kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt dồn dập, căng thẳng xoay quanh nhiều nhân vật từ tiên thánh trên trời đến người trần nơi hạ giới khiến ý nghĩa tác phẩm được mở rộng và nâng cao. Vở kịch đưa đến nhiều tầng ý nghĩa từ phê phán thói làm việc vô trách nhiệm gây hậu quả tai hại; lên án những kẻ chức sắc tham ô, hối lộ, sách nhiễu dân chúng, nhưng quan trọng nhất là những thông điệp sâu sắc: Cuộc sống với những thành công, tiền tài, tình yêu… thật đáng quý, nhưng không thể sống bằng mọi giá; con người sẽ phải trả giá đau đớn nếu bất chấp tất cả để đạt mục đích, để thỏa mãn những ham muốn vị kỉ; những giá trị tinh thần cao quý sẽ dần bị tha hóa nếu con người phải sống lệ thuộc vào hoàn cảnh sống dung tục bên ngoài; cuộc sống của con người chỉ thực sự hạnh phúc, thực sự có ý nghĩa, có giá trị khi được sống đúng là mình, khi được sống hài hòa giữa linh hồn và thân xác, giữa bản chất thật bên trong và những biểu hiện bên ngoài!
- Kết bài:
– Kịch của Lưu Quang Vũ là sự hòa quyện nhuần nhuyễn giữa tính thời sự và những vấn đề muôn thủa. Từ một câu truyện dân gian, Lưu Quang Vũ cảnh báo về các hiện tượng: Con người chỉ chạy theo những ham muốn tầm thường về vật chất, chỉ thích hưởng thụ, sống dung tục, tầm thường; lấy cớ tâm hồn là quý, đời sống tinh thần mới là đáng trọng để bỏ bê những nhu cầu nâng cao đời sống vật chất; sống giả, không giám và cũng không được sống thật với bản thân mình. Đó là những nguy cơ đẩy con người đến chỗ tha hóa.
– Thông qua vở kịch, tác giả muốn gửi gắm thông điệp: Được sống làm người quý giá thật, nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn những giá trị mình vốn có và theo đuổi còn quý giá hơn. Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với sự hài hòa giữa thể xác và tâm hồn. Con người phải luôn luôn biết đấu tranh với những nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung tục để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.
* MỘT SỐ ĐỀ LUYỆN TẬP.
Đề 1. Nêu xuất xứ trích đoạn kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt và cho biết tư tưởng nghệ thuật của Lưu Quang Vũ qua trích đoạn này.
Đề 2. Theo anh (chị), hàm ý mà tác giả muốn thể hiện qua đoạn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt là gì?
Đề 3. Hãy chỉ ra sự khác nhau trong quan niệm của Trương Ba và Đế Thích về ý nghĩa sự sống. Từ đó, nêu ý nghĩa tư tưởng của đoạn trích.
Đề 4. Trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt, có một lời thoại quan trọng “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Anh/chị hãy phân tích tình huống éo le của nhân vật Hồn Trương Ba trong xác anh hàng thịt để làm sáng tỏ lời thoại trên.
Đề 5. Phân tích mối tương quan đối lập giữa Hồn Trương Ba và xác anh hàng thịt trong vở kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt của Lưu Quang Vũ. Chỉ ra những điểm khác nhau cơ bản của hai nhân vật này.
Từ khóa » Vở Kịch Hồn Trương Ba Da Hàng Thịt Gồm Có Mấy Cảnh
-
Tác Giả - Tác Phẩm: Hồn Trương Ba, Da Hàng Thịt (Hoàn Cảnh Sáng ...
-
Hồn Trương Ba, Da Hàng Thịt - Lưu Quang Vũ - Tác Phẩm Lớp 12
-
Kiến Thức Bài Hồn Trương Ba, Da Hàng Thịt - Lưu Quang Vũ
-
Hồn Trương Ba, Da Hàng Thịt (kịch) – Wikipedia Tiếng Việt
-
Hồn Trương Ba, Da Hàng Thịt - Tác Giả Tác Phẩm (mới 2022)
-
Hồn Trương Ba Da Hàng Thịt - Tác Giả, Nội Dung, Bố Cục, Tóm Tắt, Dàn ý
-
Hồn Trương Ba, Da Hàng Thịt - Lưu Quang Vũ - Ngữ Văn 12
-
Hồn Trương Ba Da Hàng Thịt - Lưu Quang Vũ
-
Từ đoạn Trích Cảnh 7 Của Vở Kịch Hồn Trương Ba, Da Hàng Thịt
-
Hoàn Cảnh Ra đời Hồn Trương Ba, Da Hàng Thịt
-
Hoàn Cảnh Ra đời Hồn Trương Ba Da Hàng Thịt - Khoa Học
-
Trình Bày Hoàn Cảnh Ra đời Của Vở Kịch “Hồn Trương Ba- Da Hàng Thịt”
-
Top 9 Bài Phân Tích Hồn Trương Ba Da Hàng Thịt Hay Chọn Lọc
-
Phân Tích Bi Kịch Của Hồn Trương Ba Hay Nhất (7 Mẫu) - Văn 12