YG Entertainment – Wikipedia Tiếng Việt

Công ty giải trí Hàn QuốcBản mẫu:SHORTDESC:Công ty giải trí Hàn Quốc YG Entertainment Inc.
Logo được sử dụng từ tháng 3 năm 2013[1]
Tên bản ngữYG 엔터테인먼트
Tên phiên âmYG enteoteinmeonteu
Loại hìnhĐại chúng
Mã niêm yếtKRX: 122870
Ngành nghề
  • Giải trí
  • Bán lẻ
Lĩnh vực hoạt độngNhiều thể loại
Thành lập24 tháng 2 năm 1996; 28 năm trước (1996-02-24)
Người sáng lậpYang Hyun-suk
Trụ sở chính397-5 Hapjeong-dong, Mapo-gu, Seoul, Hàn Quốc
Khu vực hoạt độngToàn cầu
Thành viên chủ chốt
  • Yang Min-suk
  • Hwang Bo-kyung
(đồng CEO)[2]
Doanh thuTăng Bản mẫu:KRWConvert (2021)
Lợi nhuận kinh doanhTăng Bản mẫu:KRWConvert (2021)
Lãi thựcGiảm Bản mẫu:KRWConvert (2021)
Chủ sở hữu
  • Yang Hyun-suk (16.88%)
  • Naver Corporation (8.89%)
  • National Pension Service (7.12%)
  • Tencent (4.31%)
  • Yang Min-suk (3.47%)
  • Vanguard Group (2.02%)
  • Khác (57.31%)[3]
Số nhân viên678 (2010)
Chi nhánhActor & Music
Công ty con
  • 3geori Butchers
  • Moonshot
  • Nona9on
  • Shining Star Culture
  • The Black Label
  • YG Golf Academy
  • YG Plus
  • YGKPlus
  • YGX
Websiteygfamily.com Sửa dữ liệu tại Wikidata
Ghi chú[4][5][6]

YG Entertainment Inc. (tiếng Hàn: YG 엔터테인먼트) là một công ty giải trí đa quốc gia của Hàn Quốc được thành lập vào năm 1996 bởi Yang Hyun-suk.[7] Công ty hoạt động như một hãng thu âm, công ty quản lý tài năng, công ty sản xuất âm nhạc, công ty tổ chức sự kiện và sản xuất buổi hòa nhạc cũng như nhà xuất bản âm nhạc. Ngoài ra, công ty điều hành một số liên doanh con dưới một công ty giao dịch đại chúng riêng biệt, YG Plus, bao gồm một dòng quần áo, một công ty quản lý gôn và một nhãn hiệu mỹ phẩm.[8]

Các nghệ sĩ hiện tại bao gồm SECHSKIES, Akdong Musician, WINNER, AKMU, BLACKPINK,TREASURE và BABYMONSTER cũng như các diễn viên Choi Ji-woo, Cha Seung-won, Lee Sung-kyung và Yoo In-na và Son Na-eun. Các nghệ sĩ nổi bật khác bao gồm Jeon So-mi (trực thuộc công ty con The Black Label) và Anda (trực thuộc công ty con YGX).

Các cựu nghệ sĩ của công ty bao gồm Wheesung, Epik High, 1TYM, Gummy, Seven, Minzy, Park Bom, 2NE1, Nam Tae-hyun, Lee Jong-suk, Psy, Seungri, B.I, One, CL, Lee Hi, Jinusean Sandara Park, iKON và Kang Dong-won, BIGBANG, T.O.P, Taeyang, G-Dragon, Daesung.

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

1996–2005: Nguồn gốc hip hop, thành công ban đầu và thế hệ K-pop đầu tiên

[sửa | sửa mã nguồn]
Se7en ra mắt dưới YG Entertainment vào năm 2003

Vào tháng 3 năm 1996, Yang Hyun-suk, cựu thành viên của nhóm nhạc K-pop thế hệ đầu tiên, Seo Taiji and Boys, đã thành lập YG Entertainment cùng với em trai của mình là Yang Min-suk.[7][9] Nghệ sĩ đầu tiên của công ty là bộ ba hip hop Keep Six. Khi họ không thu hút được sự nổi tiếng, Yang Hyun-suk đã chuyển sự tập trung của mình sang bộ đôi Jinusean và ra mắt 1TYM vào năm 1998. Cả hai nhóm đều là những nghệ sĩ thành công được Yang Hyun-suk ghi nhận vì đã đưa YG và thể loại hip hop trở thành nền âm nhạc chính thống của Hàn Quốc.[7]

Năm 1999, các nghệ sĩ của YG đã phát hành một album hợp tác mang tên YG Family. Công ty sau đó đã phát hành các sản phẩm âm nhạc của các nghệ sĩ như Perry, Swi.T, Big Mama, Lexy, Gummy và Wheesung. Nó cũng thành lập công ty "YG Underground", bao gồm 45RPM và Stony Skunk. Năm 2001, album YG Family thứ hai được phát hành. Trong số những nghệ sĩ khác, nó có sự góp mặt của cậu bé 13 tuổi, G-Dragon, khi đó đang là một thực tập sinh.[10]

Công ty đạt được thành công ở cả Hàn Quốc và Nhật Bản với ca sĩ "thần tượng" đầu tiên Seven vào năm 2003,[11] người đã trở thành nghệ sĩ đầu tiên của công ty cố gắng lấn sân sang thị trường âm nhạc Hoa Kỳ, mặc dù màn ra mắt tại Hoa Kỳ của anh không đạt được thành công.[12]

2006–2011: Đột phá chính

[sửa | sửa mã nguồn]
Big Bang ra mắt vào năm 2006 và chịu trách nhiệm cho hơn một nửa số album của YG được bán tại Hàn Quốc từ 2014 đến 2017.[13]

Sau thành công của Se7en, YG đã thành lập nhóm nhạc thần tượng đầu tiên Big Bang vào năm 2006. Mặc dù ban đầu được đón nhận khá nồng nhiệt, nhưng sự bứt phá của nhóm được bắt đầu vào năm sau và sự nổi tiếng ổn định của họ đã khiến họ trở thành một trong những nhóm nhạc nam nổi tiếng nhất.[14] Tiếp theo là nhóm nhạc nữ đầu tiên 2NE1 của YG vào năm 2009,[15] trước khi tách nhóm vào năm 2016, họ đã được coi là một trong những nhóm nhạc nữ thành công và nổi tiếng nhất ở Hàn Quốc.[16][17] Tương tự như Seven, cả hai nhóm đều có sự nghiệp thành công ở Nhật Bản.[18][19][20]

2NE1 ra mắt vào năm 2009 với tư cách là nhóm nhạc nữ lớn đầu tiên của YG và trở thành nhóm đầu tiên đạt được chín bài hát quán quân trên Gaon Digital Chart.

Năm 2010, YG đã có một động thái được công bố rộng rãi cho việc di dời đến một tòa nhà mới, trong khi trụ sở cũ trở thành một trụ sở đào tạo.[21][22] Cùng năm, công ty đăng ký niêm yết trên thị trường chứng khoán nhưng không thành công; người ta nghi ngờ rằng điều này là do công ty có quá ít nhóm nhạc hoạt động và doanh thu không ổn định, mặc dù thu nhập tăng trong năm 2009.[23] Cuối năm đó, công ty đã ký hợp đồng với nghệ sĩ Psy.[24]

2012–2016: Sự công nhận quốc tế và mở rộng kinh doanh

[sửa | sửa mã nguồn]
WINNER ra mắt thành công vào năm 2014 và trở thành nhóm nhạc K-Pop nhanh nhất đạt #1 trên các chương trình âm nhạc. Họ đã giành được chiến thắng đầu tiên trên chương trình âm nhạc chỉ sau sáu ngày ra mắt.
iKON ra mắt vào năm 2015. Đĩa đơn năm 2018 của họ, "Love Scenario", đã phá vỡ nhiều kỷ lục vào thời điểm đó; bao gồm bài hát có thời gian đứng đầu bảng xếp hạng lâu nhất, bài hát có nhiều giờ nhất 'perfect all-kills' và bài hát đầu tiên được chứng nhận Bạch kim bởi KCMA.

Năm 2012 đã mang lại cho YG sự công nhận quốc tế khi "Gangnam Style" của Psy trở nên phổ biến trên toàn thế giới như một video lan truyền. Vào ngày 21 tháng 8, nó đã đứng ở vị trí số 1 trên iTunes Music Video Charts. Đây là thành tích đầu tiên của một nghệ sĩ Hàn Quốc.[25] Đến ngày 24 tháng 11, "Gangnam Style" đã trở thành video được xem nhiều nhất trong lịch sử YouTube và là video đầu tiên vượt qua 1 tỷ lượt xem.[26][27] Bài hát được cho là nguyên nhân chính khiến giá cổ phiếu của YG tăng hơn 60%,[28] công ty sau đó đã nộp báo cáo thường niên đầu tiên vào năm 2012 với lợi nhuận hơn 50%,[29] sau khi niêm yết trên KOSDAQ vào năm trước.[8]

Cùng năm đó, công ty đã ký hợp đồng với rapper kiêm nhà sản xuất Tablo, trưởng nhóm của nhóm nhạc hip hop Epik High, bắt đầu lại sự nghiệp của anh sau một thời gian gián đoạn sự nghiệp âm nhạc sau cuộc tranh cãi ở trường Stanford.[30] Epik High sau đó đã chuyển sang YG sau thành công của anh.[31]

Việc Yang Hyun-suk tham gia nhiều hơn vào các chương trình truyền hình thực tế sống còn đã dẫn đến một số thỏa thuận hợp đồng với các thí sinh, bắt đầu với á quân mùa đầu tiên của K-pop Star là Lee Hi.[32] Những người tham gia khác trong chương trình đã được ký hợp đồng với tư cách là thành viên tiềm năng của các nhóm nhạc nam tương lai của công ty. Vào mùa thứ hai của chương trình, cả hai người chiến thắng, bộ đôi anh em Akdong Musician và á quân Bang Ye-dam, đã ký hợp đồng với YG.[33][34] Ngoài ra, chương trình thực tế WIN: Who is Next sau đó đã được YG công bố, trong đó hai đội nam thực tập sinh cạnh tranh với nhau để giành cơ hội ký hợp đồng với công ty và ra mắt với tư cách là nhóm nhạc nam tiếp theo của YG. Phần kết của chương trình thực tế đã chứng kiến sự hình thành của WINNER.[35]

