Những kịch bản này được tính toán dựa trên cơ sở dự báo những tình huống có thể phát sinh của kinh tế thế giới. Tuy nhiên, trong những tình huống khác nhau, chính sách vĩ mô sẽ có những thay đổi nhất định để đối phó với những biến động từ bên ngoài, qua đó sẽ giảm bớt tác động ảnh hưởng, duy trì sự ổn định kinh tế.
Triển vọng kinh tế Việt Nam 2012 và một số nét chủ đạo
Theo Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia, triển vọng kinh tế Việt Nam 2012 được dự báo sẽ có một số nét chủ đạo như sau:
Một là, những bất ổn vĩ mô từ cuối năm 2010 và những tác động phụ của việc thắt chặt chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa tiếp tục có những ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế trong quý I và II, nhưng với mức độ giảm dần nhờ hiệu ứng của việc điều chỉnh chính sách vĩ mô đươc triển khai từ cuối quý I/2011. Các doanh nghiệp dự báo sẽ còn không ít khó khăn trong những tháng đầu năm 2012, và các thị trường bất động sản, chứng khoán tiếp tục trầm lắng trong những quý đầu năm. Dự báo nền kinh tế sẽ có dấu hiệu khá hơn vào nửa sau của 2012 nhờ hiệu ứng của việc cải thiện ổn định kinh tế vĩ mô.
Hai là, lạm phát dự báo sẽ được kiểm soát khá tốt (dưới 10%) cùng với tỷ lệ nhập siêu được kiềm chế (dưới 10% kim ngạch xuất khẩu) tạo điều kiện để giảm sức ép tỷ giá, cân bằng cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia dự báo tỷ giá VND sẽ được điều chỉnh trong khoảng 5-6%. Đây sẽ là những kết quả tích cực chính yếu của kinh tế 2012. Qua đó, thị trường tài chính sẽ có thêm lực đẩy vào cuối năm 2012.
Ba là, thị trường tiền tệ - ngân hàng sẽ tiếp tục đối mặt với những khó khăn về thanh khoản và nợ xấu trong suốt những tháng đầu năm 2012. Thanh khoản là thách thức lớn nhất của hệ thống ngân hàng. Nếu vấn đề thanh khoản sớm được giải quyết, lãi suất ngân hàng sẽ giảm được khoảng 4% (Lãi suất tiền gửi kỳ hạn 1 năm khoảng 11% và lãi suất cho vay dao động khoảng 14%).
Bốn là, do thương mại toàn cầu được dự báo giảm về khối lượng và giá cả, nên kế hoạch tăng kim ngạch xuất khẩu tăng 12-13% của Việt Nam sẽ là thách thức không nhỏ. Tuy nhiên, ảnh hưởng của thương mại thế giới sẽ tác động đến cả xuất khẩu và nhập khẩu; đồng thời chính sách kiểm soát nhập khẩu của Việt Nam tiếp tục được duy trì trong năm 2012 nên xuất khẩu ròng của Việt Nam dự báo sẽ tiếp tục được cải thiện. Nhờ vậy, nhập siêu dự báo sẽ ở mức dưới 10% kim ngạch xuất khẩu.
3 kịch bản kinh tế
Nền kinh tế tăng trưởng quá nóng được chỉ ra là một trong những nguyên nhân cơ bản gây ra lạm phát cao cho Việt Nam trong thời gian qua. Theo như lý giải của UBGSTCQG do tăng trưởng kinh tế trong thời gian qua đã bị đẩy lên quá cao so với năng lực vốn có, kéo theo các nguồn lực bao gồm: Đầu tư công, tín dụng, cung tiền … bị huy động quá mức để tạo ra phần tăng trưởng vượt trên khả năng đó. Hệ quả là thời gian qua, lạm phát Việt Nam thường xuyên ở mức cao và rất dễ tổn thương trước biến động của nền kinh tế thế giới.
Vì vậy, với mục tiêu đưa mức lạm phát 2012 giảm mạnh xuống dưới 10% so với mức 18,13% trong năm 2011, các chỉ tiêu tăng trưởng trong kịch bản kinh tế Việt Nam năm 2012 được UBGSTCQG xây dựng xoay quanh mức sản lượng tiềm năng của nền kinh tế.
Kịch bản tốt
Với tình hình kinh tế thế giới khả quan, nền kinh tế của các thị trường xuất khẩu truyền thống của Việt Namnhư Mỹ, Nhật Bản… dự báo duy trì được mức tăng trưởng như 2011 và có dấu hiệu phục hồi, kinh tế khu vực EU sẽ không quá mức bi quan. Nhờ đó, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam dự báo tăng từ 12-13%; trong khi kim ngạch nhập khẩu dự báo tăng 13-14%; tỷ lệ nhập siêu/xuất khẩu dự báo đạt 11-12% vào năm 2012, tăng so với tỷ lệ 9,9% năm 2011.
