ý Nghĩa Ngày Nay Của Học Thuyết Về Giá Trị Thặng Dư Của C. Mác
Có thể bạn quan tâm
- Home
- GIỚI THIỆU
- KINH NGHIỆM HỌC TẬP VÀ ĐÀO TẠO LUẬT
- CÙNG HỌC LUẬT DÂN SỰ
- E-LECTURES
-
“Làm điều đúng, không bao giờ là sớm quá.“
Jane Austen
More >>>
-
“Cần có quy hoạch khu kinh tế đêm, không thể để bên này hoạt động, bên kia ngủ quên”.
Ông Nguyễn Văn Hùng – Bộ trưởng Bộ VHTTDL, phát biểu tại Phiên họp chất vấn, Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV, ngày 04-06/6/2024.
(Source: kinhtemoitruong.vn)
More >>>
CHUYÊN MỤC
- BÀI VIẾT CỦA SINH VIÊN (14)
- CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI (358)
- Cùng suy ngẫm (142)
- Góc tết (31)
- Đọc và chia sẻ (21)
- CÂU CHUYỆN PHÁP LUẬT (734)
- DỰ THẢO CHÍNH SÁCH & VBPL (85)
- E-LECTURES (2)
- GIỚI VÀ PHÁT TRIỂN (161)
- Dư luận xã hội về BĐG (30)
- VBPL về Giới và Phát triển (9)
- KINH NGHIỆM SƯ PHẠM (369)
- Kinh nghiệm học tập (155)
- Kinh nghiệm đào tạo (241)
- Trí thức và vai trò của trí thức (46)
- Thăm dò dư luận (8)
- VBPL về GD&ĐT (17)
- LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT (1.089)
- Xã hội, nhà nước và pháp luật nước ngoài (324)
- Xã hội, nhà nước và pháp luật Việt Nam (816)
- Nhà nước và nền KTTT (330)
- LUẬT DÂN SỰ (2.501)
- 1. SỬA ĐỔI BLDS 2005 (462)
- 2. QUI ĐỊNH CHUNG (527)
- Chủ thể (243)
- Quyền nhân thân (132)
- Giao dịch – Đại diện – Thời hiệu (99)
- Lý luận chung (101)
- Tài sản (96)
- Chủ thể (243)
- 3. VẬT QUYỀN (467)
- Chiếm hữu (24)
- Quy định chung về vật quyền (41)
- Quyền sở hữu (408)
- Cổ phần hóa (55)
- Vật quyền khác (63)
- 4. TRÁI QUYỀN (902)
- Hợp đồng (413)
- Quy định chung về nghĩa vụ và bảo đảm nghĩa vụ (285)
- Trách nhiệm dân sự (273)
- TNDS do tài sản gây thiệt hại (18)
- 5. THỪA KẾ (62)
- 6. QHDS CÓ YTNN (17)
- 7. TÌNH HUỐNG THỰC TIỄN (526)
- 8. LUẬT DÂN SỰ NƯỚC NGOÀI (129)
- 9. VBPL Dân sự (266)
- LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH (352)
- 1. LÝ LUẬN CHUNG (72)
- ĐỐI CHIẾU LUẬT HNGĐ 2014 (1)
- 2. HÔN NHÂN (99)
- Kết hôn (48)
- Ly hôn (27)
- Quan hệ nhân thân (5)
- Quan he tai san (18)
- 3. CHA MẸ VÀ CON (100)
- Nuôi con nuôi (32)
- Quan hệ nhân thân (28)
- Quan hệ tài sản (13)
- Xác định cha, mẹ, con (28)
- 4. QHHNGĐ CÓ YTNN (25)
- 5. Tình huống thực tiễn (109)
- 6. VBPL về HNGĐ (25)
- 1. LÝ LUẬN CHUNG (72)
- LUẬT KINH DOANH (1.192)
- 1. Lý luận chung (223)
- 2. Chủ thể kinh doanh (422)
- 3. Hợp đồng thương mại (128)
- 4. Bảo vệ người tiêu dùng (16)
- 5. Đầu tư (112)
- 6. Pháp luật cạnh tranh (179)
- 7. Tình huống thực tiễn (45)
- VBPL Kinh doanh (228)
- Tài chính – Tín dụng – Chứng khoán – Bảo hiểm (133)
- LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ & CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ (321)
- Tình huống thực tiễn (39)
- VBPL Shtt&Cgnn (24)
- LUẬT TÀI CHÍNH – TÍN DỤNG – CHỨNG KHOÁN – BẢO HIỂM (599)
- Thị trường chứng khoán (90)
- LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ (254)
- Chống bán phá giá (21)
- Chuyên đề WTO, TPP… (105)
- LUẬT ĐẤT ĐAI & KINH DOANH BĐS (329)
- Thị trường bất động sản (121)
- VBPL đất đai & BĐS (80)
- PHÁP LUẬT QUỐC TẾ (173)
- Tranh chấp Biển Đông và chủ quyền của Việt Nam (41)
- PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC DÂN SỰ (885)
- LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ (807)
- 1. Lý luận chung (126)
- 2. Người tham gia tố tụng (41)
- 3. Các giai đoạn tố tụng (60)
- 4. Tranh tụng và luật sư (79)
- 5. Quan điểm của Tòa án và về Tòa án (383)
- Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng (58)
- Thẩm quyền của Tòa án (96)
- 6. Thi hành án dân sự (119)
- 7. Tình huống tố tụng (155)
- 8. Tố tụng nước ngoài (91)
- PHÁP LUẬT VỀ TRỌNG TÀI (79)
- VBPL GQ vụ việc dân sự (75)
- LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ (807)
- PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG VÀ ASXH (324)
- VBPL LĐ & ASXH (110)
- SINH VIÊN VÀ THỰC TIỄN (6)
- TÀI LIỆU THAM KHẢO (168)
- THÔNG TIN TƯ VẤN (102)
- THUẬT NGỮ (44)
- VĂN BẢN PHÁP LUẬT NƯỚC NGOÀI (107)
- Điều ước quốc tế (58)
- ĐỀ CƯƠNG BÀI HỌC (34)
BÀI ĐƯỢC ĐỌC NHIỀU
- Một số tình huống về BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
- Khái quát về lịch sử ra đời, phát triển của Hồi giáo VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA HỒI GIÁO
- VÀI SO SÁNH giữa triết học phương Đông và triết học phương Tây
- CÁC KIỂU ĐẠO ĐỨC TRONG LỊCH SỬ, quan hệ giữa đạo đức với các hình thái xã hội khác
- TRANH CHẤP VỀ NHẬN NUÔI CON NUÔI: THẾ NÀO LÀ “NGƯỜI CÔ ĐƠN”
- VI PHẠM CƠ BẢN HỢP ĐỒNG
- Trách nhiệm tài sản của pháp nhân: HỮU HẠN HAY VÔ HẠN?
- PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG: Nguồn gốc và khái niệm
- “GIẢ THUYẾT” VÀ “GIẢ THIẾT” trong nghiên cứu khoa học
- THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LIÊN QUAN ĐẾN HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN VÀ KHUYẾN NGHỊ ĐỐI VỚI TRÁCH NHIỆM CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG
FORWARD
- GIỚI THIỆU
- CÙNG SUY NGẪM
- GÓC CỦA CIVILLAWINFOR
- KINH NGHIỆM HỌC TẬP VÀ ĐÀO TẠO LUẬT
- “IN-HOUSE COUNSEL” UNDER REVIEW: MỘT NGHỀ SINH VIÊN LUẬT CẦN TÌM HIỂU VÌ TƯƠNG LAI
- Ý KIẾN CỦA BẠN VỀ HÌNH THỨC, PHƯƠNG PHÁP KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ TRONG ĐÀO TẠO LUẬT HỌC
- CÂU CHUYỆN PHÁP LUẬT NƯỚC NGOÀI
- DANH NGÔN
- MẪU HỢP ĐỒNG – VĂN BẢN
- PHÁP LUẬT – VƯỚNG MẮC TỪ THỰC TIỄN VÀ QUAN ĐIỂM
- Ý KIẾN CHUYÊN GIA
- VẤN ĐỀ 1
- VẤN ĐỀ 2
- PHÁT NGÔN ẤN TƯỢNG
- QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM CỦA HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
- TÒA ÁN NHÂN DÂN VÀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP DÂN SỰ
- THỦ TỤC HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC DÂN SỰ
- CÙNG HỌC LUẬT DÂN SỰ
- E-LECTURES
- DIỄN ĐÀN LUẬT TÀI CHÍNH VÀ NGÂN HÀNG
- DIỄN ĐÀN LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
- DIỄN ĐÀN LUẬT THƯƠNG MẠI
- DIỄN ĐÀN LUẬT ĐẤT ĐAI VÀ BĐS
- DIỄN ĐÀN PHÁP LUẬT QUỐC TẾ
- DIỄN ĐÀN LUẬT HN&GĐ
- DIỄN ĐÀN LUẬT LAO ĐỘNG VÀ ASXH
- ENGLISH FOR LAW
- GIAO LƯU – CHIA SẺ
- GIỚI THIỆU
-
LƯU Ý: Nội dung các bài viết có thể liên quan đến quy phạm pháp luật còn hiệu lực, không còn hiệu lực hoặc mới chỉ là dự thảo.
KHUYẾN CÁO: Sử dụng thông tin trung thực, không ngoài mục đích hỗ trợ cho học tập, nghiên cứu khoa học, cuộc sống và công việc của chính bạn.
MONG RẰNG: Trích dẫn nguồn đầy đủ, để kiến thức là năng lực của chính bạn, để tôn trọng quyền của tác giả và chủ sở hữu tác phẩm, cũng như công sức, trí tuệ của người đã xây dựng trang Thông tin này.
Ý NGHĨA NGÀY NAY CỦA HỌC THUYẾT VỀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ CỦA C. MÁC
Posted on 13 Tháng sáu, 2009 by CivillawinforGS.TS. BÙI NGỌC CHƯỞNG – Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
1 – Cơ chế bóc lột tư bản chủ nghĩa
C. Mác đã vạch ra rằng, tư bản không hề phát minh ra lao động thặng dư, rằng: "Nơi nào mà một bộ phận xã hội chiếm độc quyền về những tư liệu sản xuất thì nơi đó người lao động, tự do hay không tự do, đều buộc phải thêm vào thời gian lao động cần thiết để nuôi sống bản thân mình một số thời gian lao động dôi ra dùng để sản xuất những tư liệu sinh hoạt cho người chiếm hữu tư liệu sản xuất" (1). Quy luật kẻ chiếm hữu tư liệu sản xuất bóc lột người lao động không có tư liệu sản xuất, được thực hiện dưới những hình thức và cơ chế khác nhau trong những hình thái xã hội khác nhau.
Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, giai cấp nô lệ bị lệ thuộc hoàn toàn về thân thể vào giai cấp chủ nô, thì ngoài việc bị bóc lột lao động thặng dư, nô lệ còn bị chiếm một phần lớn sản phẩm cần thiết của giai cấp nô lệ. Trong chế độ phong kiến, giai cấp nông nô đã có một phần tự do về thân thể đối với giai cấp địa chủ và chế độ bóc lột lao động thặng dư biểu hiện dưới hình thức bóc lột địa tô, lao động thặng dư và lao động cần thiết được phân chia rõ ràng. Bởi vậy, theo C. Mác cơ chế bóc lột thời phong kiến có nhiều tiến bộ hơn chiếm hữu nô lệ.
Giai cấp tư sản bước lên vũ đài lịch sử cũng là giai cấp độc chiếm tư nhân những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Khác với cơ chế bóc lột trong hai hình thái kinh tế – xã hội trước chủ yếu dựa trên quan hệ hiện vật, cơ chế bóc lột tư bản chủ nghĩa dựa trên quan hệ giá trị; nói cách khác là quan hệ trao đổi những vật ngang giá (tức là tuân theo quy luật giá trị). Quan hệ này che dấu sự bóc lột trong một cơ chế trao đổi với vẻ bề ngoài như là tự do và bình đẳng, chính vì vậy mà các nhà kinh tế học trước C. Mác đã không thành công trong việc lý giải bản chất bóc lột tư bản chủ nghĩa.
A. Smith và D. Ri-các-đô đã quan niệm một cách hời hợt, bề ngoài rằng, mua bán giữa tư bản và công nhân hình như là mua bán lao động nên cả hai ông đều gặp bế tắc trong việc lý giải một cách khoa học bản chất và nguồn gốc của lợi nhuận. Chẳng hạn, nếu lao động là hàng hóa thì nó phải được kết tinh vào vật, như vậy là công nhân bán hàng hóa chứ không bán lao động; lao động được xác định là thước đo của mọi giá trị thì không thể tự lấy nó để đo lường giá trị của bản thân nó. Mặt khác, nếu mua bán lao động mà trao đổi ngang giá thì không còn cơ sở tồn tại của lợi nhuận, nhưng thực tế lợi nhuận tồn tại một cách khách quan. Vậy, theo các cách giải thích đó, quy luật giá trị mâu thuẫn với quy luật sản xuất ra lợi nhuận và ngược lại.
C. Mác đã phát hiện rằng, quan hệ mua bán giữa công nhân và tư bản không phải là mua bán hàng hóa lao động mà là mua bán một loại hàng hóa đặc biệt – hàng hóa sức lao động. Hàng hóa này có giá trị và giá trị sử dụng khác với các hàng hóa thông thường. Giá trị của hàng hóa sức lao động là giá trị những tư liệu sinh hoạt tối thiểu cần thiết để tái sản xuất sức lao động của công nhân và bao hàm những yếu tố tinh thần, lịch sử và dân tộc… – Giá trị sử dụng của hàng hóa này (tức là tiêu dùng nó trong quá trình sản xuất) có khả năng tạo ra một lượng giá trị lớn hơn giá trị của chính nó là sức lao động. Do đó dù nhà tư bản trả đủ giá trị sức lao động cho công nhân trên cơ sở trao đổi ngang giá thì vẫn thu được phần giá trị dôi ra, biến thành lợi nhuận. Như vậy, quy luật giá trị và quy luật sản xuất ra lợi nhuận không phủ định lẫn nhau mà song song tồn tại: trao đổi giữa tư bản và công nhân tuân theo quy luật ngang giá (quy luật giá trị sức lao động) nhưng nhà tư bản vẫn thu được phần dôi ra ngoài giá trị sức lao động; phần dôi ra đó được C. Mác gọi là giá trị thặng dư. Như vậy, bóc lột lao động thặng dư biểu hiện thành bóc lột giá trị thặng dư là quy luậtbóc lột đặc thù của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất đó.
Tỷ số giữa giá trị thặng dư và tư bản khả biến hay tỷ số giữa lao động thặng dư và lao động cần thiết là tỷ suất giá trị thặng dư; tỷ suất đó nói lên mức độ bóc lột giai cấp công nhân. Giá trị thặng dư có biểu hiện bề ngoài là một số tiền dôi ra ngoài tư bản ứng trước; số tiền đó có tên gọi là lợi nhuận. Phạm trù lợi nhuận che dấu quan hệ bóc lột vì nó làm cho người ta dễ lầm tưởng là con đẻ của tư bản ứng trước (c + v) chứ không phải là con đẻ của tư bản khả biến (v).
Tổng số giá trị thặng dư bóc lột được phân chia thành các loại thu nhập ăn bám trong xã hội tư bản: lợi nhuận công nghiệp, lợi nhuận thương nghiệp, lợi nhuận ngân hàng; nó còn được phân chia nhỏ hơn nữa thành lợi nhuận doanh nghiệp, lợi tức cho vay v.v.. Quá trình phân chia đó tuân thủ theo quy luật cạnh tranh bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận. Giá trị thặng dư còn phải phân chia cho chủ sở hữu ruộng đất dưới hình thức địa tô. Như vậy, tổng số giá trị thặng dư do toàn bộ giai cấp vô sản, công nhân tạo ra trong các ngành sản xuất bị toàn bộ giai cấp tư bản và địa chủ phân chia nhau trong cuộc đấu tranh không khoan nhượng.
Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, đỉnh cao của nó là độc quyền nhà nước là chủ nghĩa đế quốc, đã có nhiều biến đổi trong hình thức và cơ chế bóc lột tư bản chủ nghĩa. Quy luật sản xuất giá trị thặng dư biểu hiện thành quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân trong thời kỳ tự do cạnh tranh thì nay, trong chủ nghĩa tư bản độc quyền, nó biểu hiện thành quy luậttỷ suất lợi nhuận độc quyền cao; quy luật giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả sản xuất trong thời kỳ tự do cạnh tranh nay biểu hiện thành quy luật giá cả độc quyền với hệ thống giá bán độc quyền cao, giá mua độc quyền thấp do tư bản độc quyền can thiệp và áp đặt v.v.. Những bộ phận cấu thành lợi nhuận độc quyền cao là: lao động thặng dư, thậm chí một phần lao động cần thiết của công nhân trong xí nghiệp độc quyền; một phần lao động thặng dư của các xí nghiệp nhỏ và vừa do xí nghiệp độc quyền xén bớt thông qua hệ thống giá cả độc quyền; lao động thặng dư, thậm chí một phần lao động cần thiết của nông dân và thợ thủ công cũng bị bóc lột thông qua hệ thống giá cả độc quyền; phần quan trọng là siêu lợi nhuận thuộc địa dựa trên sự bóc lột nặng nề lao động thặng dư và một phần lao động cần thiết của nhân dân lao động ở những nước thuộc địa hay phụ thuộc.
Cùng với sự phát triển của cách mạng khoa học – kỹ thuật và của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, cơ chế bóc lột đã trở nên phức tạp và tinh vi hơn (chủ nghĩa Taylo, chủ nghĩa Fayol, chủ nghĩa Ford, chủ nghĩa Ford mới v.v., lần lượt xuất hiện để biện minh cho tính công bằng, sòng phẳng trong quan hệ giữa tư bản với lao động). Trên thực tế trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, ngày càng có nhiều thủ đoạn và hình thức bòn rút lợi nhuận tinh vi để không ít người còn lầm tưởng đến một thứ chủ nghĩa tư bản mới "nhân văn" hơn trước đây, như "chủ nghĩa tư bản nhân dân", "xã hội tham dự"… Điều không thể che dấu được đó là sự hình thành một tầng lớp tư sản ăn bám, quý tộc, thực lợi, tài phiệt; sự thao túng có tính chất toàn cầu của các tập đoàn xuyên quốc gia, tình trạng bất bình đẳng trong các quan hệ thương mại quốc tế; sự xuất hiện của cái gọi là chủ nghĩa thực dân kinh tế; sự áp đặt chính sách giữa Đông và Tây, giữa các nước giàu với các nước nghèo…
2 – Đào sâu sự phân cực xã hội – hệ quả tất yếu của quy luật bóc lột tư bản chủ nghĩa
Sự phân hóa xã hội thành giai cấp không lao động nhưng giàu có, đầy quyền lực, thống trị, áp bức đa số người trong xã hội và giai cấp lao động sản xuất ra của cải xã hội nhưng nghèo khổ, bị tước mọi quyền và bị áp bức là sản phẩm tất yếu của mọi xã hội có chế độ người bóc lột người dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Nhưng sự phân cực xã hội với hình thức biểu hiện kinh tế của nó là sự phân hóa giàu – nghèo trong các xã hội nô lệ và phong kiến, mặc dù các chế độ bóc lột siêu kinh tế này biểu hiện ra là dã man, tàn bạo, nhưng là có hạn độ.
Trong chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa, sự phân cực xã hội là vô cùng sâu sắc, sự phân hóa giàu nghèo được đẩy tới cực độ. Ở đây của cải ngày càng tập trung vào một số nhỏ các cá nhân là những triệu phú và tỉ phú; ở cực đối lập là những người sống dưới mức nghèo khổ ở các nước tư bản phát triển và đông đảo những người cùng khổ, đói rét ở các nước tư bản đang phát triển. Chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa đã sớm chớp lấy những thành tựu mới của khoa học, kỹ thuật và công nghệ để không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội, do đó năng suất lao động thặng dư cũng ngày càng tăng theo; cơ chế bóc lột tư bản chủ nghĩa đã chuyển hướng sang dựa chủ yếu trên sự tăng năng suất lao động. Cũng trên cơ sở kỹ thuật đã phát triển mà cơ chế bóc lột dựa trên tăng cường độ lao động thái quá và kéo dài ngày lao động một cách che dấu cũng phát triển. Của cải xã hội ngày càng được tạo ra nhiều, nhưng lại chỉ tập trung vào một cực. Mặt khác, nội dung vật chất của chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa là giá trị thặng dư mang hình thức giá trị trao đổi (tức là vàng bạc hay tiền tệ); trong quan hệ bóc lột dựa trên hình thức giá trị trao đổi, lòng thèm khát tăng lao động thặng dư và khát vọng làm giàu trên cơ sở đó được đẩy tới cực độ. Sở dĩ như vậy là vì giá trị trao đổi với hình thức biểu hiện vật chất của nó là vàng, tức tiền tệ, về mặt chất lượng có sức mạnh vô hạn (có tiền là có tất cả), về mặt số lượng bao giờ cũng có hạn. Mâu thuẫn giữa chất lượng có sức mạnh vô hạn và số lượng có hạn đó làm tăng lòng thèm khát vơ vét được nhiều tiền. Do tất cả những điều kiện lịch sử và tình hình trên, quy luật bóc lột tư bản chủ nghĩa đã đẩy sâu quá trình phân cực xã hội mà các xã hội bóc lột trước kia không thể sánh kịp.