Vào năm 2014, YG đã mua lại đội ngũ nhân viên và diễn viên của T Entertainment, bao gồm Cha Seung-won, Im Ye-jin và Jang Hyun-sung.[36] Ngoài ra, thông qua việc mua lại công ty quản lý người mẫu K-Plus, nó đã mở rộng bộ phận diễn xuất của mình thông qua sự ra mắt diễn xuất của người mẫu Lee Sung-kyung và Nam Joo-hyuk.[37] cũng đã ký hợp đồng với nữ diễn viên Choi Ji-woo.[38][39][40][41] Tập đoàn đầu tư tư nhân của tập đoàn LVMH, L Capital Asia, sau đó đã thông báo rằng họ sẽ đầu tư 80 triệu USD vào YG. Có trụ sở chính tại Singapore, L Capital Asia sẽ trở thành nhà đầu tư lớn thứ hai của YG với 11,5% cổ phần, chỉ đứng sau 28% của Yang Hyun-suk.[42] Năm 2014, YG cũng mở rộng sang lĩnh vực làm đẹp với việc thành lập thương hiệu mỹ phẩm Moonshot.[43][44]

Vào năm 2015, YG đã đầu tư gần 100 triệu USD vào một khu liên hợp công nghiệp mới có trụ sở tại Gyeonggi-do, dự kiến sẽ hoàn thành vào tháng 12 năm 2018.[45] Bất động sản ở Seoul trị giá 16 tỷ KRW (14 triệu USD) cũng được mua với mục đích mở rộng trụ sở chính của họ.[46] Trong năm đó, công ty cũng đã thành lập hai công ty con, công ty con đầu tiên do Tablo đứng đầu,[47] và công ty con thứ hai do các nhà sản xuất YG, Teddy Park của 1TYM và Kush của Stony Skunk đứng đầu.[48] Ngoài ra, các thành viên của đội thua cuộc từ chương trình thực tế WIN: Who is Next đã tập hợp lại và ra mắt với tên iKON, cùng với một thành viên mới.[49]

Vào tháng 4 năm 2016, Gong Minji, thành viên nhỏ tuổi nhất của 2NE1 thông báo rằng cô ấy đã rời 2NE1, YG Entertainment tuyên bố rằng nhóm sẽ tiếp tục hoạt động như một bộ ba.[50][51] Vào tháng 11 năm 2016, YG thông báo rằng CL và Dara đã gia hạn hợp đồng với tư cách là nghệ sĩ solo, cho thấy việc Park Bom rời công ty và sự tan rã của 2NE1.[52][53] Vào ngày 21 tháng 1 năm 2017, 2NE1 xuất hiện với tư cách là bộ ba và phát hành "Goodbye" như một bài hát chia tay mà CL đã viết khi nghe tin Minji rời đi.[54]

Mười sáu năm sau khi nhóm tan rã, nhóm nhạc nam K-pop thế hệ đầu tiên SECHSKIES đã ký hợp đồng với YG vào tháng 5 năm 2016 để khởi động lại sự nghiệp của họ.[55][56][57] Trong cùng tháng, các doanh nghiệp công nghệ Trung Quốc Tencent và Weiying Technology đã công bố khoản đầu tư trị giá 85 triệu đô la Mỹ vào YG. Weiying chiếm 8,2% cổ phần của công ty và Tencent 4,5% cổ phần.[58] YG sau đó đã thêm Lee Jong-suk,[59] Kang Dong-won,[60] và Kim Hee-jung[61] vào danh sách diễn viên của họ. YG ra mắt nhóm nhạc nữ thứ hai BLACKPINK vào năm 2016, lần đầu tiên kể từ 2NE1,[62] tiếp theo là rapper solo One vào năm sau.[63]

2017–2019: Các bê bối, tranh cãi và sự ra đi của những nghệ sĩ

[sửa | sửa mã nguồn]

Cuối năm 2017, YG cùng JTBC tung ra chương trình sinh tồn tìm kiếm tài năng mang tên Mix Nine, cuộc thi giữa các thực tập sinh đến từ các công ty quản lý khác nhau.[64][65] Mặc dù đội chiến thắng đã được lên kế hoạch ra mắt với tư cách là thần tượng,[66] YG tiết lộ rằng màn ra mắt của nhóm nam chiến thắng đã bị hủy bỏ.[67][68] Sự thất bại của buổi biểu diễn dẫn đến khoản lỗ phát sinh 7 tỷ won trong quý đầu tiên và 4 tỷ won trong ba tháng cuối năm 2017,[13][69] khiến JYP Entertainment vượt qua YG để trở thành công ty K-pop có giá trị cao thứ hai.[70]

Blackpink ra mắt vào năm 2016 và trở thành nhóm nhạc nữ K-pop đầu tiên có bốn đĩa đơn quán quân trên bảng xếp hạng Doanh thu bài hát kỹ thuật số thế giới của Billboard.[71][72]

Tháng 5 năm 2018, Psy rời công ty sau 8 năm gắn bó.[73] Thành viên Tablo của Epik High thông báo nhóm nhạc hip-hop của anh đã chấm dứt hợp đồng với YG sau 6 năm hoạt động cùng nhau vào tháng 10 năm 2018.[74] Đồng thời, HIGHGRND và nghệ sĩ này đã được ra mắt khỏi YG và Epik High. Vào tháng 11 năm 2018, YG đã công bố YG Treasure Box, một chương trình sống còn về tài năng để xác định đội hình cho nhóm nhạc nam tiếp theo dự kiến ra mắt vào năm 2019.[75] YG sau đó đã thông báo rằng sự kiện này sẽ tạo ra hai nhóm, Treasure và Magnum, cả hai sẽ hoạt động với tên gọi là Treasure 13.[76]

Vào năm 2019, vụ bê bối Burning Sun liên quan đến Seungri của Big Bang nóng lên và dẫn đến việc Seungri quyết định rút lui khỏi ngành giải trí để anh có thể tập trung vào pháp lý. Vụ án kéo theo tên tuổi anh chính thức tuyên bố giải nghệ vào ngày 11 tháng 3 năm 2019.[77] Diễn viên hài Yoo Byung-jae quyết định rời YG trước khi hợp đồng của anh kết thúc, sau vụ bê bối này, tên tuổi của công ty càng bị kéo xuống.[78] Đầu tháng 6 năm 2019, trưởng nhóm iKon B.I bị cho là đã cố gắng mua trái phép LSD và cần sa vào năm 2016, anh đã tuyên bố xin lỗi người hâm mộ và tuyên bố rời iKon cũng như YG Entertainment. Nhà sản xuất điều hành của YG, Yang Hyunsuk cũng được cho là đã thông đồng với cảnh sát để che đậy vụ án B.I.[79]

Yang cũng bị buộc tội rửa tiền, đánh bạc bất hợp pháp và chuẩn bị dịch vụ tình dục cho các nhà đầu tư tiềm năng.[80][81] Do hàng loạt vụ bê bối và tranh cãi này, Yang Hyun Suk đã từ chức khỏi tất cả các vị trí của mình tại công ty. Tương tự như vậy, em trai của anh ấy, Yang Min Suk, đã từ bỏ vị trí Giám đốc điều hành của YG Entertainment như một hình thức chịu trách nhiệm. Việc từ chức này được thông báo chính thức vào ngày 14 tháng 6 năm 2019.[82][83][84] CFO Hwang Bo-kyung được bổ nhiệm làm CEO mới của YG vào ngày 20 tháng 6 năm 2019.[85]

Tháng 7/2019, rapper One thông báo chia tay YG và thành lập công ty riêng.[86] Sau khi 2NE1 tan rã vào năm 2016, CL thông báo rằng cô sẽ không gia hạn hợp đồng với YG Entertainment vào tháng 11 năm 2019.[87] Cuối tháng 12 năm 2019, ca sĩ solo Lee Hi thông báo YG không còn là công ty chủ quản của cô, không lâu sau đó cô phát hành album mới với AOMG.[88][89]

2020–nay: Những phát triển gần đây

[sửa | sửa mã nguồn]
Treasure vào tháng 4 năm 2022

Vào năm 2020, YG đã công bố kế hoạch ra mắt của Treasure đã bị trì hoãn từ năm 2019, Blackpink của album đầy đủ đầu tiên và sự trở lại của Big Bang cuối cùng đã bị trì hoãn cho đến năm 2022. Họ dự kiến sẽ xuất hiện tại lễ hội Coachella năm 2020, cho đến khi nó bị hủy bỏ do đại dịch COVID-19.[90] Trong nửa đầu năm 2020, tăng trưởng tài chính của YG dần phục hồi sau thời kỳ lao dốc. Điều này được hỗ trợ bởi định hướng chiến lược kinh doanh chủ yếu hướng đến người hâm mộ quốc tế.[91] Tình cảm của công chúng trong nước vẫn chưa cho thấy ảnh hưởng tích cực, nhưng 70% doanh thu của YG Entertainment đến từ người hâm mộ nước ngoài, phần lớn đến từ các hoạt động đầu tiên của iKon sau khi B.I rời đi và hoạt động của G-Dragon ở Trung Quốc vào thời điểm đó.[92]

Trong nửa cuối năm 2020, YG cho thấy xu hướng tài chính khả quan nhờ loạt album đầu tay của Treasure, full album của Blackpink, hoạt động solo của Mino, Yoon của nhóm Winner và Suhyun của AKMU. Dù không đạt mục tiêu kỳ vọng nhưng giá trị này được cho là do dịch COVID-19 khiến một số buổi diễn bị hủy.[93] Việc xây dựng tòa nhà YG Entertainment mới được tuyên bố hoàn thành vào tháng 9 năm 2020, tòa nhà này được chọn là tòa nhà công ty giải trí sang trọng và đắt đỏ nhất tại Hàn Quốc.[94][95]

Vào tháng 1 năm 2021, có thông tin cho rằng Big Hit Entertainment và bộ phận công nghệ beNX đã đầu tư tổng cộng 70 tỷ won (63 triệu đô la Mỹ) vào công ty con của YG Entertainment là YG Plus, tương đương 17,9% cổ phần của công ty. tổng số cổ phần. Khoản đầu tư này được thực hiện như một hình thức hợp tác chiến lược giữa Big Hit Entertainment, beNX, YG Entertainment và YG Plus, sẽ hợp tác với nhau trong các lĩnh vực kinh doanh khác nhau như nền tảng, phân phối, nội dung và hàng hóa. YG Plus là nhà phân phối chính các sản phẩm của Hybe Corporation và beNX (nay là Weverse Company) cung cấp nội dung và nền tảng cho các nghệ sĩ YG.[96][97]