Khi nền kinh tế toàn cầu duy trì được mức tăng trưởng, nguồn vốn đầu tư FDI vào Việt Nam được dự báo duy trì ở mức tương đương năm 2011. Vốn FDI dự kiến chiếm khoảng 23% tổng mức đầu tư toàn xã hội, tương đương khoảng 230 nghìn tỷ đồng.
Tổng hợp các yếu tố cấu phần GDP như tiêu dùng nội địa, xuất nhập khẩu và đầu tư, với giả định các nhân tố khác không đổi, tính toán cho thấy với tổng mức đầu tư toàn xã hội tương đương 33,5-33,9% GDP (mức kế hoạch đã được phê chuẩn), tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2012 có thể đạt từ 6-6,3% nếu hiệu suất đầu tư của nền kinh tế có sự cải thiện đáng kể. Nếu không có sự thay đổi về công nghệ để tăng năng suất, hiệu quả thì cần tăng tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực kinh tế dân doanh từ 35,2% năm 2011 lên khoảng 43% tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2012 và giảm tỷ lệ đầu tư khu vực kinh tế nhà nước từ mức 38,9% năm 2011 xuống còn 34% tổng vốn đầu tư toàn xã hội vào năm 2012.
Với tốc độ tăng trưởng GDP từ 6-6,3%, lạm phát duy trì ở mức 8-10% và mức bội chi ngân sách được thông qua cho năm 2012 ở mức 4,8% GDP, theo tính toán của UBGSTCQG, nợ công Việt Nam năm 2012 dự kiến đạt mức 58,2-58,8% GDP.
Tuy nhiên, theo đánh giá của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia, để điều chỉnh cơ cấu đầu tư như nêu trên là một thách thức rất lớn vì lý do: Để tăng tỷ trọng đầu tư của khu vực dân doanh từ 35,2% của năm 2011 lên tới 43% tổng đầu tư toàn xã hội vào năm 2012, theo tính toán của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia, tăng trưởng tín dụng cần đạt trên 25%, cao hơn nhiều so với định mức tăng tín dụng từ 15-17% để kiểm soát lạm phát từ 8-10%; trong khi đó, để đảm bảo an sinh xã hội và tạo nền tảng cho phát triển kinh tế giai đoạn sau, Việt Nam cần tiếp tục quan tâm đầu tư hạ tầng cơ sở, đặc biệt là khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Vì vậy, khó có thể giảm tỷ trọng đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước từ mức 38,9% tổng đầu tư toàn xã hội năm 2011 xuống chỉ còn 34% ngay trong năm 2012.
Như vậy, trong điều kiện chưa tạo được bước đột phá công nghệ để tăng năng suất, hiệu quả đầu tư kinh tế, nếu năm 2012 không có những đột biến về nguồn huy động vốn sản xuất (thông qua nguồn huy động vốn khác ngoài kênh tín dụng, vốn tự có của doanh nghiệp) thì khả năng tăng trưởng GDP ở mức 6-6,3% là khó đạt được.
Bảng: Dự báo triển vọng kinh tế thế giới
và một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô Việt Nam giai đoạn 2012-2013
Chỉ tiêu | 2011 | Triển vọng kinh tế năm 2012 | Triển vọng kinh tế năm 2013 |
Kịch bản tốt | Kịch bản trung bình | Kịch bản xấu |
Thế giới |
Tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu IMF WB | 4% 3,6% | 3,2-4% | 2,4-3,2% | Dưới 2,4% | - 3,6% |
Các nước phát triển | 1,6% | 2,0-2,5% | 1-2% | Dưới 1% | 2,6% |
Các nước đang phát triển | 6,4% | 5 -6% | 4-5% | Dưới 4% | 6,3% |
Tốc độ tăng trưởng thương mại toàn cầu (lượng) | 7,5% | 5,7%-7,5% | 3,5-5,7% | Dưới 3,5% | 7,7% |
Các nước phát triển | - | 4-5% | 3-4% | Dưới 3% | - |
Các nước đang phát triển | - | 7-8% | 6-7% | Dưới 6% | - |
Việt Nam |
Tốc độ tăng trưởng GDP (%) | 5,89 | 6-6,3 | 5,6-5,9 | 5,2-5,5 | 6-6,5 |
Tốc độ tăng lạm phát (%) | 18,13 | 9-10 | 9-10 | 8-9 | 6-7 |
Kim ngạch xuất khẩu (tỷ USD, %) | 96,26 (33,3%) | 12-13% | 8-9% | 5-6% | 15-17% |
Kim ngạch nhập khẩu (tỷ USD, %) | 105,77 (25%) | 13-14% | 7-8% | 5-6% | 12-14% |
Tỷ lệ Nhập siêu/xuất khẩu | 9,9% | 11-12% | 7-8% | 9-10% | 6-8% |
Nguồn: Dự báo của các tổ chức quốc tế và UBGSTCQG.