Đặc điểm của sản xuất tư bản chủ nghĩa còn là tái sản xuất mở rộng nhằm mở rộng bóc lột và ngày càng tích tụ tập trung tư bản để cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động làm cho giá trị cá biệt thấp hơn giá trị xã hội với mục đích thu lợi nhuận cao hơn lợi nhuận trung bình và thắng trong cạnh tranh. Do đó, tư bản tích lũy ngày càng giành đầu tư nhiều hơn vào việc hiện đại hóa guồng máy sản xuất, làm cho kết cấu hữu cơ (c/v) của tư bản thay đổi theo hướng: tư bản bất biến (c) tăng lên cả về giá trị tuyệt đối và tương đối trong khi tư bản khả biến (v) tăng lên tuyệt đối, nhưng giảm tương đối do kỹ thuật hiện đại vừa đắt tiền vừa làm giảm số lượng công nhân vận hành máy móc. Quy luật kết cấu của tư bản thay đổi theo hướng tăng lên như vậy dẫn đến giảm mức cầu về sức lao động trong khi số lượng của giai cấp công nhân tăng lên cùng với sự phát triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa. Từ đó dẫn đến nạn nhân khẩu thừa tương đối hay nạn thất nghiệp và hình thành đội quân công nghiệp trù bị.
Tích tụ, tập trung tư bản trong quá trình tích lũy cũng đưa đến kết quả một số ít nhà tư bản tước đoạt của số đông nhà tư bản nhỏ và vừa qua con đường cạnh tranh "cá lớn nuốt cá bé". Nạn nghèo khổ, áp bức, nô dịch, bóc lột càng tăng lên. Vậy là, sự tập trung tư liệu sản xuất và xã hội hóa lao động đạt đến cái điểm mà chúng không còn thích hợp với cái vỏ tư bản chủ nghĩa của chúng nữa…
3 – Ý nghĩa ngày nay của Học thuyết về giá trị thặng dư đối với nước ta
Trong Học thuyết về giá trị thặng dư, C. Mác đã có một nhận định có tính chất dự báo khoa học trong xã hội hiện nay, đó là: "Mục đích thường xuyên của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là làm thế nào để với một tư bản ứng trước tối thiểu, sản xuất ra một giá trị thặng dư hay sản phẩm thặng dư tối đa; và trong chừng mực mà kết quả ấy không phải đạt được bằng lao động quá sức của những người công nhân, thì đó là một khuynh hướng của tư bản, thể hiện ra trong cái nguyện vọng muốn sản xuất ra một sản phẩm nhất định với những chi phí ít nhất về sức lực và tư liệu, tức là một khuynh hướng kinh tế của tư bản dạy cho loài người biết chi phí sức lực của mình một cách tiết kiệm và đạt tới mục đích sản xuất với một chi phí ít nhất về tư liệu" (2).
Từ việc nghiên cứu Học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác, chúng ta thấy rõ ít nhất ba vấn đề lớn trong giai đoạn phát triển hiện nay của đất nước.
Một là, trong thời kỳ quá độ nền kinh tế ở nước ta, trong một chừng mực nào đó, quan hệ bóc lột chưa thể bị xóa bỏ ngay, sạch trơn theo cách tiếp cận giáo điều và xơ cứng cũ. Càng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chúng ta càng thấy rõ, chừng nào quan hệ bóc lột còn có tác dụng giải phóng sức sản xuất và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, thì chừng đó chúng ta còn phải chấp nhận sự hiện diện của nó.
Hai là, trong thực tế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, mọi phương án tìm cách định lượng rành mạch, máy móc và xơ cứng về mức độ bóc lột trong việc hoạch định các chủ trương chính sách, cũng như có thái độ phân biệt đối xử với tầng lớp doanh nhân mới đều xa rời thực tế và không thể thực hiện được. Điều có sức thuyết phục hơn cả hiện nay là quan hệ phân phối phải được thể chế hóa bằng luật. Đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước mỗi khi được thể chế hóa thành luật và các bộ luật thì chẳng những góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, lấy luật làm công cụ và cơ sở để điều chỉnh các hành vi xã hội nói chung, mà còn cả hành vi bóc lột nói riêng. Ai chấp hành đúng pháp luật thì được xã hội thừa nhận và tôn vinh theo phương châm: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong nhận thức, quan điểm chung nên coi đó cũng chính là mức độ bóc lột được xã hội chấp nhận, tức là làm giàu hợp pháp. Trong quản lý xã hội thì phải kiểm soát chặt chẽ thu nhập cá nhân, thu nhập doanh nghiệp để, một mặt, chống thất thu thuế, mặt khác, bảo đảm sự công bằng trong phân phối thông qua Nhà nước và bằng các "kênh" phân phối lại và điều tiết thu nhập xã hội. Thiết nghĩ, đây là một hướng tiếp cận vấn đề bóc lột giúp chúng ta tránh được những nhận thức giáo điều, phi biện chứng về quan hệ bóc lột, cũng như việc vận dụng nó trong một giai đoạn lịch sử cụ thể của việc giải phóng sức sản xuất, tạo động lực phát triển kinh tế và chủ động hội nhập thành công với nền kinh tế quốc tế.