Vào ngày 4 tháng 5 năm 2021, Sàn giao dịch chứng khoán Hàn Quốc thông báo rằng YG đã bị giáng cấp từ công ty blue-chip xuống các doanh nghiệp cỡ trung bình thường. Trạng thái blue-chip đã được mua lại vào tháng 4 năm 2013. Công ty ghi nhận khoản lỗ ròng 1,8 tỷ won và lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu là -0,5%. Hoạt động kinh doanh chính của nó, sản xuất và quản lý âm nhạc, đã bị lỗ trong hoạt động trong hai năm qua.[98]

Vào năm 2022, YG Entertainment đã thông báo rằng Treasure sẽ trở lại với album mới của họ,[99] album sẽ được phát hành vào tháng 2 năm 2022.[100] Sau khi Jinwoo và Seunghoon hoàn thành nghĩa vụ quân sự bắt buộc vào tháng 1 năm 2022, Winner đã tập hợp đội hình đầy đủ và thông báo sẽ sớm trở lại với album mới và đội hình đầy đủ sau khi Seungyoon và Mino tích cực phát hành album solo trong thời gian nhóm tạm nghỉ,[101] YG Entertainment thông báo rằng Seungyoon sẽ phát hành một album vào tháng 3 năm 2022.[102] Treasure và Winner sẽ tổ chức concert riêng vào tháng 4 năm 2022.[103][104]

Vào tháng 2 năm 2022, YG Entertainment thông báo rằng Big Bang sẽ phát hành màn trở lại đầu tiên sau 5 năm gián đoạn. Ngoài ra, họ cũng thông báo rằng T.O.P đã chấm dứt hợp đồng với YG.[105] Vào ngày 1 tháng 7 năm 2022, Yang Min-suk, anh trai của người sáng lập YG Entertainment, Yang Hyun-suk, đã trở lại công ty sau 3 năm làm đồng CEO, cùng với CEO hiện tại, Hwang Bo-kyung.[2]

Vào ngày 26 tháng 12 năm 2022, có thông báo rằng cả Taeyang và Daesung sẽ rời YG Entertainment sau 16 năm. Taeyang sẽ chuyển sang công ty con The Black Label trong khi Daesung đang tìm kiếm một khởi đầu mới dưới một công ty mới và cả hai đều cam đoan rằng họ sẽ vẫn là thành viên của BigBang. Vào ngày 30 tháng 12 năm 2022, YG thông báo rằng tất cả các thành viên còn lại của iKon đã quyết định không gia hạn hợp đồng sau 7 năm hoạt động trong ngành. Sự ra mắt của nhóm nhạc nữ mới của YG sau bảy năm, BabyMonster, cũng được nhá hàng.[106]

Đối tác

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong nước, YG đã có quan hệ đối tác với M-Boat Entertainment và EunGun Entertainment, Yamazone Music và Booda Sound. Sau khi hợp đồng với Big Mama và Soul Star kết thúc, EunGun và M-Boat cũng kết thúc các hoạt động của họ với YG Entertainment.

Bắt đầu từ năm 2005, YG mở rộng sang thị trường nước ngoài. Se7en là nghệ sĩ YG đầu tiên mở rộng hoạt động sang những nước còn lại của châu Á. YG đã hợp tác cùng Nexstar Records, một nhãn hiệu Nippon Columbia, để quản lý việc phát hành những sản phẩm tiếng Nhật của Se7en [107]

Universal Music Japan quản lý các hoạt động tại Nhật của Big Bang,[108] và Avex Group quản lý các hoạt động tại Nhật của 2NE1.[109] YG Entertainment phát hành các album tiếng Hàn thông qua 21 East Entertainment tại Trung Quốc, GMM International tại Thái Lan, và Universal Records tại Philippines.[110][111][112]

Năm 2011, YG Entertainment hợp tác với SM Entertainment, JYP Entertainment, KeyEast, AMENT và Star J Entertainment tạo nên United Asia Management để tạo ra một nỗ lực quảng bá âm nhạc Hàn Quốc ra quốc tế [113]

KMP Holdings

[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 3 năm 2010, KMP Holdings được thành lập thông qua hợp tác giữa YG, SM Entertainment, JYP, Star Empire và các công ty khác. KMP là nhà phân phối chính thức những sản phẩm của những công ty trên. KMP là viết tắt của Korean Music Power.[114]

United Asia Management

[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 4 năm 2011, YG, SM, JYP, KeyEast, AMENT và Star J Entertainment đã hợp tác thành lập United Asia Management nhằm mục đích quảng bá âm nhạc Hàn Quốc ra thế giới.[115]

YGEX

[sửa | sửa mã nguồn]

YGEX được thành lập dưới quan hệ đối tác giữa Avex Group và YG Entertainment cho việc quảng bá và phát hành của các nghệ sĩ YG tại Nhật Bản. Các nghệ sĩ của YGEX bao gồm tất cả những nghệ sĩ đang hoạt động thuộc YG Entertainment.[116]

YG Plus

[sửa | sửa mã nguồn]

YG Plus Inc., trước đây là Phoenix Holdings Inc.,là một công ty truyền thông và quảng cáo được YG Entertainment mua lại vào tháng 10 năm 2014. Yang Min-suk được bổ nhiệm làm CEO của công ty, YG Entertainment sở hữu 38,6% cổ phần của công ty. Một số khách hàng đáng chú ý của nó bao gồm Coca-Cola, SK Telecom và The Face Shop. YG Plus hiện sở hữu 100% cổ phần của YG KPlus và YG Golf Academy, với cổ phần thiểu số tại Moonshot và Nonagon. Năm 2019, công ty bước vào lĩnh vực phân phối âm nhạc. Vào ngày 27 tháng 1 năm 2021, nó đã được tiết lộ rằng Hybe Corporation và công ty con công nghệ của Hybe, Weverse Company (trước đây là beNX) đã đầu tư 70 tỷ KRW (~ 63 triệu USD) vào công ty.[117]

YG & Hyundai Card

[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 6 năm 2012, YG đã kết hợp cùng với hãng sản xuất Hyunndai để chung tay phát hành và quảng bá album Still Alive của Big Bang.[118]

Từ thiện

[sửa | sửa mã nguồn]

YG Entertainment là một công ty tham gia rất nhiều hoạt động từ thiện, tạo dựng chiến dịch cộng đồng cùng với WITH. Họ quyên góp 100 won cho mỗi album bán ra, 1% từ các doanh thu bán lẻ, và 1,000 won cho bất cứ các vé hòa nhạc nào được bán ra cho các tổ chức từ thiện. Vào năm 2009, số tiền lên tới $141,000 USD. Họ vượt mức số tiền đó vào năm sau với $160,000 USD. Tổng cộng là $87,000 USD dành cho các suất học bổng cho Holt Children's Services trong khi $69,000 USD là dành cho các trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo. YG Family cũng đã trực tiếp quyên tặng $4,400 USD, đó là số tiền mua than cho các gia đình nghèo khó trong mùa đông.[119] Công ty cũng thông báo rằng sẽ ủng hộ khoảng USD $500,000 cho việc cứu trợ các nạn nhân của trận động đất và sóng thần tại Nhật Bản năm 2011.[120]

Nghệ sĩ

[sửa | sửa mã nguồn]

Nghệ sĩ thu âm hiện tại

[sửa | sửa mã nguồn]
Nhóm nhạc
  • Sechs Kies
  • Big Bang
  • 2NE1
  • Winner
  • Blackpink
  • Treasure
  • BabyMonster

Bộ đôi

  • GD & TOP
  • AKMU
  • GD X Taeyang
  • BOM&HI

Solo

  • Eun Ji-won
  • Big Bang
    • Taeyang
    • G-Dragon
    • Daesung
  • Winner
    • Kang Seung-yoon
    • Jinu
    • Mino
  • Blackpink:
    • Jisoo
    • Jennie
    • Rosé
    • Lisa
  • Treasure
    • Yedam
  • AKMU
    • Lee Suhyun
    • Lee Chanhyuk
  • 2NE1
    • CL
    • Park Bom
    • Dara
    • Minzy

Nhà sản xuất

  • G-Dragon (Big Bang)
  • T.O.P (Big Bang)
  • Teddy
  • P.K
  • DEE.P
  • Mino (Winner)
  • Kang Seung-yoon (Winner)
  • Lee Chan-hyuk (AKMU)
  • Choice37
  • Bigtone
  • Kang Uk-jin
  • Millennium
  • Ham Seung-chun
  • Airplay
  • Rovin
  • ihwak
  • Diggy
  • Liøn
  • Lydia Paek

Công ty con

[sửa | sửa mã nguồn]

The Black Label

  • Rosé
  • Jeon So-mi
  • Okasian
  • Vince
  • Loren
  • Nhà sản xuất
    • Seo Won-jin
    • Jeon Somi
    • Dress
    • Joe Rhee
    • R.Tee
    • 24
    • Peejay
    • Okasian (The Cohort)
    • Bryan Chase (The Cohort)

YGX

  • Viini
  • Anda
  • Nhà sản xuất:
    • Choice37
    • Hae
    • Se.A
    • 1105
    • Lil G
    • Sonny

YGKplus

  • ATO6

Diễn viên

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Cha Seung-won
  • Choi Ji-woo
  • Claudia Kim
  • Han Seung-yeon[a]
  • Jang Hyun-sung
  • Jang Ki-yong[b]
  • Jin Kyung
  • Jung Hye-young
  • Jung Yun-seok[a]
  • Joo Woo-jae[a][b]
  • Kal So-won
  • Kang Hui
  • Kang Seung-yoon
  • Kim Hee-ae
  • Kim Ji-soo
  • Kwon Han-sol[a]
  • Kwon Hyun-bin[a][b]
  • Kyung Soo-jin
  • Lee Ho-jung[b]
  • Lee Hyun-wook[b]
  • Lee Joo-myung
  • Lee Ki-taek
  • Lee Soo-hyuk[a]
  • Lee Sung-kyung
  • Lee Woo-je
  • Nam Kyu-hee[b]
  • Park Hyeong-seop[b]
  • Park So-yi
  • Park Soo-yeon
  • Park Tae-in[a]
  • Seo Jeong-yeon
  • Seo Lee-seo
  • Shim Young-eun
  • Son Na-eun
  • Wang Yi-jun
  • Yoo In-na
  • Yoo Seung-ho

● Park Yoo Na

KooJunhoe

Vũ công

[sửa | sửa mã nguồn]

HI-TECH

  • Lee Jae-wook
  • Park Jung-heon
  • Kim Hee-yeon
  • Kim Byung-gon
  • Kwon Young-deuk
  • Kwon Young-don
  • Yoo Choong-jae
  • Heo Jun-seon
  • Lee Sa-heon
  • Shin Dong-ho