Kịch bản trung bình
Do tác động của nền kinh tế thế giới (sản lượng giảm khoảng 1% và thương mại giảm khoảng 3-4% so với 2011), tốc độ tăng trưởng xuất, nhập khẩu của Việt Nam năm 2012 dự báo đạt tương ứng 8-9% và 7-8%, tỷ lệ nhập siêu/xuất khẩu theo đó dự báo đạt từ 7-8%. Lượng FDI vào Việt Nam dự báo sẽ thấp hơn một chút so với kịch bản trước, chiếm từ 22-22,5% tổng mức đầu tư toàn xã hội.
Mô hình tính toán của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia cho thấy, với tổng vốn đầu tư, tốc độ tăng thương mại như trên, với cơ cấu đầu tư khu vực kinh tế nhà nước chiếm 36,5-37% và khu vực kinh tế dân doanh chiếm 40,5-41% tổng đầu tư toàn xã hội, tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2012 có thể đạt từ 5,6-5,9%. Theo Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia, đây là kịch bản có nhiều khả năng nhất và các chỉ số, các cân đối cũng mang tính khả thi nhất; mức tăng trưởng này cũng tương đối sát với mức sản lượng tiềm năng hiện tại của Việt Nam. Mô hình tính toán về quan hệ giữa tăng trưởng GDP, bội chi ngân sách và nợ công cho kết quả: với tỷ lệ bội chi ngân sách ở mức 4,8% GDP, nợ công Việt Nam năm 2012 sẽ đạt mức 58,8-59,2% GDP.
Kịch bản xấu
Trong trường hợp xấu nhất, kinh tế thế giới có khả năng rơi vào suy thoái và đạt mức tăng trưởng dưới 2,4%, thương mại thế giới tăng ở mức dưới 3% về khối lượng và giá cả có thể giảm sâu hơn mức dự báo 10%. Điều này sẽ tác động mạnh đến tăng trưởng kinh tế cũng như tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam. Dự báo trong trường hợp này, kim ngạch xuất khẩu chỉ tăng từ 5-6% so với năm 2011. Về nhập khẩu, nhiều khả năng Chính phủ sẽ phải điều chỉnh chính sách vĩ mô, tăng đầu tư nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, ngăn chặn suy giảm kinh tế nên chính sách có phần nới lỏng hơn và vì thế nhập khẩu dự báo tăng 5-6%, theo đó tỷ lệ nhập siêu/xuất khẩu vào khoảng 9-10%. Nguồn vốn FDI vào Việt Nam ước đạt khoảng 10 tỷ USD (tương đương khoảng 21% tổng vốn đầu tư toàn xã hội). Lạm phát dự báo sẽ giảm còn 8-9%.
Suy thoái kinh tế thế giới có thể khuếch đại những điểm yếu nội tại của nền kinh tế Việt Nam (như đã từng xảy ra trong cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2008-2009). Bởi vậy, khi khả năng này xảy ra, cần duy trì đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước nhằm đảm bảo tốc độ tăng trưởng cho nền kinh tế, giảm tối đa những tác động tiêu cực từ bên ngoài. Tỷ trọng đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước cần duy trì ở mức tương đương năm 2011 (38,9%), tỷ trọng đầu tư của khu vực kinh tế dân doanh khoảng 40%. Với những giả định như trên, tính toán của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia cho thấy, tăng trưởng GDP của Việt Nam chỉ đạt từ 5,2-5,5%. Kết hợp với tỷ lệ bội chi ngân sách của năm 2012 được thông qua là 4,8% GDP, tính toán của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia cho thấy, nợ công của Việt Nam năm 2012 sẽ ở mức 59,8-60,4% GDP.
Theo Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia, trường hợp kinh tế thế giới diễn biến bất lợi và thật sự rơi vào suy thoái (tăng trưởng thấp hơn nhiều so với mức 2,4%) sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam không chỉ năm 2012 mà cả trong những năm tiếp theo.
Theo đó, cũng như nhiều nước trên thế giới, Việt Nam cần có biện pháp để chủ động đối phó với nguy cơ này, cụ thể: thay đổi định hướng chính sách theo hướng linh hoạt hơn nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp, tăng an sinh xã hội; nghiên cứu khả năng triển khai gói kích thích kinh tế với những tính toán kỹ lưỡng về quy mô, liều lượng, đối tượng thụ hưởng… (trên cơ sở rút kinh nghiệm việc thực hiện gói kích cầu nhằm đối phó với suy thoái năm 2008-2009).
Nguyễn Tiến