Ba là, mặt khác, cũng phải bảo vệ những quyền chính đáng của cả người lao động lẫn giới chủ sử dụng lao động bằng luật và bằng các chế tài thật cụ thể mới bảo đảm công khai, minh bạch và bền vững. Những mâu thuẫn về lợi ích trong quá trình sử dụng lao động là một thực tế, việc phân xử các mâu thuẫn ấy như thế nào để tránh những xung đột không cần thiết cũng lại là một yêu cầu cấp thiết hiện nay, thể hiện trong bản chất của chế độ mới. Bảo vệ được những quyền lợi chính đáng, những quyền lợi được luật pháp bảo vệ, của tất cả các bên trong quan hệ lao động là một bảo đảm cho việc vận dụng một cách hợp lý quan hệ bóc lột trong điều kiện hiện nay, đồng thời cũng là những đóng góp cơ bản nhất cho cả quá trình hoàn thiện và xây dựng mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
(1) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t 23, tr 347 (2) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Sđd, t26, phần II, tr 804
SOURCE: TẠP CHÍ CỘNG SẢN SỐ 82 NĂM 2005
Chia sẻ:
- Bấm để in ra (Mở trong cửa sổ mới)
- Bấm để gửi một liên kết tới bạn bè (Mở trong cửa sổ mới)
- Bấm để chia sẻ trên Twitter (Mở trong cửa sổ mới)
- Nhấn vào chia sẻ trên Facebook (Mở trong cửa sổ mới)
- Bấm để chia sẻ trên Tumblr (Mở trong cửa sổ mới)
- Bấm để chia sẻ lên LinkedIn (Mở trong cửa sổ mới)
- Bấm để chia sẻ trên Pinterest (Mở trong cửa sổ mới)
- Nhấp để chia sẻ trên WhatsApp (Mở trong cửa sổ mới)
- Thêm
- Bấm để chia sẻ lên Reddit (Mở trong cửa sổ mới)
Thích điều này:
Đang tải...Related
Filed under: 1. Lý luận chung |
« PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA TRANH CHẤP BẢN QUYỀN: ỨNG XỬ TÁC QUYỀN THEO KIỂU . . . ĐỔ THỪA »24 Responses
- Thảo Nguyên, on 26 Tháng hai, 2020 at 12:42 chiều said:
Ai bày mình câu này với ạ :”Nêu ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản đối với Việt Nam”
Bình luận - Đức Anh, on 24 Tháng hai, 2020 at 8:03 sáng said:
Nêu ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản đối với việt nam.?? ai giúp mình với
Bình luận- Thảo Nguyên, on 26 Tháng hai, 2020 at 12:39 chiều said:
Bạn ơi, cho mình xin đáp án tham khảo với
Bình luận
- Thảo Nguyên, on 26 Tháng hai, 2020 at 12:39 chiều said:
- kybooman, on 22 Tháng mười hai, 2013 at 4:41 chiều said:
co ai giup minh cai nay voi!!!!anh chi co y kien nhu the nao ve luan dien sau day”hoc thuyet gia tri thang du la hoc thuyet khong tuong”????
Bình luận - oanh, on 4 Tháng tư, 2011 at 9:58 sáng said:
ns k cu the j ka
Bình luận - hong, on 16 Tháng ba, 2011 at 10:28 chiều said:
bai viet rat hay, minh dang tim tai lieu cho bai thao luan. May qua doc duoc bai nay. Thank nhiu!!!!!!!!!!!!!!
Bình luận - Quynh Nguyen, on 15 Tháng ba, 2011 at 8:07 chiều said:
cám ơn bài viết. tôi đang làm bài tập. bài viết rất có ích.
Bình luận - tra, on 24 Tháng hai, 2011 at 3:28 chiều said:
theo nghiên cứu của mình thì bài viết làm rõ thêm được một số điểm như nêu ra sự so sánh cách bóc lột giữa các thời kỳ tuy nhiên đẻ nghiên cứu sâu hơn thì bài này chưa đủ nó không nói rõ được cách thức hoạt động của CNTB và giá trị thặng dư được hình thành và bị chiếm đoạt như thế nào. để hiểu được bài viết này các bạn cần tìm hiểu các thuật ngữ cũng như lối suy nghĩ của mác
Bình luận - MINH, on 21 Tháng hai, 2011 at 3:34 chiều said:
Bay nay hay lam,nhung toi thay con thiu cai j do nen chua dc hioan hao cho lam!!!!!!!!!!!!!!!!1
Bình luận - diamond, on 7 Tháng Một, 2011 at 12:04 sáng said:
bài hay! khá chi tiết và có nhiều phân tích sâu sắc
Bình luận - trịnh thị lê na, on 28 Tháng mười một, 2010 at 10:30 sáng said:
bài này viết hay nhưng không đúng với bài mà tớ đang tìm
Bình luận - bui van tan, on 15 Tháng mười một, 2010 at 10:09 sáng said:
bai nay viet rat hay va day du !thanks!