CRAZY

  • Kim Hee-jung
  • Won Ah-yeon
  • Kim Min-jung
  • Park Eun-young
  • Choi Sae-bom
  • Choi Hye-jin
  • Kim I-seul
  • Jin Su-hyun
  • Mai Murakawa
  • Son Su-bin
  • Park Eun-chong
  • Lulu Kim

Người mẫu

[sửa | sửa mã nguồn]

Người mẫu nữ

  • Ahn Ye-won (thí sinh Produce 48)
  • Bae Yoon-young
  • Cho Yelim
  • Choi Ah-reum
  • Choi Ha-rim
  • Choi Jung-in
  • Choi Yeon-soo (thí sinh Produce 48)
  • Choi Young-ji
  • Choi Sae-hui
  • Choi So-ra
  • Ellis Ahn
  • Gil Minso
  • Ha Naryoung
  • Han Hye-yeon
  • Hanna N
  • Huh Bo-mi
  • Hong Hyo
  • Hong Na-kyung
  • Hwang Hyun-joo
  • Hwang So-hee
  • Hyun Ji-eun
  • Jeon Min ok
  • Ji ESuu
  • Jisoo (Blackpink)
  • Ji Ho-jin
  • Jo Hye-joo
  • Ju Hee-jeong
  • Jung Han-sol
  • Jung Ji-young
  • Jung Soo-hyun
  • Jung Yoo-sun
  • Kang Yoon-ji
  • Kelly Low (Park Min Jae)
  • Kim Eun-sun
  • Kim Hae-ah
  • Kim Hyo-kyung
  • Kim Hyun-hee
  • Kim Sae-in
  • Kim Sang-Won
  • Kim Su-bin
  • Kim Yae-ji
  • Kim Ye-rim
  • Ko Eun-bi
  • Jennie (Blackpink)
  • Kwon Ji-ya
  • Lisa (Blackpink)
  • Jeon So-mi
  • Lee Ha-eun
  • Lee Ho-jung
  • Lee Jay
  • Lee Ji-hye
  • Lee Jung-hyun
  • Lee Roo-young
  • Lee Seung-mee
  • Lee Song-yi
  • Lee Su-jin
  • Lee Sung-kyung
  • Lee Yeon-joo
  • Nadine Lee
  • Oh Hye-ji
  • Park Jung-min
  • Park Sae-jin
  • Park Su-jin
  • Park Sun-ha
  • Park Yae-woon
  • Shim Soyoung
  • Shin Ha-young
  • Shin Hey-nam
  • Shin Hye-jin
  • Shin Hyun-ji
  • Shin Yae-min
  • Song Hyun-min
  • Song Jae-hee
  • Tiana Tolstoi
  • Um Ye-jin
  • Um Yoo-jung
  • Wu I-Hua
  • Yang Rira
  • Yeo Yeon-hui
  • Yoo Eun-bi
  • Yoon Seon-ah
  • Rosé (Blackpink)

Người mẫu nam

  • Ahn Ju-ni
  • Bae Joon-seok
  • Bang Joo-ho
  • Cheon Sang-hun
  • Cho David
  • Cho Hwan
  • Cho Hyo-in
  • Cho Sung-hoon
  • Choi Chang-wook
  • Choi Han-bin
  • Choi Jeong-gab
  • Choi Yeon-kyu
  • Erick Vic.
  • Go Ung-ho
  • Ha Seok-hwan
  • Han Sol
  • Hwang In-yeop
  • Jang Ki-yong
  • Joo Woo-jae
  • Joel Roberts
  • Jeon Jun-yeong
  • Jeong Rok-hui
  • Jiwon Hyuk
  • Jung Hyo-joon (tham gia Produce 101 mùa 2)
  • Jung Jong-won
  • Jung Sung-joon
  • Jung Ui-sung
  • Jung Yongsoo
  • Kang Hui
  • Kang Hyuk-moon
  • Kang Sung-jin
  • Kang Won-jae
  • Kim Alex
  • Kim Bo-heon
  • Kim Gun-woo
  • Kim Gyu-ho
  • Kim Hak-soo
  • Kim Han-byul
  • Kim Ho-sung
  • Kim Hyun-jin
  • Kim Hyun-woo (ATO6)
  • Kim Jong-hoon
  • Kim Jung-sik
  • Kim Ki-bum
  • Kim Kwan-joon
  • Kim Min-jong
  • Kim Pil-su
  • Kim Seung-eun
  • Kim Seung-hyun
  • Kim Sung-yeon
  • Kim Tae-wan
  • Kim Tae-woo
  • Kim Woo-ram
  • Kim Young-seok
  • Kwon Ju-hyung
  • Lee Bom-chan
  • Lee Gi-hean (ATO6)
  • Lee Hyun-jun
  • Lee Hyun-wook
  • Lee Hyung-seok
  • Lee Jae-seok
  • Lee Jin-kyeong
  • Lee Ji-seok
  • Lee Keun-yong
  • Lee Ki-taek
  • Lee Myoun-gil
  • Lee Seok-chan
  • Lee Soo-min
  • Lee Soo-hyuk
  • Lee Woo-chan
  • Lim Hoo-seok
  • Lim Jae-hyung
  • Meng Joo-ho
  • Nam Goong-dam
  • Nikita Tolstoi
  • Oh Jae-young
  • Park Bo-sung
  • Park Byung-min
  • Park Hong (ATO6)
  • Park Hyeong-seop
  • Park Jong-ik
  • Park Ki-tae
  • Park Yae-chan
  • Seo Soo-won
  • Seo Hong-seok
  • Seok Ji-an
  • Seong Woo-jin
  • Shin Jae-hyuk
  • Shin Dong-ho
  • Shin Yong-guk (ATO6)
  • Son Hyun-woo (ATO6)
  • Viini (cựu thành viên JBJ)
  • Song Kyung-mok
  • Yoo Hyun-woo
  • Yoon Jun-woo
  • Yoon Su-ho
  • Won Jeong Hwang

Thực tập sinh

[sửa | sửa mã nguồn]

Thực tập sinh nữ

  • Vương Tư Dư (Jane) (1999) (thí sinh Idol Producer 3)
  • Kang Seo-jin (2000) (thí sinh Kpop Star Mùa 4)
  • Ngụy Thần (Vicky) (2000) (thí sinh Idol Producer 3)
  • Im Chae-yoon (2004)
  • Ahn Su-bin (2003)
  • Kim Jang-mi (2004)
  • Kim Eun-kyul (2005)
  • Han Byul (2006) (thí sinh Kpop Star Mùa 6)
  • Yang Chae-un (2006)
  • Byun Seo-young (2007)

Thực tập sinh nam

  • Trâu Mộc Lâm (Merle) (1998)
  • Trần Kim Hâm (1998) (thí sinh Idol Producer 4)
  • Ức Hiên (Kingston) (1999) (thí sinh Idol Producer 4)
  • Đỗ Ái Kiệt (Dimo) (2002)
  • Ngụy Tinh Chưng (Vic)
  • Hoang Huy Hoang (후이황) (2008) (thí sinh Idol Producer 3)

Cựu nghệ sĩ và diễn viên

[sửa | sửa mã nguồn]

Cựu nghệ sĩ

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Keep Six (1996)[121]
  • Sechs Kies
    • Kang Sung-hoon (2016–2019)[122]
  • Jinusean (1997–2020)[c]
  • 1TYM (1998–2006)[d]
  • Masta Wu (2000–2016)[123]
  • Swi.T (2002–2005)[124]
  • Wheesung (2002–2006)
  • Gummy (2003–2013)
  • Big Mama (2003–2007)
  • Seven (2003–2015)
  • Digital Masta (2003–2011)[125]
  • Lexy (2003–2007)
  • Stony Skunk (2003–2008)
  • XO (2003–2004)
  • Wanted (2004–2006)[126]
  • Brave Brothers (2004–2008)
  • 45RPM (2005–2008)[127]
  • SoulStaR (2005–2007)[127]
  • 2NE1 (2009–2016)[128]
    • Minzy (2009–2016)[129][130]
    • Park Bom (2009–2017)
    • CL (2009–2019)
    • Dara (2009–2021)[131]
  • Psy (2010–2018)
  • Lee Hi (2012–2019)[132]
  • Epik High (2012–2018)
  • Winner
    • Taehyun (2014–2016)[133]
  • HIGHGRND Artists (2015–2018)[e]
  • Hi Suhyun (2014–2019)[f]
  • MOBB (2016–2019)[g]
  • One (2015–2019)[134]
  • iKON (2015 - 2022)
    • B.I (2015–2019)[135]

Cựu diễn viên

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Park Han-byul (2002–2004)[127]
  • Jung Sung-il (2009–2011)[127]
  • Heo Yi-jae (2009–2011)[127]
  • Kang Hye-jung (2001–2013)
  • Stephanie Lee (2014–2017)[136]
  • Lee Yong-woo (2014–2017)
  • Koo Hye-sun (2003–2017)
  • Jung Yoo-jin (2016–2018)
  • Lee Jong-suk (2016–2018)
  • Go Joon-hee (2017–2019)
  • Oh Sang-jin (2017–2019)
  • Kim Hee-jung (2016–2019)
  • Kim Sae-ron (2016–2019)
  • Im Ye-jin (2014–2019)
  • Wang Ji-won (2018–2020)
  • Nam Joo-hyuk (2013–2020)

Cựu diễn viên hài

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Yoo Byung-jae (2015–2019)
  • Ahn Young-mi (2015–2020)

YG Family Concerts và Tours

[sửa | sửa mã nguồn]
  • One Concert 2003 (Hàn Quốc)
  • Color of the Soul Train 2003 (Hàn Quốc)
  • One Concert 2004 (Hàn Quốc)
  • Thank U Concert 2005 (Hàn Quốc)
  • One Concert 2005 (Hàn Quốc)
  • 10th Anniversary World Tour 2006 (Hàn Quốc, Nhật Bản và Mỹ)
  • One Concert 2007 (Hàn Quốc)
  • Concert 2010 (Hàn Quốc)
  • YG Family Concert 2012 (Hàn Quốc Nhật Bản)
  • YG Family Concert 2014:POWER (Vòng quanh thế giới)