Bình luận - Cong, on 14 Tháng mười, 2010 at 2:20 chiều said:
Bai viet nay phan tich kha ki. Ngon
Bình luận - phuong khoa, on 23 Tháng chín, 2010 at 10:08 sáng said:
tạm được
Bình luận - huang wen peng, on 11 Tháng sáu, 2010 at 9:05 sáng said:
baj vjt rat rat hay nhug to ko hju vj doc ko vao dau teo nao ka.
Bình luận - Nguyễn Thế Hùng- SN: 1943, on 3 Tháng sáu, 2010 at 5:56 chiều said:
bài hay
Bình luận - Nguyễn Thị Thu, on 1 Tháng sáu, 2010 at 7:54 chiều said:
Bài viết này hay, phân tích vấn đề rất sâu sắc…
Bình luận - Duy doan, on 26 Tháng năm, 2010 at 9:54 chiều said:
Co ai giup mjh baj tjeu luan ve gja trj thag du dc ko, thak nhju
Bình luận - ANH TUAN, on 19 Tháng năm, 2010 at 8:39 chiều said:
bai nay hay lam! rất cám ơn! mình đã hiểu được một chút rùi.hihi
Bình luận - Vũ Duy Tiến, on 6 Tháng năm, 2010 at 2:09 sáng said:
Bài viết hay và sâu sắc! Xin cho biết rõ tác giả và trong đó thì có gì đã được sửa chữa hay thay đổi!
Bình luận- nguyen thi le quyen, on 15 Tháng tư, 2011 at 9:52 chiều said:
chao ban,minh thay bai nay ban nhan xet rat hay.ban co the giup minh lam bai thao luan mon triet duoc khong,minh chang hieu gi ca.De tai la”van dung li thuyet hai thuoc tinh cua hanh hoa trong phat trien kinh te hang hoa o viet nam
Bình luận
- nguyen thi le quyen, on 15 Tháng tư, 2011 at 9:52 chiều said:
- nguyen thi van anh, on 4 Tháng năm, 2010 at 6:58 chiều said:
bai nay viet rjt hay
Bình luận - vv, on 28 Tháng tư, 2010 at 9:55 chiều said:
bài này đọc chả hiểu rì cả!!
Bình luận - nguyenkien, on 24 Tháng tư, 2010 at 8:46 chiều said:
bai nay hay qua’,mai minh kien tra may ma doc duoc bai nay.cam’ on nhieu nha!!!!!!
Bình luận
Gửi phản hồiHủy
Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.
Cập nhật thông tin qua Thư điện tử
Địa chỉ thư điện tử (email)
Theo dõi
Tham gia cùng 5.315 người đăng ký khác-
Học để tích lũy giá trị bản thân;
Học để hiểu cuộc sống có thể không công bằng, nhưng kẻ vô lại nhất cũng phải được tiếp cận công lý;
Học để có niềm tin, để hoàn thiện không ngừng những gì với mình là đúng;
Học để biết cách chấp nhận thất bại và hiểu chiến thẳng phải đến từ đẳng cấp.
-
VỀ NGƯỜI VIỆT, ĐẤT VIỆT
Paul Giran – Tham biện, Phụ trách công việc Hành chính dân sự của Phủ Toàn quyền Đông Dương năm 1901
Tổng kết, không có khả năng quan niệm những ý tưởng quá trừu tượng, tinh thần của họ chỉ có thể vận dụng được khi có sự hiện diện của những chủ thể có thực, người An Nam không có năng lực để cảm nhận những cảm nghĩ quá phức tạp.
Nguồn: Paul Giran “Tâm lý người An Nam”, NXB: Nhã Nam – Hội Nhà văn Việt Nam.
-
Ý KIẾN CHUYÊN GIA
ALAIN LACABARATS – Chánh tòa, Tòa Phúc thẩm Paris, Cộng hòa Pháp
Tôi có thể hiểu được những khó khăn hiện nay của Việt Nam.
Nhận xét thứ nhất là, phải xem xét lại hệ thống lý luận về các ngành luật.
Nhận xét thứ hai là, tôi rất ngạc nhiên khi thấy rằng, ở Việt Nam, tồn tại một Luật Hôn nhân và Gia đình riêng biệt với Bộ luật Dân sự, quy định về hôn nhân, gia đình là các quy định cơ bản đến mức phải nằm trong Bộ luật dân sự. Có thể các bạn có lý do để làm như vậy, nhưng dù sao là một luật gia Pháp, tôi vẫn rất ngạc nhiên khi thấy các bạn có luật riêng về lĩnh vực này.
Nhận xét cuối cùng là, thẩm phán (ở Việt Nam) không có quyền giải thích pháp luật. Tôi nghĩ rằng, thẩm phán không thể áp dụng pháp luật mà không giải thích nó, vì khi đọc bất cứ một văn bản pháp luật nào, chúng ta cũng đều nhận thấy rằng, không thể áp dụng văn bản đó một cách cơ học mà không có giải thích đó chính là trách nhiệm của thẩm phán. Tất nhiên, việc giải thích pháp luật cũng phải có giới hạn vì không thể lấy cớ là giải thích pháp luật để bóp méo một văn bản pháp luật nào đó. Tóm lại, tôi cho rằng, không thể áp đặt thẩm phán áp dụng pháp luật một cách thuần túy mà không có quyền giải thích pháp luật”.
Nguồn: Hội thảo “Bộ luật Dân sự sửa đổi”, Nhà Pháp luật Việt – Pháp. Hà Nội, 28-30/10/2002.
More >>>
-
TRANG THÔNG TIN ĐANG ĐƯỢC KHẮC PHỤC LỖI KỸ THUẬT, CÓ THỂ GÂY KHÓ KHĂN TRONG VIỆC TRA CỨU, MONG CÁC BẠN THÔNG CẢM.
Website Cơ quan Tư pháp
- 1. Bộ Tư pháp
- 10. Sổ tay Thẩm phán trực tuyến
- 2. Cục Đăng ký Quốc gia GDBĐ
- 3. Đăng ký trực tuyến giao dịch, tài sản
- 4. Tòa án nhân dân tối cao
- 5. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
- 6. CSDL Quốc gia về văn bản pháp luật
- 7. Bản án, quyết định của Tòa án
- 8. Án lệ
- 9. Khởi kiện trực tuyến
Website Giảng viên luật
- 1. Chia sẻ Thông tin Luật học
- 2. Lịch sử Nhà nước và Pháp luật
- 4. Luật Tài chính
- 6. Nhà nước và pháp luật
Website Đào tạo & Nghiên cứu KHPL
- Đại học Luật Hà Nội
- Đại học Luật TPHCM
Websites Thông tin KT - XH - Pháp lý
- Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam
- Tạp chí Kiểm sát
- Tạp chí Tòa án nhân dân
- Từ điển kinh tế học Anh – Việt
Thư giãn
THẢO LUẬN
Học Luật on KINH NGHIỆM QUỐC TẾ về một số… Dịch vụ Công chứng on LUẬT TÀI SẢN trước thử thách s… Duong Nguyen on MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP L… Luật Nam Sơn on MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP L… landviet on SỬA LUẬT ĐẤT ĐAI NĂM 2013: Qua… landviet on XÁC ĐỊNH VIỆC GÓP VỐN và giấy… landviet on HỢP ĐỒNG MUA BÁN BẤT ĐỘ… landviet on HỢP ĐỒNG MUA BÁN BẤT ĐỘ… landviet on HỢP ĐỒNG MUA BÁN BẤT ĐỘ… lê khắc huy on CÂU HỎI THẢO LUẬN VẤN ĐỀ… Ngọcquang on Khái quát về lịch sử ra đời, p… landviet on LUẬT ĐẤT ĐAI đã công bằng với… Hùng on KỸ NĂNG CHUẨN BỊ HỒ SƠ B… Hùng Nguyễn on SỬA LUẬT ĐẤT ĐAI NĂM 2013: Qua… Hùng on LUẬT ĐẤT ĐAI đã công bằng với… Số lượt truy cập
- 29.774.189 hits
Who's Online
43 visitors online now12 guests, 31 bots, 0 membersOther languages (for reference purposes only)
-
Linkedln Facebook Twitter
WP Designer.
HỌC LUẬT ĐỂ BIẾT LUẬT, HIỂU LUẬT, VẬN DỤNG LUẬT VÀ HOÀN THIỆN LUẬT - nhhai@phapluatdansu.edu.vnKhám phá thêm từ THÔNG TIN PHÁP LUẬT DÂN SỰ
Đăng ký ngay để tiếp tục đọc và truy cập kho lưu trữ đầy đủ.
Nhập email của bạn…
Theo dõi
Tiếp tục đọc
Go to mobile version %dTừ khóa » Giá Trị Thặng Dư Là Một Bộ Phận Của Giá Trị Hàng Hóa
-
Giá Trị Thặng Dư – Wikipedia Tiếng Việt
-
Giá Trị Thặng Dư Là Gì? Nguồn Gốc, Bản Chất Và ý Nghĩa Của Giá Trị ...
-
[PDF] Lý Luận Của C.mác Về Giá Trị Thặng Dư Và Các Hình Thức Biểu Hiện Của ...
-
Giá Trị Thặng Dư Là Gì? Ví Dụ Giá Trị Thặng Dư - Luật Hoàng Phi
-
Giá Trị Thặng Dư Là Gì? Định Nghĩa, Khái Niệm - LaGi.Wiki
-
Học Thuyết Giá Trị Thặng Dư Vẫn Còn Nguyên Giá Trị Trong Bối Cảnh Mới
-
Học Thuyết Giá Trị Thặng Dư Trong Bộ Tư Bản Của Các Mác Và ý Nghĩa ...
-
Giá Trị Thặng Dư Là Gì? (Cập Nhật 2022) - Luật ACC
-
Giá Trị Thặng Dư Là Gì? Ý Nghĩa Thực Tiễn Của Giá Trị Thặng Dư
-
[PDF] BÀI 5: HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ - Topica
-
Tư Bản Và Giá Trị Thặng Dư - Chu Nghia Mac-Lenin
-
Không Thể Bác Bỏ Học Thuyết Kinh Tế Mác – Lê-nin
-
Học Thuyết Giá Trị Thặng Dư Của Các Mác Vẫn Còn Nguyên Giá Trị