Ghi chú

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e f g as part of YGX Entertainment
  2. ^ a b c d e f g as part of YGKPlus
  3. ^ While no official disbandment was announced, Jinusean's artist profile was removed in 2020, signifying the group is no longer active under the label.
  4. ^ While no official disbandment was announced, 1TYM's artist profile was removed in 2014, signifying the group is no longer active under the label.
  5. ^ Artists: Hyukoh, Punchnello, OffonOff, Incredivle, The Black Skirts, IdiotapeProducers: Code Kunst & Millic
  6. ^ While no official disbandment was announced, Hi Suhyun's artist profile was removed in 2019, signifying the group is no longer active under the label.
  7. ^ While no official disbandment was announced, MOBB's artist profile was removed in 2019, signifying the group is no longer active under the label.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “YG ENTERTAINMENT Brand Identity Renewal on Behance”. 8 tháng 3 năm 2013. Lưu trữ bản gốc 3 Tháng tám năm 2022. Truy cập 17 Tháng mười một năm 2021.
  2. ^ a b “YG Entertainment founder's younger brother reinstated as co-CEO”. Yonhap News Agency (bằng tiếng Anh). 1 tháng 7 năm 2022.
  3. ^ “YG ENTERTAINMENT INC. (A122870)”. 9 tháng 7 năm 2023. Lưu trữ bản gốc 28 Tháng sáu năm 2023. Truy cập 9 tháng Bảy năm 2023.
  4. ^ [와이지엔터테인먼트] 연결재무제표 기준 영업(잠정)실적(공정공시) [[YG Entertainment] Sales (provisional) performance based on consolidated financial statements (fair disclosure)] (bằng tiếng Hàn). 11 tháng 11 năm 2021. Lưu trữ bản gốc 3 tháng Bảy năm 2022. Truy cập 17 Tháng mười một năm 2021.
  5. ^ “YG Entertainment Major Stockholders”. Lưu trữ bản gốc 24 tháng Năm năm 2021. Truy cập 24 tháng Năm năm 2021.
  6. ^ Shim, Sun-ah; Lee, Eun-jung. “(Yonhap Interview) After 'successful' 20 years, YG Entertainment to keep pursuing refined music: CEO”. Yonhap News. Lưu trữ bản gốc 4 Tháng tư năm 2019. Truy cập 27 Tháng Một năm 2017.
  7. ^ a b c “YG is different”. The Korea Times. 17 tháng 4 năm 2015. Lưu trữ bản gốc 11 Tháng tám năm 2016. Truy cập 16 Tháng sáu năm 2016.
  8. ^ a b Song, Su-hyun (15 tháng 8 năm 2016). “[KOSDAQ Star] Strong Japanese partner to defend YG from THAAD risk”. The Korea Herald. Lưu trữ bản gốc 16 Tháng tám năm 2016. Truy cập 17 Tháng tám năm 2016.
  9. ^ Kim, JiYeon (ngày 19 tháng 5 năm 2012). “KPOP NEWS - The History of Yang Hyun Suk and YG: From ′Boy′ to ′CEO′ (Pt. 1)”. Mwave. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2016.
  10. ^ “G-Dragon - 내 나이 열셋 (My Age is 13) Full MV”. YouTube. ngày 25 tháng 4 năm 2012. Lưu trữ bản gốc 5 Tháng Ba năm 2014. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2015.
  11. ^ Lee, Nancy (ngày 21 tháng 3 năm 2013). “KPOP NEWS - [K-Pop Battle] Se7en vs. Rain”. Mwave. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2016.
  12. ^ “K-Pop Idols And The Formidable American Debut - KultScene”. KultScene (bằng tiếng Anh). ngày 21 tháng 10 năm 2014. Lưu trữ bản gốc 6 Tháng sáu năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2016.
  13. ^ a b Park, Ga-young (30 tháng 5 năm 2018). “YG Entertainment, fly or fail?”. The Investor (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc 12 tháng Bảy năm 2018. Truy cập 12 tháng Bảy năm 2018.
  14. ^ “Big Bang's Global Influence: How to Build a Boy Band That Lasts”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc 30 tháng Năm năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2015.
  15. ^ (bằng tiếng Hàn Quốc) Kim, Hyeong-wu. 2NE1 아이돈케어 ‘힙합전사에서 귀여운 여인 깜짝 변신’ (2NE1's "I Don't Care" "Swift Change from Hip-Hop Warriors to Sweet Girls") Lưu trữ 2009-09-13 tại Wayback Machine. IS Plus/Newsen. ngày 1 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2009.
  16. ^ Herman, Tamar (ngày 12 tháng 7 năm 2017). “10 Best K-Pop Girl Groups of the Past Decade: Critic's Picks”. Billboard. Lưu trữ bản gốc 12 Tháng Ba năm 2019. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2017.
  17. ^ Liu, Marian (ngày 17 tháng 2 năm 2017). “K-pop's growing pains: Why Asia's biggest bands are splitting up”. CNN. Lưu trữ bản gốc 19 Tháng Một năm 2019. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2017.
  18. ^ “53rd Japan Record Award winners”. Tokyograph. ngày 20 tháng 11 năm 2011. Lưu trữ bản gốc 22 Tháng mười một năm 2011. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2012.
  19. ^ “AKB48 wins 53rd Japan Record Award”. Tokyograph. ngày 30 tháng 12 năm 2011. Lưu trữ bản gốc 26 Tháng tư năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2012.
  20. ^ Shamdasani, Pavan (ngày 9 tháng 11 năm 2009). “How to Crack Japan: The Big Bang Theory”. Time. Bản gốc lưu trữ 1 tháng Chín năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2010.
  21. ^ “YG Entertainment invests large amount of money in a new building for its artists”. Koreaboo (bằng tiếng Anh). ngày 3 tháng 7 năm 2015. Lưu trữ bản gốc 25 Tháng tư năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2016.
  22. ^ “YG Entertainment Moving to Own Company Building”. HanCinema (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc 8 Tháng tám năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2016.
  23. ^ “Korean entertainment firms fail to go public”. koreatimes. ngày 5 tháng 1 năm 2011. Lưu trữ bản gốc 11 Tháng tám năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2016.
  24. ^ “Psy reveals the reason why he joined YG Entertainment”. dkpopnews.net. Bản gốc lưu trữ 20 Tháng mười một năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2012.
  25. ^ “The world's first global Korean pop star”. 4Music.com. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2012.
  26. ^ 'Gangnam Style' Most Watched YouTube Video Ever”. ABC News. ngày 29 tháng 11 năm 2012. Lưu trữ bản gốc 28 Tháng mười một năm 2012. Truy cập 18 Tháng tư năm 2021.
  27. ^ “Psy Reflects On Fifth Anniversary of 'Gangnam Style': 'I Still Don't Know Why It Was So Special'”. Billboard. Lưu trữ bản gốc 23 tháng Mười năm 2017. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2017.
  28. ^ Cha, Seonjin. “Psy's 'Gangnam Style' Hits 1 Billion Views on YouTube”. Bloomberg. Lưu trữ bản gốc 25 Tháng mười hai năm 2012. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2012.
  29. ^ “Has Psy's 'Gangnam Style' Helped Double Daddy's Stock?”. Yahoo Finance. Lưu trữ bản gốc 10 Tháng tám năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2016.
  30. ^ Kim, JiYeon (ngày 15 tháng 11 năm 2011). “KPOP NEWS - Why Did YG Entertainment Sign Tablo and Psy?”. Mwave. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2016.
  31. ^ small_smiley (ngày 26 tháng 7 năm 2012). “Epik High Signs with YG Entertainment”. Soompi. Bản gốc lưu trữ 9 Tháng tám năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2016.
  32. ^ “KPOP NEWS - [Interview] What Lee Hi Wants from YG and Yang Hyun Suk”. Mwave. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2016.
  33. ^ “Why did Akdong Musician choose YG Entertainment?”. Allkpop. Lưu trữ bản gốc 23 tháng Năm năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2016.
  34. ^ “YG Entertainment Signs On the 12-Year Old Bang Yedam from 'K-Pop Star Season 2'website=Ningin”. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2016.
  35. ^ “Meet WINNER: K-Pop's Exciting New Boy Band”. Billboard. Lưu trữ bản gốc 25 Tháng sáu năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2016.
  36. ^ enews24 전수미 기자 (ngày 20 tháng 1 năm 2014). “차승원, YG패밀리 됐다...싸이·빅뱅과 한솥밥” [Cha Seung Won becomes YG family... labelmates with Psy and Big Bang]. enews24 (bằng tiếng Hàn). enews24. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2014.
  37. ^ “YG Entertainment forms a strategic partnership with model management company K PLUS | allkpop.com”. www.allkpop.com. Lưu trữ bản gốc 4 Tháng Ba năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2016.
  38. ^ “Choi Ji Woo Signs with YG Entertainment”. enewsWorld. ngày 26 tháng 2 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2016.
  39. ^ “Actress Choi Ji-woo joins YG Entertainment”. The Korea Herald. ngày 27 tháng 2 năm 2014. Lưu trữ bản gốc 4 Tháng tư năm 2019. Truy cập 18 Tháng tư năm 2021.
  40. ^ “Actress Choi Ji-woo Joins YG Entertainment”. 10Asia. ngày 26 tháng 2 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 3 năm 2014.
  41. ^ “Hallyu icon joins YG Family”. Korea JoongAng Daily. ngày 27 tháng 2 năm 2014. Lưu trữ bản gốc 4 Tháng tư năm 2019. Truy cập 18 Tháng tư năm 2021.
  42. ^ Mok, Fei Fei (ngày 13 tháng 9 năm 2014). “L Capital Asia, YG Entertainment exploring potential tie-ups”. The Straits Times. Lưu trữ bản gốc 13 tháng Chín năm 2014. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2014.
  43. ^ “YG Entertainment to unveil cosmetics brand 'moonshot' with a launching party | allkpop.com”. www.allkpop.com. Lưu trữ bản gốc 10 Tháng tám năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2016.
  44. ^ “Check Out Korea's Hottest New Beauty Brand”. Refinery29. Lưu trữ bản gốc 14 Tháng sáu năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2016.
  45. ^ Steven Koh (ngày 17 tháng 1 năm 2015). “YG Entertainment To Invest Nearly $100 Million Into K-Pop Culture Venue”. Kpopstarz. Lưu trữ bản gốc 19 Tháng Một năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2015.
  46. ^ “YG Entertainment Invests 16 Billion Won Into Expanding Headquarters”. news.nate.com. ngày 7 tháng 7 năm 2015. Lưu trữ bản gốc 24 Tháng tư năm 2019. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2015.
  47. ^ “Epik High to Start Their Own Label Backed By YG Entertainment and Headed by Tablo”. Naver. Lưu trữ bản gốc 4 Tháng Ba năm 2016. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2015.
  48. ^ “[단독]테디·쿠시, YG독립 레이블 만든다..양현석 직접 기획”. entertain.naver.com. Lưu trữ bản gốc 24 Tháng tư năm 2019. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2016.
  49. ^ “YG Entertainment confirms iKON is indeed making their debut in September! | allkpop.com”. www.allkpop.com. Lưu trữ bản gốc 17 tháng Mười năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2016.
  50. ^ “Member Gong Minzy to leave 2NE1”. kpopherald.koreaherald.com. Lưu trữ bản gốc 24 Tháng tư năm 2016. Truy cập 3 tháng Năm năm 2021.
  51. ^ Herman, Tamar (5 tháng 4 năm 2016). “K-Pop Group 2NE1 Becomes Trio Following Departure of Minzy”. Billboard. Bản gốc lưu trữ 13 tháng Bảy năm 2023. Truy cập 3 Tháng tám năm 2023.
  52. ^ Herman, Tamar (27 tháng 11 năm 2016). “2NE1 Officially Disbands, YG Entertainment Renews Contracts With CL and Dara”. Billboard. Bản gốc lưu trữ 19 tháng Năm năm 2022. Truy cập 3 Tháng tám năm 2023.
  53. ^ “YG "2NE1, 7년만 공식 해체...박봄 재계약 NO"(공식입장 전문)”. entertain.naver.com. Lưu trữ bản gốc 15 Tháng Một năm 2023. Truy cập 3 Tháng tám năm 2023.
  54. ^ Herman, Tamar (5 tháng 1 năm 2017). “2NE1 To Release Final Single Before They Disband”. Billboard. Bản gốc lưu trữ 13 tháng Bảy năm 2023. Truy cập 3 Tháng tám năm 2023.
  55. ^ Network, The Korea Herald/Asia News (12 tháng 5 năm 2016). “Sechs Kies inks contract with YG Entertainment”. entertainment.inquirer.net. Lưu trữ bản gốc 13 tháng Năm năm 2016. Truy cập 16 tháng Năm năm 2016.
  56. ^ “젝스키스, YG서 빅뱅과 같은 대우조건 받는다”. 인사이트 (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc 13 tháng Năm năm 2016. Truy cập 16 tháng Năm năm 2016.
  57. ^ “KPOP NEWS - Sechs Kies Officially Joins YG Entertainment | Mwave”. mwave.interest.me. Bản gốc lưu trữ 12 tháng Năm năm 2016. Truy cập 16 tháng Năm năm 2016.
  58. ^ Frater, Patrick (31 tháng 5 năm 2016). “China's Tencent and Weiying Take $85 Million Stake in Korea's YG Entertainment”. Variety. Lưu trữ bản gốc 4 Tháng tư năm 2019. Truy cập 1 Tháng sáu năm 2016.
  59. ^ Herald, The Korea (10 tháng 5 năm 2016). “Actor Lee Jong-suk signs with YG”. www.koreaherald.com. Lưu trữ bản gốc 16 Tháng sáu năm 2016. Truy cập 16 Tháng sáu năm 2016.
  60. ^ Son, Ji-hyoung (18 tháng 1 năm 2016). “YG clinches contract with Kang Dong-won”. K-pop Herald. Lưu trữ bản gốc 10 tháng Mười năm 2016. Truy cập 10 tháng Năm năm 2016.
  61. ^ Cho, Na-young; Lee, Jae-ha (23 tháng 5 năm 2016). “'꼭지-원빈조카' 김희정, YG와 전속계약 '새출발'”. OSEN (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc 25 tháng Năm năm 2016. Truy cập 23 tháng Năm năm 2016.
  62. ^ “YG 새 걸그룹, '블랙 핑크' 이름의 뜻은?[YG 새 걸그룹 최종발표③]”. Lưu trữ bản gốc 28 tháng Bảy năm 2017. Truy cập 29 Tháng sáu năm 2016.
  63. ^ “YG's solo artist One debuts with 'One Day'”. Lưu trữ bản gốc 1 tháng Mười năm 2017. Truy cập 28 tháng Mười năm 2017.
  64. ^ “Watch: YG drops star-studded Mix Nine trailer”. SBS PopAsia (bằng tiếng Anh). 24 tháng 10 năm 2017. Lưu trữ bản gốc 29 tháng Mười năm 2017. Truy cập 28 tháng Mười năm 2017.
  65. ^ “Yet another idol competition show unveiled in South Korea”. AsiaOne. Bản gốc lưu trữ 28 tháng Mười năm 2017. Truy cập 28 tháng Mười năm 2017.
  66. ^ 뉴스, JTBC (15 tháng 11 năm 2017). “'믹스나인' 대국민 투표 프로모션 영상 공개! 소년X소녀 '9'해줘” (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc 1 Tháng mười hai năm 2017. Truy cập 25 Tháng mười một năm 2017.
  67. ^ “우진영 측 "'믹스나인' 데뷔 무산 맞다, 연습생으로 복귀"”. Newsen (bằng tiếng Hàn). 2 tháng 5 năm 2018. Lưu trữ bản gốc 4 Tháng tư năm 2019. Truy cập 12 tháng Bảy năm 2018.
  68. ^ “[공식입장 전문] YG측 "'믹스나인' 데뷔 무산, 6곳 기획사와 협의 끝 결정..죄송"”. OSEN (bằng tiếng Hàn). Naver. 3 tháng 5 năm 2018. Lưu trữ bản gốc 24 Tháng tư năm 2019. Truy cập 12 tháng Bảy năm 2018.
  69. ^ Park, Jeong-yeob (23 tháng 2 năm 2018). “Uncertainties lie ahead” (PDF). Mirae Asset Daewoo. Lưu trữ bản gốc 24 Tháng tư năm 2019. Truy cập 12 tháng Bảy năm 2018.
  70. ^ Herman, Tamar. “TWICE Leads JYP Entertainment To Become No. 2 K-Pop Agency”. Forbes (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc 7 tháng Năm năm 2018. Truy cập 12 tháng Bảy năm 2018.
  71. ^ Benjamin, Jeff (30 tháng 6 năm 2017). “Blackpink Score Third No. 1 on World Digital Song Sales Chart, Lead K-Pop Females”. Billboard. Lưu trữ bản gốc 23 tháng Mười năm 2017. Truy cập 4 Tháng Một năm 2018.
  72. ^ Zellner, Xander (25 tháng 6 năm 2018). “BLACKPINK Makes K-Pop History on Hot 100, Billboard 200 & More With 'DDU-DU DDU-DU'”. Billboard. Lưu trữ bản gốc 9 Tháng mười một năm 2020. Truy cập 26 Tháng sáu năm 2018.
  73. ^ “[공식입장 전문] YG, 싸이와 8년만에 전속계약 종료.."아름다운 이별"”. entertain.naver.com. Lưu trữ bản gốc 23 Tháng tư năm 2020. Truy cập 1 tháng Năm năm 2019.
  74. ^ “Epik High on Going Independent and the State of the South Korean Music Industry”. www.forbes.com. Lưu trữ bản gốc 8 tháng Mười năm 2022. Truy cập 12 Tháng Ba năm 2022.
  75. ^ OSEN (20 tháng 9 năm 2018). “[공식입장] YG "新보이그룹 준비? 신인 나오는 것은 당연한 일"”. mosen.mt.co.kr (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc 24 tháng Bảy năm 2020. Truy cập 7 tháng Chín năm 2020.
  76. ^ “양현석 "트레저7인+매그넘6인='트레저13'으로 13인조 데뷔"”. spotvnews.co.kr (bằng tiếng Hàn). 7 tháng 2 năm 2019. Truy cập 12 Tháng hai năm 2022.
  77. ^ “Sex, money and drugs: The controversy that ended Seungri's career explained”. Korean Herald. 14 tháng 3 năm 2019. Lưu trữ bản gốc 31 Tháng Ba năm 2023. Truy cập 31 Tháng Ba năm 2022.
  78. ^ Lee Min-young (21 tháng 5 năm 2019). “Comedian Yoo Byung-jae to leave scandal-ridden YG”. Korea Times. Lưu trữ bản gốc 16 Tháng Một năm 2023. Truy cập 31 Tháng Ba năm 2022.
  79. ^ Ock Hyun-ju (13 tháng 6 năm 2019). “Witness accuses YG of collusion with police”. Korean Herald. Lưu trữ bản gốc 16 Tháng Một năm 2023. Truy cập 31 Tháng Ba năm 2022.
  80. ^ Tamar Herman (29 tháng 8 năm 2019). “K-Pop Mogul Yang Hyun-suk Questioned by Seoul Police on Gambling, Sexual Service Allegations”. Billboard. Bản gốc lưu trữ 26 Tháng Ba năm 2023. Truy cập 31 Tháng Ba năm 2022.
  81. ^ Jon Blistein (25 tháng 6 năm 2019). “Yang Hyun-suk, Head of K-Pop Giant YG Entertainment, Resigns Amid Scandals”. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ 16 Tháng Một năm 2023. Truy cập 31 Tháng Ba năm 2022.
  82. ^ Kim Sohee; Kang Shinye (14 tháng 6 năm 2019). “K-Pop Agency YG's Founder Quits as Artists Accused of Drug Use”. Bloomberg. Lưu trữ bản gốc 26 tháng Bảy năm 2019. Truy cập 31 Tháng Ba năm 2022.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  83. ^ Kim Arin (14 tháng 6 năm 2019). “Yang quits as YG chief amid growing suspicions of drug offense cover-up”. Korean Herald. Lưu trữ bản gốc 15 Tháng sáu năm 2019. Truy cập 31 Tháng Ba năm 2022.
  84. ^ Tamar Herman (14 tháng 6 năm 2019). “YG Entertainment Founder Yang Hyun-Suk Leaves K-Pop Company Amid Turmoil”. Billboard. Bản gốc lưu trữ 31 Tháng Ba năm 2022. Truy cập 31 Tháng Ba năm 2022.
  85. ^ “YG Entertainment Appoints New CEO and Addresses Scandals”. E! Online (bằng tiếng Anh). 21 tháng 6 năm 2019. Lưu trữ bản gốc 7 tháng Bảy năm 2019. Truy cập 7 tháng Bảy năm 2019.
  86. ^ “[인터뷰②] '굿바이썸머' 정제원 "YG와 계약 만료..1인 기획사 계획"”. isplus.live.joins.com (bằng tiếng Hàn). 17 tháng 7 năm 2019. Lưu trữ bản gốc 27 Tháng Ba năm 2022. Truy cập 31 Tháng Ba năm 2022.
  87. ^ Jin Hyang-hee (8 tháng 11 năm 2019). “씨엘, 결국 YG 떠난다..."전속계약 종료 합의..각별한 마음으로 응원"[공식입장]”. news.naver.com (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc 8 Tháng mười một năm 2019. Truy cập 31 Tháng Ba năm 2022.
  88. ^ “YG 측 "이하이와 전속계약 종료, 서로 앞날 응원하기로"(공식)”. Newsen (bằng tiếng Hàn). 31 tháng 12 năm 2019. Lưu trữ bản gốc 31 Tháng mười hai năm 2019. Truy cập 31 Tháng Ba năm 2022.
  89. ^ “이하이, AOMG와 전속계약 체결...전격 영입 발표 [공식]”. sport.donga.com (bằng tiếng Hàn). 22 tháng 7 năm 2020. Lưu trữ bản gốc 7 Tháng mười một năm 2020. Truy cập 31 Tháng Ba năm 2022.
  90. ^ Yim Hyun-su (9 tháng 1 năm 2020). “After terrible year, YG hopes to turn things around in 2020”. Korean Herald. Lưu trữ bản gốc 16 Tháng Một năm 2023. Truy cập 31 Tháng Ba năm 2022.
  91. ^ Hazell Lee (18 tháng 12 năm 2020). “YG Entertainment: Securing Fandom”. businesskorea.co.kr. Lưu trữ bản gốc 16 Tháng Một năm 2023. Truy cập 31 Tháng Ba năm 2022.
  92. ^ Hazell Lee (14 tháng 5 năm 2020). “YG Entertainment: Global Demand Stands out even amid Hardship”. businesskorea.co.kr. Lưu trữ bản gốc 16 Tháng Một năm 2023. Truy cập 31 Tháng Ba năm 2022.
  93. ^ Sung Jung-won; Hanny Lee (12 tháng 8 năm 2020). “YG Entertainment: 2020 Marks Start of Recovery”. businesskorea.co.kr. Lưu trữ bản gốc 16 Tháng Một năm 2023. Truy cập 31 Tháng Ba năm 2022.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  94. ^ “YG엔터, 신사옥 이전 시작..."팬들 위한 독립 공간 마련" [공식]” (bằng tiếng Hàn). 23 tháng 9 năm 2020. Truy cập 1 Tháng tư năm 2022.
  95. ^ “YG, 합정 사옥 2000억원...하이브, 월세 17억원 '통임차' (연중라이브)[종합]”. xportnews.com (bằng tiếng Hàn). 5 tháng 11 năm 2021. Lưu trữ bản gốc 8 Tháng tư năm 2022. Truy cập 1 Tháng tư năm 2022.
  96. ^ Choi Jiwon (31 tháng 1 năm 2021). “Big Hit partnership with Naver, YG Plus a win-win for entertainment industry”. Korean Herald. Lưu trữ bản gốc 1 Tháng Ba năm 2021. Truy cập 1 Tháng tư năm 2022.
  97. ^ “빅히트 측 "YG에 700억 규모 투자 단행, 음반음원 유통 사업 협업"(공식)” (bằng tiếng Hàn). 27 tháng 1 năm 2021. Truy cập 1 Tháng tư năm 2022.
  98. ^ Choi Pil-woo (6 tháng 5 năm 2021). “SM·YG '우량→중견기업' 강등, JYP 홀로 '굳건'”. The Bell (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc 16 tháng Năm năm 2021. Truy cập 15 tháng Năm năm 2021.
  99. ^ “트레저, YG 새해 첫 컴백 확정..'커밍순' 포스터 공개”. mosen.mt.co.kr (bằng tiếng Hàn). tháng 1 năm 2022. Lưu trữ bản gốc 8 tháng Mười năm 2022. Truy cập 1 Tháng tư năm 2022.
  100. ^ “From TREASURE to Apink, a wave of K-pop stars to drop new songs next month”. Koreatimes. 21 tháng 1 năm 2022. Lưu trữ bản gốc 5 tháng Mười năm 2022. Truy cập 1 Tháng tư năm 2022.
  101. ^ “위너 완전체 예고에 팬들 환호”. gukjenews.com. 18 tháng 1 năm 2021. Lưu trữ bản gốc 8 tháng Mười năm 2022. Truy cập 1 Tháng tư năm 2022.
  102. ^ “위너 강승윤, 솔로 타이틀곡은 'BORN TO LOVE YOU'”. joynews24.com (bằng tiếng Hàn). 4 tháng 3 năm 2022. Lưu trữ bản gốc 16 Tháng Một năm 2023. Truy cập 1 Tháng tư năm 2022.
  103. ^ “위너, 2년 만에 완전체 콘서트...온라인 동시 진행”. yna.co.kr. 18 tháng 2 năm 2022. Lưu trữ bản gốc 16 Tháng Một năm 2023. Truy cập 1 Tháng tư năm 2022.
  104. ^ Hwang You-mee (7 tháng 2 năm 2022). “[Today's K-pop] Treasure to host 1st concert in April”. Korean Herald. Lưu trữ bản gốc 16 Tháng Một năm 2023. Truy cập 1 Tháng tư năm 2022.
  105. ^ “YG "빅뱅, 올봄 신곡 발표 예정...탑 전속계약 종료" [공식]”. 7 tháng 2 năm 2022. Lưu trữ bản gốc 7 tháng Mười năm 2022. Truy cập 1 Tháng tư năm 2022.
  106. ^ Suacillo, Angela Patricia (30 tháng 12 năm 2022). “YG Entertainment to debut new girl group in 2023”. NME (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ 1 Tháng Một năm 2023. Truy cập 30 Tháng mười hai năm 2022.
  107. ^ McClure, Steve and Russell, Mark (ngày 11 tháng 6 năm 2005). “Korean Pop Seeps Into Japan”. Billboard. Billboard. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2011.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  108. ^ “Big Bang”. Big Bang - Universal Music Japan. Universal Music Group. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2011.
  109. ^ “2NE1”. 2NE1 - Avex Official Website. Avex Group. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2011.
  110. ^ “It's Confirmed! Universal Records Will Release 2NE1 Albums!”. Universal Records Philippines Facebook Page. Facebook. ngày 20 tháng 11 năm 2010. Lưu trữ bản gốc 29 tháng Bảy năm 2012. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2011.
  111. ^ “Lucky Number for 2011 is Se7en”. Universal Records Philippines Facebook Page. Facebook. ngày 8 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2011.
  112. ^ “VIPs, You're Next”. Universal Records Philippines Facebook Page. Facebook. ngày 13 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2011.
  113. ^ (tiếng Hàn)Lee, Jung Hyung (ngày 8 tháng 4 năm 2011). “키이스트, SM, YG, JYP 등 6개사 아시아 매니지먼트 에이전시 'UAM' 설립! (KeyEast, SM, YG, JYP & more join forces to establish a new global agency, "United Asia Management")”. Naver.com. Lưu trữ bản gốc 13 Tháng mười hai năm 2013. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2011.
  114. ^ “MK News”. Lưu trữ bản gốc 22 tháng Mười năm 2013. Truy cập 17 tháng 2 năm 2015.
  115. ^ “UAM -United Asia Management”. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2015.
  116. ^ “YGEX オフィシャルレーベルサイト” [YGEX Official Website]. YGEX (bằng tiếng Nhật). YG Entertainment and Avex Group. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2011.
  117. ^ Hwang, Hye-jin (ngày 27 tháng 1 năm 2021). “빅히트 측 "YG에 700억 규모 투자 단행, 음반음원 유통 사업 협업"(공식)”. Newsen (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc 16 Tháng tư năm 2021. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2021.
  118. ^ “빅뱅 6월6일 새 앨범 발표 깜짝 선언!” [Album mới của BIGBANG được công bố vào ngày 6 tháng 6, một thông báo bất ngờ!] (bằng tiếng Hàn). YG Family. 21 tháng 5 năm 2012. Lưu trữ bản gốc 3 tháng Năm năm 2021. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2021.
  119. ^ (tiếng Hàn)“YG, 2년 연속 1억원+@ 금액 기부”. Newsen. ngày 28 tháng 12 năm 2010. Lưu trữ bản gốc 17 Tháng hai năm 2020. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2011.
  120. ^ Lee, Hye-rin (ngày 15 tháng 3 năm 2011). “YG, 日대지진 피해에 5억원 기부 결정” [YG Entertainment decided to donate 500 million won to earthquake victims]. Naver News (bằng tiếng Triều Tiên). NHN Corp. Lưu trữ bản gốc 1 Tháng mười một năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2011.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  121. ^ “Archived copy”. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2017.Quản lý CS1: bản lưu trữ là tiêu đề (liên kết)
  122. ^ “강성훈, YG 전속계약 해지+젝스키스 활동 종료 "진심으로 사과"(전문)”. entertain.naver.com. Lưu trữ bản gốc 1 tháng Bảy năm 2019. Truy cập 3 tháng Năm năm 2021.
  123. ^ “YG "최근 마스타우 떠났다, 향후 음악활동 응원" 공식입장” (bằng tiếng Hàn). xsportsnews. ngày 8 tháng 1 năm 2016. Lưu trữ bản gốc 1 Tháng tư năm 2019. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2016.
  124. ^ “Yang Hyun Suk opens up about how his relationship with wife Lee Eun Joo began”. allkpop. Lưu trữ bản gốc 2 tháng Bảy năm 2019. Truy cập 3 tháng Năm năm 2021.
  125. ^ “Dok2, Masta Wu, Sojin, and Digital Masta to release collaboration track, "Finale"”. ngày 27 tháng 11 năm 2014. Lưu trữ bản gốc 1 tháng Năm năm 2019. Truy cập 3 tháng Năm năm 2021.
  126. ^ “Archived copy”. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2017.Quản lý CS1: bản lưu trữ là tiêu đề (liên kết)
  127. ^ a b c d e “FORMER MEMBERS (WAS IN YG)”. ngày 21 tháng 6 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2017.
  128. ^ “K-pop girl band 2NE1 breaks up”. ngày 25 tháng 11 năm 2016. Lưu trữ bản gốc 2 tháng Bảy năm 2018. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2016.
  129. ^ '2NE1'에 대한 공식 입장”. YG Entertainment. ngày 5 tháng 4 năm 2016. Lưu trữ bản gốc 4 Tháng tư năm 2019. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2016.
  130. ^ Doo, Rumy (ngày 5 tháng 4 năm 2016). “Member Minzy to leave 2NE1”. Kpop Herald. Lưu trữ bản gốc 24 Tháng tư năm 2016. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2016.
  131. ^ Son Ji-nah (ngày 14 tháng 5 năm 2021). “산다라박, YG엔터테인먼트와 전속계약 만료(전문)[공식]”. Maekyung Sports (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2021.
  132. ^ “YG 측 "이하이와 전속계약 종료, 서로 앞날 응원하기로"(공식)” (bằng tiếng Hàn). ngày 31 tháng 12 năm 2019. Lưu trữ bản gốc 31 Tháng mười hai năm 2019. Truy cập 3 tháng Năm năm 2021.
  133. ^ “YG "위너 남태현 탈퇴 확정, 4인조 재편"(공식입장 전문)”. Lưu trữ bản gốc 5 Tháng hai năm 2020. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2016.
  134. ^ 박정선 기자 (ngày 17 tháng 7 năm 2019). “[인터뷰②] '굿바이썸머' 정제원 "YG와 계약 만료..1인 기획사 계획"” (bằng tiếng Hàn). Naver. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2021.
  135. ^ Yim, Hyun-su (ngày 12 tháng 6 năm 2019). “B.I quits iKON over attempted drug purchase” (bằng tiếng Anh). The Korea Herald. Lưu trữ bản gốc 12 Tháng sáu năm 2019. Truy cập 3 tháng Năm năm 2021.
  136. ^ “[공식입장] 스테파니 리, YNK엔터와 전속계약..임수정과 한솥밥”. OSEN (bằng tiếng Hàn). ngày 26 tháng 4 năm 2017. Lưu trữ bản gốc 1 Tháng tư năm 2019. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2017.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
  • YG Entertainment trên Facebook
  • YG Entertainment trên Twitter
  • YG Entertainment trên Instagram
  • YG Entertainment trên YouTube
  • x
  • t
  • s
YG Entertainment
Điều hành
  • Yang Hyun-suk (người sáng lập)
  • Yang Min-suk (đồng CEO)
  • Hwang Bo-kyung (đồng CEO)
Nghệ sĩ
Solo
  • Eun Ji-won
  • G-Dragon
  • Kang Seung-yoon
  • Mino
  • Jennie
  • Jinu
  • Lee Su-hyun
  • Rosé
  • Lisa
  • Lee Chan-hyuk
  • Jisoo
Nhóm nhạc
  • Sechs Kies
  • Big Bang
  • AKMU
  • Winner
  • Blackpink
  • Treasure
  • BabyMonster
Nhóm nhỏ
  • GD & TOP
  • GD X Taeyang
Công ty con
The Black Label
  • Zion.T
  • Somi
  • Loren
  • Vince
  • Taeyang
  • Park Bo-gum
YGX
  • Viini
  • Leejung Lee
Diễn viên
  • Cha Seung-won
  • Choi Ji-woo
  • Claudia Kim
  • Jang Hyun-sung
  • Jang Ki-yong
  • Jin Kyung
  • Jung Hye-young
  • Kal So-won
  • Gang Dong-won
  • Kim Hee-ae
  • Kim Ji-soo
  • Kyung Soo-jin
  • Lee Soo-hyuk
  • Lee Sung-kyung
  • Park So-yi
  • Seo Jeong-yeon
  • Son Na-eun
  • Yoo In-na
  • Yoo Seung-ho
  • Lee Ho-jung
Nhà sản xuất
  • Teddy Park
  • Choice37
  • Future Bounce
Cựu nghệ sĩ
  • Jinusean
  • 1TYM
  • Wheesung
  • Big Mama
  • Lexy
  • Gummy
  • Se7en
  • Masta Wu
  • Minzy
  • Park Bom
  • 2NE1
  • Nam Tae-hyun
  • Stephanie Lee
  • Koo Hye-sun
  • Jung Eugene
  • Lee Jong-suk
  • Katie Kim
  • Psy
  • Epik High
  • Hyoni Kang
  • Code Kunst
  • Tablo
  • Go Joon-hee
  • Seungri
  • Oh Sang-jin
  • Yoo Byung-jae
  • Kim Hee-jung
  • B.I
  • One
  • CL
  • Im Ye-jin
  • Kim Sae-ron
  • Lee Hi
  • Wang Ji-won
  • Taebin
  • Hi Suhyun
  • MOBB
  • Nam Joo-hyuk
  • Ahn Young-mi
  • Blue.D
  • Sandara Park
  • Son Ho-jun
  • Anda
  • T.O.P
  • Hwang Seung-eon
  • Jo Hye-joo
  • Bang Ye-dam
  • Daesung
  • iKon
Chuyến lưu diễn
  • Power World Tour
Bài viết liên quan
  • Danh sách đĩa nhạc
  • YGKPlus
  • Thể loại Thể loại
  • x
  • t
  • s
Công ty quản lý tài năng
Quốc tế
  • Agency for the Performing Arts (APA)
  • Creative Artists Agency (CAA)
  • Hybe Corporation
  • ICM Partners
  • JYP Entertainment
  • Keyeast
  • Paradigm Talent Agency
  • SidusHQ
  • SM Entertainment
  • Sony Music Entertainment (SME)
  • The Gersh Agency (TGA)
  • United Talent Agency (UTA)
  • Universal Music Group (UMG)
  • Warner Music Group (WMG)
  • William Morris Endeavor (WME)
  • YG Entertainment
Việt Nam và hải ngoại
Trong nước
  • Big Arts Entertainment (BAE)
  • HT. Production
  • MT Entertainment
  • M-TP Entertainment
  • SpaceSpeakers Group
  • St.319 Entertainment
  • Vietnam Artist Agency (VAA)
  • WEPRO Entertainment
Hải ngoại
  • Trung tâm Asia
  • Trung tâm Làng Văn
  • Trung tâm Mây
  • Trung tâm Thúy Nga
  • Trung tâm Vân Sơn
Ngành người mẫu
Việt Nam
  • Elite Vietnam (Tinh Hoa)
  • PL
  • Lala
  • Venus
  • New Talent
Quốc tế
  • IMG Models
  • DNA Model Management
  • Ford Models
  • NEXT Model Management
  • Wilhelmina Models
  • Stardust Promotion
  • Models 1 Agency
  • Premier Model Management
  • Storm Model Management
  • Elite Model Management
  • Marilyn Agency
  • Louisa Models
  • Munich Models
  • Why Not Model Management
  • Công ty Người mẫu Quốc tế Francina
Chủ đề liên quan
  • Công ty giải trí
  • Công ty quản lý người mẫu
  • Văn phòng diễn giả (Văn phòng luật sư)
  • Bầu sô
  • Nhà quản lý nghệ sĩ
  • Người đại diện tài năng (Văn chương
  • Thể thao)
  • Nhà tổ chức biểu diễn nghệ thuật (Chủ rạp hát
  • Đơn vị sở hữu nhà hát)
  • Công nghệ lăng xê
  • Tìm kiếm và quản lý nghệ sĩ (A&R)
  • Hãng thu âm (Hãng lớn
  • Hãng độc lập)
  • Hãng ghi hình (Danh sách)
  • Hãng phim truyền hình
  • Nhân vật giải trí (Nhật Bản
  • Việt Nam)
  • Đoàn kịch
  • Gánh hát (Gánh xiếc
  • Nhóm hài
  • Vũ đoàn)
  • x
  • t
  • s
K-pop
Làn sóng Hàn Quốc · Nhạc ballad Hàn Quốc · Nhạc hip hop Hàn Quốc · Nhạc rock Hàn Quốc · Trot
Thuật ngữ
  • Công nghệ văn hoá
  • Vòng hoa gạo
  • Thần tượng
  • Người hâm mộ K-pop
  • Sasaeng fan
  • Hợp đồng nô lệ
Nghệ sĩ
  • Nghệ sĩ hoạt động cá nhân
  • Nhóm nhạc thần tượng
    • Nhóm nhạc nam
    • Nhóm nhạc nữ
Sự kiện
  • KCON
Trang web
  • Allkpop
  • Soompi
  • 360kpop
Chương trình âm nhạc
  • Inkigayo (SBS)
  • M Countdown (Mnet)
  • Music Bank (KBS2)
  • Music on Top (JTBC)
  • Pops in Seoul (Arirang TV)
  • Show Champion (MBC Music)
  • Show! Music Core (MBC)
  • The Show (SBS MTV)
  • Simply K-Pop (Arirang TV)
Bảng xếp hạng âm nhạc
  • Gaon Music Chart (album · đĩa đơn)
  • Billboard K-pop Hot 100
Hãng thu âm vànhà xuất bản nổi bật
Công ty
  • B2M Entertainment
  • Blossom Entertainment
  • BPM Entertainment
  • Brand New Music
  • Brave Entertainment
  • C9 Entertainment
  • Coridel Entertainment
  • Cube Entertainment
  • DR Music
  • DSP Media
  • Fantagio
  • FNC Entertainment
  • Happy Face Entertainment
  • Hybe Corporation
    • Big Hit Music
    • Pledis Entertainment
    • Source Music
  • Imagine Asia
    • Blue Star Entertainment
    • Dream Tea Entertainment
    • YMC Entertainment
  • Jellyfish Entertainment
  • JYP Entertainment
  • Kakao Entertainment
    • Play M Entertainment
    • Starship Entertainment
  • Konnect Entertainment
  • Maroo Entertainment
  • MBK Entertainment
  • MNH Entertainment
  • Music&NEW
  • Polaris Entertainment
    • Blockberry Creative
  • RBW
    • WM Entertainment
  • SM Entertainment
    • Mystic Story
    • Label SJ
    • Woollim Entertainment
  • Signal Entertainment Group
    • NH Media
  • Star Empire Entertainment
  • Stone Music Entertainment
    • AOMG
    • Hi-Lite Records
    • 1877 Entertainment
    • MMO Entertainment
    • Swing Entertainment
    • The Music Works
  • TOP Media
  • TS Entertainment
  • YG Entertainment
    • The Black Label
  • Yuehua Entertainment
Đơn vị xuất bản
  • Genie Music
  • iMBC
  • Interpark Music
  • Kakao Entertainment
  • Music&New
  • NHN Bugs
  • Pony Canyon Korea
  • SBS Contents Hub
  • SK Group
    • Dreamus
    • SK Communications
  • Sony Music Korea
  • Soribada
  • Stone Music Entertainment
  • Universal Music Korea
  • Warner Music Korea
  • YG Plus
Lễ trao giải âm nhạc
Chính
  • APAN Music Awards
  • Asia Artist Awards
  • Asia Song Festival
  • Gaon Chart Music Awards
  • Genie Music Awards
  • Golden Disc Awards
  • KBS Gayo Daechukje
  • Korean Music Awards
  • Korean Popular Culture and Arts Awards
  • MBC Gayo Daejejeon
  • Mnet 20's Choice Awards
  • Mnet Asian Music Awards
  • SBS Gayo Daejeon
  • Seoul Music Awards
  • Soribada Best K-Music Awards
  • The Fact Music Awards
Nhạc số
  • Cyworld Digital Music Awards
  • Melon Music Awards

Từ khóa » Phim Của Yg